Luận văn Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU. 1

CHưƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HIẾN PHÁP VÀ BẢO VỆ

HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT. 8

1.1. Hiến pháp và các dạng thức vi phạm Hiến pháp . 8

1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật 13

1.3. Những tác động từ phương diện chính trị, kinh tế, pháp lý, xã hội đối

với việc bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật. 21

1.4. Bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và

bài học kinh nghiệm có thể tham khảo ở Việt Nam . 25

Tiểu kết chương 1 . 32

CHưƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT

VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BẢO VỆ HIẾN PHÁP BẰNG PHÁP LUẬT

TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY . 32

2.1. Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong lịch sử và trong

Hiến pháp 2013 hiện hành . 33

2.2. Giải pháp hoàn thiện bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật tại Việt Nam

hiện nay. 67

Tiểu kết Chương 2. 81

KẾT LUẬN. 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 83

pdf93 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 424 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động của HĐND các cấp, nhằm phát huy chức năng cơ quan đại biểu nhân dân của HĐND; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng; giải tán các Hội đồng nói trên trong trƣờng hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân (Điều 100, Hiến pháp năm 1980). Ở CQĐP có HĐND và UBND nhƣng vai trò của HĐND rõ nét hơn, cụ thể hơn trong việc bảo vệ Hiến pháp với thẩm quyền bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật đƣợc tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh ở địa phƣơng; quyết định các biện pháp thi hành chính sách của Nhà nƣớc và nhiệm vụ do cấp trên giao cho; sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của UBND cùng cấp hoặc của HĐND cấp dƣới trực tiếp; trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác của cấp trên ở địa phƣơng. 2.1.1.4. Giai đoạn 1992 – 2012 Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nƣớc (Điều 83). Cụ thể, Quốc hội có thẩm quyền: làm Hiến pháp và 36 sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nƣớc, UBTVQH, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nƣớc, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, TAND tối cao và VKSND tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 84). UBTVQH trong giai đoạn này đƣợc giao nhiều trọng trách trong bảo đảm thi hành Hiến pháp nhƣ: giải thích Hiến pháp; ra pháp lệnh về những vấn đề đƣợc Quốc hội giao; giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám sát hoạt động của Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó (Điều 91). Chính phủ bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân; tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân (Điều 112). TAND có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân (Điều 126). Ở CQĐP, HĐND căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan Nhà nƣớc cấp trên, ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng (Điều 120). Đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trƣởng VKSND và thủ trƣởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Ngƣời bị chất vấn phải trả lời trƣớc HĐND trong thời hạn do luật định (Điều 122). 37 2.1.1.5. Giai đoạn 2013 đến nay Giai đoạn này đƣợc đánh dấu với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, tạo sự thay đổi đáng kể trong cơ chế pháp lý bảo vệ Hiến pháp. Triển khai đƣa Hiến pháp vào đời sống, nhiều VBQPPL đƣợc ban hành đã kịp thời cụ thể hóa, ban hành nhiều nội dung đƣa quy phạm và tinh thần bảo vệ Hiến pháp vào đời sống, tiêu biểu nhƣ: Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015... Với việc ban hành Hiến pháp năm 2013 và các văn bản luật, văn bản dƣới luật, pháp luật về bảo vệ Hiến pháp có sự thay đổi đáng kể về chất và lƣợng, góp phần quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ Hiến pháp năm 2013. 