DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT . 2
DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ . 3
LỜI MỞ ĐẦU . 4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
BẮT NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM . 10
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn và biện biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
trong tố tụng hình sự Việt Nam. 10
1.2 Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời . 16
1.3. Biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến năm 2003. . 21
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG. . 29
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp ngăn
chặn bắt ngƣời. 29
2.2. Thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng . 56
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT NGƢỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM. . 68
3.1. Các yêu cầu bảo đảm thi hành đúng biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
trong tố tụng hình sự Việt Nam. 68
3.2. Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
trong tố tụng hình sự . 80
KẾT LUẬN. 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 95
37 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 678 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp ngăn chặn bắt người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y định những căn cứ áp dụng BPNC để bảo đảm cho hoạt động
của những cơ quan tiến hành tố tụng đƣợc thuận lợi trong việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới
loại trừ hiện tƣợng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội. Căn cứ vào mục đích
của chúng, có thể chia thành ba nhóm sau:
- Nhóm 1: Gồm những biện pháp nhằm mục đích ngăn
chặn tội phạm, ngăn ngừa ngƣời có hành vi phạm tội bỏ
trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án nhƣ:
Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bảo lĩnh và
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
- Nhóm 2: Gồm những biện pháp bảo đảm cho việc
thu thập và ghi nhận chứng cứ nhƣ: Khám xét ngƣời, khám
xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm hiện trƣờng,
xem xét dấu vết trên thân thể...;
- Nhóm 3: Gồm những biện pháp bảo đảm thuận lợi
cho quá trình tiến hành tố tụng đƣợc diễn ra bình thƣờng và
thuận lợi nhƣ: Kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, ngƣời
bị kết án, dẫn giải ngƣời làm chứng, những biện pháp xử lý
do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với ngƣời có
hành vi vi phạm nội quy phiên tòa [66, tr 193-194].
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có những khái niệm khác
nhau về biện pháp ngăn chặn.
Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp ngăn chặn là:
Biện pháp cƣỡng chế về mặt TTHS áp dụng khi có
đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc ngƣời chƣa bị khởi tố
trong trƣờng hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn
12
chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp
tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản
trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [73, tr.69].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trƣờng Đại học Luật Hà Nội đƣa
ra khái niệm:
BPNC là biện pháp cƣỡng chế trong TTHS đƣợc áp
dụng đối với bị can, bị cáo, ngƣời bị truy nã hoặc đối với
những ngƣời chƣa bị khởi tố (trong trƣờng hợp khẩn cấp hoặc
phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh
pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án hình sự [66, tr193].
Có thể thấy những khái niệm trên đã phản ánh đƣợc những dấu hiệu
đặc trƣng của BPNC. Những khái niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội
dung những quy phạm pháp luật tại Điều 79 BLTTHS năm 2003, cũng nhƣ
thực tiễn áp dụng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Nhằm xây dựng một khái niệm hoàn chỉnh trong đó bao hàm những
dấu hiệu đặc trƣng nhƣ: căn cứ áp dụng, mục đích áp dụng, thẩm quyền áp
dụng, đối tƣợng áp dụng. Mọi hành vi áp dụng BPNC không đúng đối tƣợng,
thẩm quyền, căn cứ, cũng nhƣ thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật.Tác giả
xin đƣa ra khái niệm:
BPNC là những biện pháp cưỡng chế TTHS được quy định trong
BLTTHS do người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật TTHS áp dụng
đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người phạm tội quả tang hoặc người bị
nghi là phạm tội khi có căn cứ do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn họ tiếp
tục phạm tội, bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự.
BLTTHS năm 2003 quy định những BPNC gồm: Bắt ngƣời (bốn
trƣờng hợp bắt: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt ngƣời trong trƣờng hợp
13
khẩn cấp; bắt ngƣời phạm tội quả tang; Bắt ngƣời có lệnh truy nã); Tạm giữ;
Tạm giam; Cấm đi khỏi nơi cƣ trú; Bảo lĩnh; Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm. Mỗi BPNC có những quy định cụ thể về đối tƣợng, thẩm quyền, thủ
tục áp dụng, do đó tùy từng trƣờng hợp để áp dụng BPNC để đạt hiệu quả
trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2 Khái niệm về biện pháp ngăn chặn bắt người
Theo Từ điển Luật học thì:
Bắt là một trong những biện pháp ngăn chặn mà
CQĐT, Viện kiểm sát (VKS) hoặc Tòa án (TA) áp dụng
khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội
cũng nhƣ khi thấy cần thiết để đảm bảo thi hành án [73,
tr 44].
Bắt ngƣời trong TTHS là giữ ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, không
cho ngƣời đó tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, đề phòng ngƣời đó bỏ trốn
hoặc gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án.
