Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả luôn luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả lại càng phức tạp càng phức tạp do việc mua bán diễn ra giữa các khu vực khác nhau, trong một thời gian dài và các chính sách thuế khác nhau. Nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường và bao gồm công việc như: nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng tới nó, các loại giá.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị giao thông vận tải ở Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội - TRACIMEXCO Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đến cho chúng ta cơ hội phát triển những ngành tiềm năng, là động lực ban đầu để nâng cao xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao, mẫu mã phong phú, dần dần hội nhập vào thị trường quốc tế.
3. Các chính sách nhập khẩu ở nước ta hiện nay.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đổi mới các chính sách nhập khẩu sao cho phù hợp với tình hình hiện tại. với mục tiêu đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động nhập khẩu nói riêng và các hoạt động ngoại thương, kinh tế đối ngoại nói chung là:
- Quán triệt bài học kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại trong hoạt động.
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu tức là không chỉ chạy theo mục đích lợi nhuận mà bất chấp, bỏ qua những lợi ích xã hội mà ngược lại phải kết hợp một cách hài hoà các lợi ích. Ví dụ như thu lợi nhuận nhưng cũng phải tạo ra công ăn việc làm, nâng cao uy tín và địa vị của đất nước trên thương trường quốc tế.
Những quan điểm này được cụ thể hoá trong các nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu sau:
a. Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao:
Thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như mỗi doanh nghiệp phải:
- Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
- Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư, thiết bị sản xuất và đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng xuất khẩu.
- Nghiên cứu thị trường để nhập được hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi, nhanh chóng phát huy tác dụng, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
b. Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại:
c. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu.
Đây chính là những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Đây cũng được hiểu như là cách xử sự hay đúng hơn là những quy tắc thực hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của xã hội cũng như của các doanh nghiệp.
* Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong những năm tới:
Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2000 và những nguyên tác cơ bản của chính sách nhập khẩu. Chính sách nhập khẩu của nước ta trong những năm tới là:
- Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất (xăng dầu, phân bón, sắt thép, bông, dụng cụ phụ tùng), hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu. Hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ.
- Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc tiên tiến, hiện đại, đổi mới công nghệ. Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ để chế biến hàng xuất khẩu.
4. Tổng quát về tình hình nhập khẩu của nước ta trong những năm qua.
Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác là vận dụng một trong những bài học kinh nghiệm quí báu rút ra từ thực tiễn nước ta trong những năm qua. Tại đại hội VI Ban chấp hành Trung ươngĐảng đã nhấn mạnh "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá XHCN của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, đều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
Nền sản xuất xã hội nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn quốc tế hướng vào nước ta vừa làm kinh tế, vừa hỗ trợ giúp đỡ thì ta sẽ có điều kiện cân đối được xuất nhập khẩu, tiến lên có "xuất siêu" và như vậy là có được tích luỹ cho sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân vững mạnh thì uy tín chính trị cao và có điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loaị. Trong điều kiện của thế giới hiện đại khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết và khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một trình độ cao, trở thành một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển của nền kinh tế, cho phép có thể phân chia các giai đoạn của quá trình sản xuất thành những khâu khác nhau và phân bố ở những vị trí cách nhau hợp lý thì không một nước nàocó thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập tách khỏi mối quan hệ cũng co lợi với thế giới bên ngoài. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính sách của mình. Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại đối với nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế của đất nước cũng như phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp.
Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa phải là nhiều song chúng ta cũng thấy được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm ngày một tăng.
Bảng 1: Kim ngạch XNK Việt Nam từ năm 1991
Năm
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Xuất khẩu
2.087
2.581
2.989
3.600
5.300
7.800
Nhập khẩu
2.338
2.541
2.879
4.500
7.500
8.150
Cán cân XNK
-251
40
-890
-900
-2.200
-950
Tổng kim ngạch
4.425
5.122
5.868
8.100
18.800
15.350
Chú thích: Qua bảng trên ta thấy kim ngạch XNK nói chung và nhập khẩu nói riêng tăng nhanh bình quân trên 20% môic năm thời kỳ từ 1994 tới nay. Cũng trong thời kỳ này tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng chiếm trung bình 16%, nhập máy móc thiết bị giảm, nhưng tỉ trọng nguyên vật liệu vẫn còn quá lớn, trung bình là 60% đặc biệt là xăng dầu, và vật liệu xây dựng thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước châu á - Thái Bình Dương. Cho đến nay tuy vẫn là nước "nhập siêu" nhưng chênh lệch xuất nhập khẩu ngày càng được thu hẹp.
5. Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp nhưng trong thực tế, do tác động của điều kiện kinh doanh và sự năng động sáng tạo của người kinh doanh mà đã tạo ra nhiều hình thức nhập khẩu đa dạng khác nhau. Có thể kể ra ở đây một vài hình thức nhập khẩu thông dụng đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
a. Nhập khẩu tư doanh:
Hoạt động nhập khẩu tư doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng phương hướng, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
b. Nhập khẩu đổi hàng:
- Nhập khẩu đổi hàng: Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại nghiệp vụ chủi yếu của buôn bán đối lưu. nó là một hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu, thanh toán không dùng tiền mà là hàng hoá, ở đây, mục đích của nhập hàng không phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất được hàng, thu lãi từ hoạt động xuất.
c. Nhập uỷ thác:
- Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập hàng theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của been uỷ thác và được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
d. Nhập khẩu liên doanh:
- Nhập khẩu liên doanh: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhấtmột doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi hay cùng chịu lỗ.
e. Nhập khẩu tái xuất:
- Nhập khẩu tái xuất: là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu và thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái xuất. Vậy kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là mua hàng của một nước (nước xuất khẩu ) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu ) nhằm mục đích kiếm lời, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam trong một thời gian nhất định rồi tái xuất mà không qua gia công chế biến.
Trên đây là các hình thức nhập khẩu phổ biến ở nước ta, căn cứ vào tình hình của mỗi doanh nghiệp mà các doanh nghiệp lựa chọn hình thức phù hợp.
II. nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song việc mua hàng ở đây có những nét riêng phức tạp hơn mua bán trong nước: như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân thủ các tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của địa phương. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, đối tác, tiến hành giao dịch đàm phán, ký két hợp đồng và tổ chức thực hiện hợp đồng. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được những lợi thế đảm bảo cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao nhất. Như vậy cho dù nhập khẩu hình thức nào đi nữa thì các bước tiến hành nhập khẩu ở các doanh nghiệp xuất khẩu đều bao gồm các trình tự sau:
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch.
Nghiên cứu thị trường bao gồm những bước sau:
a. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu:
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu để tiến hành nhập đúng chủng loại mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết các mặt hàng nhập khẩu trước hết căn cứ vào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, tính thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như: công cụ, đặc tính quy cách, phẩm chất mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, khả năng sản xuất, các dịch vụ kèm theo v.v…
Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa phải được tính đến, đó là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. trong nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ là tổng số tiền bản tệ có thể thu được khi chỉ ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ suất ngoại tệ mặt hàng đó (VND/USD) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì việc chọn mặt hàng nhập khẩu là hiệu quả. Ngoài ra, việc lựa chọn hàng hoá nhập khẩu còn phải dựa vào kinh ngiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước, khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nghiên cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả năng cung cấp của nhà sản xuất.
Nghiên cứu thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường, được thể hiện qua sự biến động của nhu cầu và khả năng sản xuất hàng hoá. Từ đó, người nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt vấn đề có liên quan đến thị trường. Đối với người nhập khẩu tìm hiểu dung lượng thị trường là rất quan trọng.
Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo tình hình do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong thời gian nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng thị trường có thể chia làm 3 nhóm, căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng với thị trường.
* Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ:
Đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới đặc biệt là các tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tói tất cả các thị trường, đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất. Sự ảnh hưởng này có thể phạm vi thế giới hoặc khu vực. Khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường bị co hẹp còn ngược lại thì dung lượng thị trường mở rộng.
Như đã nói ở trên một nhân tố nữa làm dung lượng thị trường thay đổi có tính chất vhu kỳ là tính thời vụ của sản xuất. Nhân tố này ảnh hưởng tới dung lượng thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá ở phạm vi, mức độ khác nhau.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường: Các nhân tố thuộc nhóm này tương đối nhiều dưới đây là một số nhân tố cơ bản:
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất và nhu cầu về hàng hoá cũng được mở rộng, có nghĩa là dung lượng thị trường cũng thay đổi. Đặc biệt đối với máy móc thiết bị, nhu cầu nhập khẩu ở các nước kém phát triển không ngừng tăng lên, làm ảnh hưởng tới dung lượng thị trường.
- Các chính sách của Nhà nước và tập đoàn lũng đoạn (Tập đoàn sản xuất lớn) .
- Thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường: bao gồm các hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung và cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, động đất, bão lũ, hạn hán… Các yếu tố về chính trị xã hội như đình công v.v…
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của dung lượng thị trường. Khi nghiên cứu phải thấy rõ nhân tố nào có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, giúp cho nhà kinh doanh xuất nhậpddeef ra các quyết định kịp thời, nhanh chóng đạt hiệu quả cao nhất.
c. Lựa chọn đối tượng giao dịch
trong Thương mại Quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá. Lựa chọn đối tượng giao dịch bao gồm vẫn đề lựa chọn nước để giao dịch và lựa chọn thương giao dịch.
- Khi chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước chúng ta cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất của nước đó, khả năng và chất lượng hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thương mại của nước đó.