2.1.2. Thực trạng bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật trong Hiến pháp 2013 hiện hành 2.1.2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ Hiến pháp Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội Hiến pháp – với tƣ cách là đạo luật cơ bản của nhà nƣớc, có hiệu lực pháp lý cao nhất, cần thiết phải quy phạm những nội dung để bảo vệ chính nó. Đây sẽ là tiền đề để các văn bản luật, văn bản dƣới luật cụ thể hóa, chi tiết hóa và bảo đảm Hiến pháp đƣợc thực thi trong cuộc sống. Điều 119 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Hiến pháp là luật cơ bản của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý (Khoản 1). Đồng thời giao cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, TAND, VKSND, các cơ quan khác của Nhà nƣớc và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. So với các bản Hiến pháp trƣớc, điểm mới trong Hiến pháp 2013 liên quan đến bảo vệ Hiến pháp là lần đầu tiên Việt Nam đƣa thành nguyên tắc hiến định “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định” (Khoản 2, Điều 119). Thực 38 tế là nghiên cứu cơ chế này còn “chƣa đủ chín” để có thể cho ra đời một mô hình bảo hiến cụ thể (mà việc quy định thành lập cơ quan này trong Hiến pháp có giá trị pháp lý cao nhất). Nhƣng mặt khác, quy định này lại có giá trị nhƣ sự “cài đặt” trong đạo luật cao nhất một nhu cầu/đòi hỏi và cơ sở pháp lý để có thể cho ra đời một mô hình bảo vệ Hiến pháp trong tƣơng lai gần, thông qua một đạo luật riêng [3]. Với tƣ cách là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nƣớc và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nƣớc. Trong số các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động Nhà nƣớc thì giám sát việc tuân thủ Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, giám sát tối cao của Quốc hội đối với Nhà nƣớc trong việc tuân thủ Hiến pháp nhất thiết phải là giám sát mọi cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà nƣớc. Chủ thể chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội đƣợc quy định gián tiếp tại Hiến pháp năm 2013 (Điều 70) và cụ thể hóa tại Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015, cụ thể: Quốc hội giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nƣớc, UBTVQH, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nƣớc và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, Điều 6). Một trong những hậu quả pháp lý tiêu biểu của hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là việc bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp. Điều 70 Hiến pháp năm 2013 trao cho Quốc hội quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nƣớc, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, VKSND tối cao trái với Hiến pháp. Nội dung này đƣợc cụ thể hóa tại Luật Ban hành VBQPPL, theo đó: Quốc hội bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, cơ quan khác do Quốc hội thành lập trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của UBTVQH. Quốc hội bãi bỏ văn bản của UBTVQH trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc (Điều 15). 39 Bên cạnh việc bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, Quốc hội còn có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với ngƣời giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đây là những ngƣời có vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nƣớc từ Quốc hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao. Việc bỏ phiếu tín nhiệm cũng là một trong những phƣơng thức quan trọng để bảo vệ Hiến pháp, tạo ra một cơ chế ngăn ngừa và xử lý những cá nhân có chức vụ quan trọng vi phạm Hiến pháp. Ngoài phƣơng thức bảo vệ Hiến pháp thông qua giám sát tối cao và bỏ phiếu tín nhiệm, để bảo đảm Hiến pháp đƣợc tôn trọng và thực thi nghiêm trong đời sống, pháp luật còn trao cho Quốc hội thẩm quyền ban hành Luật để quy định cơ chế bảo vệ Hiến pháp (Điểm K, khoản 1, Điều 15 Luật Ban hành VBQPPL). Với tƣ cách là cơ quan thƣờng trực của Quốc hội, UBTVQH đƣợc giao một số nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp. Cụ thể bao gồm: i) giải thích Hiến pháp; ii) giám sát việc thi hành Hiến pháp. Giải thích Hiến pháp vừa góp phần triển khai thực hiện Hiến pháp, vừa là một trong những phƣơng thức bảo vệ Hiến pháp hiệu quả trong nhà nƣớc pháp quyền. Theo Khoản 3, Điều 3 Luật Ban hành VBQPPL thì giải thích Hiến pháp là việc UBTVQH làm rõ tinh thần, nội dung của điều, khoản, điểm trong Hiến pháp để có nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng, thống nhất pháp luật. UBTVQH ban hành nghị quyết để quy định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Cụ thể hóa nội dung trên, Luật Tổ chức Quốc hội năm 2015 quy định, UBTVQH tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ủy ban trung ƣơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ƣơng của tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc kiến nghị của đại biểu Quốc hội quyết định việc giải thích Hiến pháp; tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần đƣợc giải thích, UBTVQH giao Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao hoặc Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội xây dựng dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp 40 trình UBTVQH xem xét, quyết định; dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp phải đƣợc Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp với tinh thần và nội dung quy định đƣợc giải thích của Hiến pháp (Điều 49). Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội có thẩm quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp; giám sát hoạt động của Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Kiểm toán nhà nƣớc và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; có quyền đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao trái với Hiến pháp của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất (Khoản 4, Điều 74 Hiến pháp năm 2013). Việc đình chỉ những văn bản này có thể do từ chính UBTVQH hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội. Ngoài ra, UBTVQH có thẩm quyền g của HĐND; quyết định bãi bỏ hoặc theo đề nghị của Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội bãi bỏ nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên (Điều 55 Luật tổ chức Quốc hội năm 2015). Bên cạnh những quy định mới, tiến bộ nhƣ trên, pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội còn nhiều bất cập, trong đó phải kể đến Hiến pháp năm 2013, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 quy định về giám sát của Quốc hội, UBTVQH, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn mang chung chung, chồng chéo, mâu thuẫn; thiếu quy trình, thủ tục cụ thể để thực hiện quyền giám sát. Việc kiểm soát tính hợp hiến của các luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành; tính hợp hiến, hợp pháp của các pháp lệnh, nghị quyết do UBTVQH ban hành chƣa đƣợc cơ quan tƣ pháp kiểm soát, việc kiểm soát hiện nay chỉ mang tính nội bộ hệ thống [27, tr.3]. 41 Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nƣớc cao nhất của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ là thiết chế quan trọng trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và bảo vệ Hiến pháp. Pháp luật hiện hành, từ Hiến pháp đến các văn bản luật và văn bản dƣới luật đều quy định Chính phủ có thẩm quyền tổ chức thi hành Hiến pháp. Trong đó, Chính phủ có quyền ban hành nghị định để quy định các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp. Theo Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, trong tổ chức thi hành Hiến pháp, Chính phủ có thẩm quyền, trách nhiệm: i) ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp của Quốc hội; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các VBQPPL của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng, Thủ trƣởng cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa phƣơng; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp; ii) quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp của Quốc hội; iii) lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp; iv) tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp và báo cáo với Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nƣớc theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ còn đƣợc pháp luật quy định tại các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ về quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng hạn lĩnh vực y tế. Khoản 1 Điều 38 Hiến pháp vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. Một ví dụ điển hình là hiện nay dịch COVID-19 đang đặt ra sức ép rất nặng nề đối với toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, với vai trò là cơ quan quản lý về y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, Luật Phòng, chống bệnh 42 truyền nhiễm năm 2007, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về khám bệnh, chữa bệnh nói chung, thống nhất quản lý nhà nƣớc về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong phạm vi cả nƣớc nói riêng; chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng tổ chức các biện pháp phòng, chống dịch bệnh theo quy định của pháp luật Đây cũng là một biểu hiện quan trọng của pháp luật về trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ. Ngoài ra, trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Chính phủ còn đƣợc thể hiện thông qua các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ với chính quyền địa phƣơng. Theo Hiến pháp năm 2013 thì Chính phủ: lãnh đạo UBND các cấp; hƣớng dẫn, kiểm tra HĐND trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên; tạo điều kiện để HĐND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định (Khoản 5, Điều 96); Thủ tƣớng Chính phủ đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nƣớc cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ (Khoản 4, Điều 98). Các quy định này đƣợc quy phạm cụ thể hơn cùng các biện pháp triển khai trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phƣơng năm 2015 và các VBQPPL chuyên ngành. Mặc dù vậy, với một thiết chế có tầm quan trọng đặc biệt trong thi hành, bảo vệ Hiến pháp nhƣ Chính phủ, pháp luật hiện nay vẫn còn tồn tại, bộc lộ nhiều hạn chế, có thể kể đến