Hoạt động bắt ngƣời luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị,
xã hội vì bắt ngƣời đúng hay không đúng các quy định của pháp luật có liên
quan và ảnh hƣởng đến những quyền cơ bản của công dân: Quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự,
nhân phẩmcủa công dân, liên quan đến đƣờng lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nƣớc.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bắt ngƣời nhƣ vật nên thời gian
trƣớc đây Nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn bản pháp luật TTHS quy định chi
tiết về việc bắt ngƣời nhƣ: Luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc luật số
002-SLT ngày 18/6/1957; Sắc luật số 02-SL ngày 15/3/1976; Bộ luật TTHS
năm 1988-Bộ luật TTHS đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. BPNC bắt ngƣời một chế định pháp lý quan trọng trong TTHS nƣớc ta.
Việc quy định và thi hành đúng đắn BPNC bắt ngƣời là bảo đảm rất quan
14
trọng cho việc thực hiện tốt nhiệm vụ của TTHS là phát hiện nhanh chóng, xử
lý kịp thời và công minh ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, không để lọt
ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, ngăn không cho ngƣời phạm tội
tiếp tục phạm tội hoặc phạm tội mới; đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Trong khoa học luật TTHS bắt ngƣời đƣợc nhiều tác giả nghiên cứu
và có những quan niệm, ý kiến khác nhau, cụ thể:
Ths Nguyễn Hữu Huân cho rằng: “Bắt ngƣời là BPNC có tính cƣỡng
chế nghiêm khắc, vì vậy việc bắt ngƣời nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ,
trình tự, thủ tục rất chặt chẽ mà pháp luật quy định” [40, tr5].
Theo quan niệm của Ths.Nguyễn Mai Bộ:
Bắt ngƣời là giữ ngƣời phạm pháp lại, không cho tiếp
tục tự do hoạt động, chặn đứng hành động phạm tội đề phòng
ngƣời đó lẩn trốn, tự sát, tiêu hủy chứng cứ hoặc gây trở ngại
cho việc điều tra. Bắt ngƣời là một trong những biện pháp
cƣỡng chế cần thiết nhất của Nhà nƣớc để trấn áp, ngăn chặn
những hành động phạm tội Bắt ngƣời là một trong những
BPNC do CQĐT, VKS, TA áp dụng đối với bị can, bị cáo và
có thể đối với ngƣời chƣa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm,
ngăn ngừa việc ngƣời phạm tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm
cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành hình sự đƣợc
thuận lợi và đúng pháp luật [5, tr31-32].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đƣa ra khái
niệm:
BPNC bắt ngƣời là BPNC trong TTHS đƣợc áp dụng
đối với bị can, bị cáo, ngƣời đang bị truy nã và trong trƣờng
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với
ngƣời chƣa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn
hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật,
15
tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự. [66, tr200].
Quan điểm nhƣ trên về BPNC bắt ngƣời trong TTHS đã đƣa ra đƣợc
những dấu hiệu đặc trƣng của của BPNC bắt ngƣời nhƣng chƣa đƣa ra chủ thể
tiến hành BPNC bắt ngƣời và cho rằng một trong những mục đích của bắt
ngƣời là tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự.
Còn theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trung tâm Đào tạo từ
xa Đại học Mở Hà Nội:
Bắt ngƣời là BPNC trong TTHS do CQĐT, VKS, TA
áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với ngƣời chƣa bị
khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa việc ngƣời phạm
tội trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự đƣợc thuận lợi và đúng pháp luật
[65, tr.214].
Quan điểm nhƣ trên về BPNC bắt ngƣời trong TTHS là chƣa đƣa ra
đƣợc hết các đối tƣợng áp dụng nhƣ ngƣời bị truy nã.
Từ những phân tích trên, tác giả xin đƣa ra khái niệm BPNC bắt ngƣời
trong TTHS nhƣ sau:
BPNC bắt người là BPNC trong TTHS do cơ quan, người có thẩm
quyền theo luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi
tố; người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn
cứ do luật định, nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án.
BPNC bắt ngƣời không phải là biện pháp trừng phạt của pháp luật đối
với ngƣời phạm tội mà BPNC của TTHS đƣợc áp dụng để tƣớc bỏ điều kiện
gây ra tội phạm, chặn đứng hành vi phạm tội và hành vi trốn tránh pháp luật
của ngƣời phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của những cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
16
Xuất phát từ các diễn biến của tình hình phạm tội, từ
yêu cầu thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, yêu cầu tăng cƣờng pháp chế và vấn đề bảo đảm các
quyền cơ bản của công dân, có chọn lọc các quy định của
BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 quy định ba
trƣờng hợp bắt ngƣời cụ thể với những nội dung, thẩm
quyền và thủ tục khác nhau, ba trƣờng hợp bắt, đó là:
- Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
- Bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp;
- Bắt ngƣời phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã [66,
tr201-202].