- Chọn thương nhân để giao, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn thương nhân bao gồm: quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh doanh của họ, khả năng vốn và cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh doanh của họ.
d. Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu:
Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Giá cả luôn luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị trường.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả lại càng phức tạp càng phức tạp do việc mua bán diễn ra giữa các khu vực khác nhau, trong một thời gian dài và các chính sách thuế khác nhau. Nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị trường và bao gồm công việc như: nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng tới nó, các loại giá.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với loại hàng hoá nhất định trên thị trường thế giới và là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Xu hướng biến động giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp nhưng nói chung có tính tạm thời. Giá cả trên thị trường thế giới luôn biến động do các nguyên nhân sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có quy luật của nền kinh tế, là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng hoá.
+ Nhân tố lũng đoạn: Làm xuất hiện nhiều mức giá của cùng một loại hàng trên các thị trường khác nhau thậm chí trên cùng một thị trường.
+ Nhân tố cạnh tranh: Làm cho giá cả biến động theo xu hướng khác nhau tuỳ thuộc đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán.
+ Nhân tố cung cầu: ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hoá.
+ Nhân tố thời vụ: Giá cả biến động theo từng mùa vụ.
Ngoài ra còn các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của giá cả hàng hoá như lạm phát, các chính sách của Nhà nước, tình hình chính trị xã hội.
Qua trên khi định giá nhập khẩu cho một loại hàng hoá, chúng ta cần phải tham khảo giá xuất khẩu mặt hàng đó đi các thị trường khác, cước phí vận tải… và với mức giá đó cộng với các chi phí có liên quan liệu có phù hợp với thị trường trong nước hay không.
Tóm lại qua nghiên cứu những nhân tố trên đây cho phép chúng ta biết rõ về thị trường và quy luật vận động của nó. Điều cần lưu ý trong quá trình nghiên cứu thị trường và phân tích thông tin thị trường chúng ta nên lựa chọn cho mình thị trường trọng điểm và lựa chọn kinh doanh mặt hàng có hiệu quả nhất. Đồng thời chúng ta sắp xếp thứ tự ưu tiên cho từng thị trường đối với từng mặt hàng cụ thể để sau này chúng ta có lựa chọn đối tác giao dịch phù hợp với mình và lựa chọn mặt hàng kinh doanh đảm bảo thực hiện được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
2. Đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá
a. Đặt hàng và hỏi hàng trong thương mại quốc tế:
- Đặt hàng là lời đề nghị của nhà nhập khẩu gửi cho nhà xuất khẩu biểu thị muốn mua hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán.
- Chào hàng là lời đề nghị của nhà xuất khẩu gửi cho nhà nhập khẩu thể hiện ý định muốn bán theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng và phương thức thanh toán. Đây là các lời đề nghị ký kết hợp đồng, hai bên chưa có gì ràng buộc với nhau.
b. Đàm phán và ký kết hợp đồng
Sau khi nhận được thủ tục chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời từ phía bên kia, hai bên tổ chức đàm phán, thương lượng để đi đến một thoả thuận chung về điều mua bán và tiến hành ký kết hợp đồng.
b1. Đàm phán: là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh để đi đến thống nhất ký hợp đồng. Trong Thương mại Quốc tế thường có 3 hình thức đàm phán sau:
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Mỗi hình thức đàm phán đều có ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp. Chẳng hạn trong trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị đòi hỏi phải có kinh nghiệm về kỹ thuật và nên áp dụng hình thức đàm phán trực tiếp là tốt nhất.
b2. Các bước đàm phán trong nhập khẩu bao gồm:
- Hỏi giá
- Chào hàng (phát giá)
- Hoàn giá (mặc cả)
- Chấp nhận
- Xác nhận
b3. Hợp đồng kinh tế về nhập khẩu hàng hoá (hau hợp đồng nhập khẩu)
Hợp đồng kỹ thuật ngoại thương là sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác nhau trong đó một bên gọi là bên bán (hay bên xuất khẩu ) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua (hay bên nhập khẩu) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn phải thiết lập văn bản hợp đồng sao cho có cơ sở pháp lý cụ thể để tạo điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia nàysang quốc gia khác và làm căn cứ cho việc xác định lỗi (trách nhiệm) khi có tranh chấp xảy ra.
* Hợp đồng kinh tế ngoại thương có vai trò rất quan trọng vì:
+ Đây là bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia ký kết.
+ Đây là bằng chứng để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
+ Hợp đồng kinh tế ngoại thương tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống kê, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng.
* Đặc điểm của hợp đồng kinh tế ngoại thương:
+ Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau.
+ Hàng được chuyển từ nước này sang nước khác
+ Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại lệ đối với một trong hai bên ký kết hợp đồng.