nhƣ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong quy trình lập pháp còn chƣa rõ ràng, nhất là trách nhiệm trong việc trình các dự án luật, pháp lệnh chƣa bảo đảm hoặc không trình dự án luật, pháp lệnh đƣợc Quốc hội, UBTVQH giao (điều này đã từng diễn ra, ví dụ Luật Biểu tình); quy định về trách nhiệm trả lời chất vấn, hậu quả pháp lý của việc trả lời chất vấn hiện nay chƣa đầy đủ, không rõ của các thành viên Chính phủ, 43 chƣa có chế tài xử lý cụ thể cho những trƣờng hợp không thực hiện, thực hiện không nghiêm túc các cam kết của thành viên Chính phủ; quy trình, thủ tục ban hành VBQPPL của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, tuy đã có cơ chế kiểm soát từ phía các cơ quan quyền lực nhà nƣớc, các cơ quan hành chính trong cùng hệ thống, nhƣng cơ chế này vẫn tỏ ra kém hiệu quả, đặc biệt là những hoạt động, quyết định mang tính tổ chức, điều hành của hệ thống hành chính nhà nƣớc, những quyết định chính sách, quyết định quy phạm của hệ thống hành chính về cơ bản vẫn chƣa đƣợc kiểm soát theo đúng nghĩa của nó [27, tr.4] Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Tòa án nhân dân Về vị trí, tính chất, thẩm quyền của TAND, Hiến pháp năm 2013 (Điều 102) thì: TAND là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cụ thể hóa và bảo đảm thi hành Hiến pháp, Luật Tổ chức TAND năm 2014 tiếp tục cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, trong đó chú trọng tới nhiệm vụ giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác trong khi thực hiện nhiệm vụ của Tòa án. Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. Một trong những điển hình của TAND trong việc bảo vệ Hiến pháp đó chính là bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân thông qua hoạt động tố 44 tụng. Chẳng hạn, trong lĩnh vực hình sự, Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 khẳng định: Ngƣời bị buộc tội đƣợc coi là không có tội cho đến khi đƣợc chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Để bảo đảm quyền trên của con ngƣời, của công dân và kết án đúng ngƣời, đúng tội, phòng ngừa oan sai, Luật Tổ chức TAND năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy phạm, điều chỉnh nhiều nội dung quan trọng nhƣ trình tự, thủ tục tố tụng, các nguyên tắc tố tụng (đặc biệt là các nguyên tắc trong hoạt động xét xử: bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm; thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bình đẳng trƣớc TAND; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; Trách nhiệm chứng minh tội phạm và việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đƣơng sự;). Bên cạnh đó, quy định pháp luật về bảo vệ Hiến pháp còn nhiều thiếu hụt. Việc kiểm soát tính hợp hiến, hợp pháp của các VBQPPL do hệ thống hành chính nhà nƣớc ở trung ƣơng và chính quyền địa phƣơng ban hành chƣa đƣợc Tòa án kiểm soát, việc kiểm soát trong cơ chế hiện tại ở cũng chỉ do cơ quan quyền lực nhà nƣớc và cơ quan hành chính thực hiện [27]. Hay nói cách khác, Tòa án chƣa có thẩm quyền phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của VBQPPL. Thẩm quyền xử lý các quyết định cá biệt trong các vụ án hành chính còn thấp, bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật chƣa đƣợc chấp hành nghiêm, nhất là từ phía cơ quan hành chính. Hiện nay chúng ta chƣa có một tòa án Hiến pháp để bảo vệ Hiến pháp trƣớc các hành vi vi phạm. Pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của chính quyền địa phương Bảo vệ Hiến pháp, nhƣ đã phân tích, không chỉ đƣợc pháp luật giao cho các cơ quan nhà nƣớc ở trung ƣơng mà các cơ quan nhà nƣớc ở chính quyền địa phƣơng – với tƣ cách là một phận cấu thành của bộ máy nhà nƣớc, cũng là chủ thể quan trọng trong việc bảo đảm thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Theo quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, chính quyền địa phƣơng đƣợc tổ chức ở các đơn vị hành chính của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chức 45 năng quan trọng nhất của chính quyền địa phƣơng tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phƣơng. Khác với các cơ quan nhƣ Quốc hội, Chính phủ hay TAND, hoạt động bảo vệ Hiến pháp của các cơ quan nhà nƣớc ở CQĐP có những đặc thù xuất phát từ vị trí, tính chất, thẩm quyền gắn với địa phƣơng, gắn bó mật thiết với các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Bằng những hoạt động cụ thể, các cơ quan nhà nƣớc ở CQĐP và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp đƣa Hiến pháp vào thực tiễn đời sống và quản lý xã hội theo Hiến pháp, pháp luật. Các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng có 2 thiết chế quan trọng có trách nhiệm, quyền hạn bảo vệ pháp luật nói chung, Hiến pháp nói riêng là HĐND và UBND. Với tƣ cách là cơ quan quyền lực nhà nƣớc ở địa