Căn cứ vào đối tƣợng bị bắt, có thể chia các biện pháp bắt ngƣời
thành các loại: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt ngƣời trong trƣờng hợp
khẩn cấp; Bắt ngƣời đang phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và bắt một
số đối tƣợng đặc biệt” [4, tr.55].
1.2 Những yêu cầu và vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời
1.2.1 Những yêu cầu của biện pháp ngăn chặn bắt người.
“Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những
giá trị cao nhất trong xã hội cần phải đƣợc bảo vệ trƣớc hết và với mức độ cao
nhất trong tất cả các lĩnh vực của đời sống nhà nƣớc và đời sống xã hội, trong
đó có cả lĩnh vực tƣ pháp hình sự” [71, tr17]. Chính vì vậy, BPNC bắt ngƣời
đƣợc quy định rất chặt chẽ trong BLTTHS, là cơ sở cho hoạt động bắt ngƣời
trên thực tiễn, tránh vận dụng biện pháp bắt ngƣời một cách tuỳ tiện, dẫn đến
bắt oan ngƣời vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt trái thẩm quyền.
a, Yêu cầu chính trị
Bắt ngƣời luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị - xã hội, bắt
ngƣời đúng hay không đúng quy định của pháp luật, bắt oan sai có ảnh hƣởng
trực tiếp đến những quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đƣờng lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc. Hiện nay, có rất nhiều những
17
thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nƣớc đang tìm mọi cách để chống
phá Nhà nƣớc ta.
Hoạt động bắt ngƣời phải đảm bảo tốt cho nhiệm vụ chính trị của Đảng
và Nhà nƣớc và của địa phƣơng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển
của đất nƣớc.
Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và việc áp dụng
BPNC bắt ngƣời trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều nhằm mục đích
bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Xuất phát từ yêu cầy này,
Đảng, Nhà nƣớc đã có các hƣớng dẫn, chỉ đạo những hoạt động bắt ngƣời liên
quan đến các đối tƣợng có ảnh hƣởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế và xã
hội. Khi tiến hành áp dụng BPNC bắt ngƣời đối với những đối tƣợng này
thƣờng tạo ra những luồng dƣ luận, ảnh hƣớng đến những vấn đề nhạy cảm về
chính trị, kinh tế dễ bị những thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, tuyên truyền
nhằm làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nƣớc.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cần vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật về các chỉ đạo
hƣớng dẫn của Đảng và Nhà nƣớc về BPNC bắt ngƣời với những đối tƣợng
đặc biệt. Đồng thời, xây dựng kế hoạch hạn chế những tiêu cực xảy ra khi tiến
hành.
Bb,Yêu cầu về pháp luật
Điều 6, BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai có thể bị bắt nếu
không có quyết định của TA, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trƣờng
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ ngƣời phải theo đúng quy định
của bộ luật này”[48, Điều 6].
Nhƣ vậy, để đảm bảo bắt đúng đối tƣợng, BPNC bắt ngƣời đƣợc quy
định rất chặt chẽ trong BLTHS đây là cơ sở cho hoạt động bắt trên thực tiễn,
tránh vận dụng biện pháp bắt một cách tuỳ tiện, dẫn đến bắt oan ngƣời vô tội,
bắt không đúng thủ tục, bắt trái thẩm quyền.
18
Trong quá trình tiến hành cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố
tụng cần có tài liệu, chứng cứ cần thiết chứng minh rằng họ là đối tƣợng bị áp
dụng BPNC bắt ngƣời. Nếu bắt ngƣời không đúng sẽ gây tác hại nhiều mặt
nhƣ xâm phạm quyền con ngƣời và quyền tự do thân thể của công dân, làm
giảm uy tín của nhà nƣớc và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang
trong dƣ luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và ngoài nƣớc
xuyên tạc để chống lại nhà nƣớc. Vì vậy, những tài liệu chứng cứ để bắt
ngƣời cần thu thập qua quá trình điều tra xác minh, cũng có thể thu thập bằng
những biện pháp nghiệp vụ. Trong quá trình thực hiện hoạt động bắt cần phải
tuân thủ đúng các điều kiện do luật định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền.
BPNC bắt ngƣời về bản chất là biện pháp cƣỡng chế, tác động trực tiếp
đến quyền tự do thân thể của công dân tuy nhiên lại không nhằm xâm phạm
đến thân thể họ nhƣ là sự trừng phạt hành vi họ đã thực hiện mà chỉ nhằm
mục đích ngăn chặn tội phạm diễn ra và hạn chế sự nguy hiểm cho xã hội. Vì
vậy, cơ quan tiến hành tố tụng không đƣợc xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm
của ngƣời bị bắt. Không đƣợc dựa vào các tài liệu chƣa đƣợc kiểm tra, xác
minh hay dựa trên ý chí chủ quan làm căn cứ để thực hiện hoạt động bắt dẫn
đến tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều
mặt. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành hoạt động bắt ngƣời, cơ quan, ngƣời
có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải biết vận dụng linh hoạt, đúng pháp
luật trong từng trƣờng hợp bắt cụ thể. Để làm đƣợc điều đó cơ quan, ngƣời
tiến hành tố tụng cần nắm vững các quy định của pháp luật về BPNC bắt
ngƣời và áp dụng chúng một cách chính xác, triệt để và đúng pháp luật.