* Trong buôn bán quốc tế có thể có nhiều phương thức ký kết hợp đồng khác nhau:
+ Hai bên cũng ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản)
+ Người mua xác nhận (bằng văn bản) là người mua đã đồng ý với các điều kiện và điều khoản của một chủ chào hàng tự do nếu người mua viết dùng thủ tục cần thiết và trong thời hạn hiệu lực của thư chào hàng.
+ Người bán xác nhận (bằng văn bản) đơn đặt hàng của người mua trong thời hạn hiệu lực của đơn đặt hàng.
+ Trao đổi bằng thư xác nhận đạt được những điều thoả thuận trong đơn đặt hàng trước đây của hai bên (nêu rõ những điều kiện đã được thoả thuận).
Hợp đồng chỉ có thể coi như đã ký kết chỉ trong trường hợp các bên đã ký vào hợp đồng. Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật và có đủ thẩm quyền.
* Nội dung của hợp đồng mua bán ngoại thương bao gồm những diều khoản chính sau:
+ Tên hàng
+ Số lượng và cách xác định. Đặc biệt lưu ý tới từng loại hàng, để xác định số lượng cho chuẩn xác (thành phần, mức hao hụt tự nhiên…)
+ Qui cách, phẩm chất và cách xác định.
+ Đóng gói, bao bì mã ký hiệu phải phù hợp với hàng hoá.
+ Thời hạn, phương tiện và địa điểm giao hàng.
+ Giá cả, giá trị, điều kiện giao hàng.
+ Phương thức thanh toán và chứng từ thanh toán.
+ Bảo hiểm.
+ Phạt và bồi thường thiệt hại
+ Tranh chấp và giải quyết tranh chấp.
+ Bảo hành, khiếu nại.
+ Kiểm tra và giám định hàng hoá, xuất khẩu
+ Trường hợp bất khả kháng.
+ Các điều khoản khác.
c. Tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Việc tổ chức thực hiện hợp đồng nhập khẩu bao gồm các bước sau:
c1. Xin giấy phép nhập khẩu:
Xin giấy phép nhập khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến hành các khâu tiếp theo trong quá trình nhập khẩu hàng hoá, nếu hàng hoá có trong nghị định thư thì không cần phải xin phép. Hiện nay, việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu được qui định như sau:
- Bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng mậu dịch.
- Tổng cục Hải quan cấp giấy phép hàng phi mậu dịch.
* Hồ sơ xin cấp giấy phép bao gồm:
+ Đơn xin phép
+ Phiếu hạn ngạch
+ Bản sao hợp đồng đã ký kết với nước ngoài hoặc bản sao L/Cư
Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh để xuất nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng với một nước nhất định, chuyên trở bằng phương thức vận tải và giao nhận tại một địa điểm nhất định.
c2. Mở L/C: Nừu là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bên mua phải làm thủ tục mở L/C khi bên bán yêu cầu. L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C. Các đặc điểm của L/C xin trình bày thêm ở phần thanh toán.
c3. Thuê tầu chỏ hàng (Hoặc uỷ thác thuê tàu)
Trong trường hợp nhập khẩu FOB chúng ta phải tiến hành thuê tàu dựa vào các căn cứ sau đây:
+ Những điều khoản của hợp đồng
+ Đặc điểm của hàng hoá mua bán
+ Điều kiện vận tải.
Tuỳ vào khối lượng và đặc điểm hàng hoá cần chuyên chở mà lựa chọn thuê tàu cho phù hợp, đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng. Chẳng hạn đối với hàng hoá có khối lượng nhỏ thường thuê tàu chợ, hàng có khối lượng lớn, phức tạp phải thuê tầu chuyến. Hiện nay do điều kiện về tàu của chúng ta rất hạn chế và việc thuê tàu nước ngoài đối với doanh nghiệp Việt Nam không dễ lắm nên chúng ta thường nhập khẩu theo điều kiện CIF.
c4. Mua bảo hiểm:
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp rủi ro và tổn thất. Bởi vậy, trong kinh doanh Thương mại Quốc tế, bảo hiểm đường biển là loại hình bảo hiểm phổ biến nhất. Các đơn vị kinh doanh khi mua bảo hiểm phải làm một hợp đồng bảo hiểm với Công ty bảo hiểm. Tuỳ thuộc vào đặc điểm và tính chất của hàng hoá, điều kiện vận chuyển mà mua bảo hiểm chuyến hay bảo hiểm bao(một khoảng thời gian nhất định).
c5. Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để nhập khẩu hay xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ quản lý hành vi mua - bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn buôn lậu: Việc làm thủ tục hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau:
+ Khai báo hải quan: chủ hàng phải kê khai chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải quan để cơ quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ (giấy phép xuất nhập khẩu, hợp đồng mua bán…)
+ Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá phải được xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. Hải quan đối chiếu h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KQ28.DOC