phƣơng, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, HĐND do Nhân dân địa phƣơng bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc Nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên. HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng và việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Pháp luật Việt Nam (trong đó tiêu biểu là Luật Tổ chức CQĐP năm 2015) quy định HĐND có trách nhiệm bảo vệ và tổ chức thi hành Hiến pháp ở địa phƣơng thông qua công tác giám sát. HĐND ở địa phƣơng có thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp; giám sát hoạt động của Thƣờng trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, Ban của HĐND cấp mình; giám sát VBQPPL của UBND cùng cấp và văn bản của HĐND cấp dƣới trực tiếp (trừ thẩm quyền của HĐND cấp xã có một số nội dung hẹp hơn). Hình thức giám sát việc tuân theo Hiến pháp của HĐND đƣợc tiến hành thông qua các hình thức cơ bản nhƣ: i) Xem xét báo cáo công tác của Thƣờng trực HĐND, UBND; TAND, VKSND cùng cấp; ii) Xem xét báo cáo của UBND cùng cấp về tình hình thi hành Hiến pháp, VBQPPL của cơ quan nhà nƣớc cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp; 46 iii) Xem xét văn bản của UBND cùng cấp có dấu hiệu trái với Hiến pháp, các VBQPPL của cơ quan nhà nƣớc cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp; iv) Xem xét trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND, Ủy viên UBND, Chánh án TAND, Viện trƣởng VKSND cùng cấp; v) Thành lập Đoàn giám sát về một vấn đề nhất định khi xét thấy cần thiết và xem xét kết quả giám sát của Đoàn giám sát (Khoản 3, Điều 87 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015). Căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có các quyền yêu cầu UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp ban hành văn bản để thi hành Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản của UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp trái với Hiến pháp, VBQPPL của cơ quan nhà nƣớc cấp trên và nghị quyết của HĐND; ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách nhiệm của ngƣời trả lời chất vấn khi xét thấy cần thiết; miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trƣởng ban, Phó Trƣởng ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và Ủy viên UBND. Là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nƣớc ở địa phƣơng, UBND có thẩm quyền tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phƣơng. Để bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, UBND (trừ UBND cấp xã) có nhiều phƣơng diện hoạt động, trong đó có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản trái pháp luật của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp và văn bản trái pháp luật của UBND, Chủ tịch UBND cấp dƣới trực tiếp. Đình chỉ việc thi hành văn bản trái pháp luật của HĐND cấp dƣới trực tiếp, báo cáo UBND cùng cấp để đề nghị HĐND cùng cấp bãi bỏ. Ngoài ra, Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, các luật chuyên ngành và các văn bản dƣới luật trao cho UBND quyền ban hành các VBQPPL, văn bản cá biệt và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng, đối ngoại nhằm bảo đảm thi hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật ở địa phƣơng. 47 Về hạn chế, Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức CQĐP, các VBQPPL chuyên ngành chƣa bảo đảm phân cấp, phân quyền cho HĐND và UBND các cấp hoặc có phân cấp, phân quyền nhƣng cơ chế để thực hiện không thuận lợi. Pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ƣơng với địa phƣơng và nội bộ địa phƣơng còn chồng chéo, mâu thuẫn, chƣa phát huy hiệu quả trong việc bảo đảm thi hành, bảo vệ Hiến pháp ở địa phƣơng. Bên cạnh đó, nhiều thẩm quyền của HĐND mang tính hình thức, không có cơ sở bảo đảm, nhất là giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản, hành vi của UBND. 2.1.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội Công tác thực hiện pháp luật về bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong thời gian qua đã có nhiều thành tựu với những nội dung, phƣơng thức đa dạng. Sơ kết 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 (2014-2019) cho thấy các cơ quan đã ban hành kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp 2013 nghiêm túc. Theo đó, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nƣớc, Chính phủ, TAND tối cao, VKSND tối cao, Kiểm toán Nhà nƣớc và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đều xác định triển khai thi hành Hiến pháp là nhiệm vụ trọng tâm, cần ƣu tiên và tập trung chỉ đạo thực hiện xuyên suốt, đồng bộ. Từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành đến nay, cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_bao_ve_hien_phap_bang_phap_luat_o_viet_nam_hien_nay.pdf
Tài liệu liên quan