Cc, Yêu cầu về nghiệp vụ
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con ngƣời. Trong hoạt động điều tra, BPNC bắt ngƣời là một
trong những biện pháp cƣỡng chế của Nhà nƣớc để trấn an, ngăn chặn hành vi
phạm tội và có vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
trốn tránh pháp luật cũng nhƣ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.
19
Trong hoạt động bắt ngƣời, cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, có nhƣ vậy khi thực
hiện việc bắt ngƣời mới không vấp phải những khó khăn vƣớng mắc. Yêu cầu
đối với hoạt động bắt phải đảm bảo tính bất ngờ, khách quan và chính xác.
Bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng bảo đảm cho việc bắt ngƣời đƣợc
tiến hành một cách hiệu quả nhất, khi tiến hành hoạt động bắt ngƣời không để
đối tƣợng biết, bỏ trốn, hoặc gây cản trở cho cuộc bắt, hoặc tiêu huỷ chứng
cứ. Yếu tố bất ngờ đƣợc biểu hiện trong kế hoạch bắt ngƣời nhƣ: bí mật về
thời gian, địa điểm sẽ tiến hành bắt đối tƣợng, bí mật về sự chuẩn bị lực lƣợng
bắt... Bí mật là yếu tố cần thiết cho sự thành công của hoạt động bắt ngƣời,
làm sao để đối tƣợng bắt chỉ biết là chúng bị bắt khi lực lƣợng tiến hành bắt
xuất hiện và triển khai lệnh bắt. Muốn đạt đƣợc yêu cầu nhƣ vậy, đòi hỏi công
tác chuẩn bị cho việc bắt cần phải tỉ mỉ, cẩn trọng và chu đáo. Trƣớc khi bắt
ngƣời cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nhân thân của đối tƣợng và những tài
liệu xác minh ban đầu, phải lập kế hoạch của việc bắt ngƣời chi tiết về thời
gian, địa điểm, thành phần tham gia, công cụ phƣơng tiện hỗ trợ...đặc biệt cần
tính toán các phƣơng án có thể xảy ra để chủ động, linh hoạt trong quá trình
tiến hành.
Việc bắt ngƣời có thành công phải đảm bảo tất cả những mục tiêu trong
kế hoạch đã hoạch định trƣớc và linh hoạt trong mọi tình huống có thể xảy ra,
khi triển khai bắt phải tiến hành một cách khẩn trƣơng và nhanh chóng.
1.2.2 Vai trò của biện pháp ngăn chặn bắt người
BPNC bắt ngƣời có vai trò quan trọng trong hoạt động ðiều tra giải
quyết vụ án cũng nhý phòng chống tội phạm. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội cũng nhƣ ngăn chặn hành vi tội phạm chạy
trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra, khám phá và xử lý hành vi phạm tội
là cần thiết và cấp bách. Hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm chứa đựng
những mầm mống có thể gây hậu quả nguy hại cho xã hội, và nhiều khi từ lúc
20
có hành động chuẩn bị đến khi phạm tội là khoảng thời gian rất ngắn, nếu
không ngăn chặn kịp thời thì tội phạm sẽ xảy ra.
Quy định và thi hành BPNC bắt ngƣời trong TTHS có vai trò lớn trong
việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm:
Một là, “BPNC bắt ngƣời thể hiện sự chuyên chính của nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm” [66, tr.195].
Khái niệm tội phạm đƣợc quy định rõ ràng trong Bộ luật hình sự
(BLHS) hiện hành là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra
những thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng đƣợc luật hình sự bảo
vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của
chế độ nhà nƣớc, chế độ kinh tế-chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khỏe,
tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng nhƣ những quy tắc
của cuộc sống trong xã hội chủ nghĩa.
Quy định BPNC bắt ngƣời là thể hiện đƣờng lối, chính sách của nhà
nƣớc ta trong việc xử lý những hành vi phạm tội và thể hiện thái độ kiên
quyết, triệt để của nhà nƣớc trong việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
Hai là, “bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng đƣợc thuận lợi, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm” [66, tr.195].
Hiện nay, nhiều vụ án do tính chất phức tạp, ngƣời thực hiện hành vi
phạm tội cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án. Do đó, việc áp dụng BPNC bắt ngƣời nhằm ngăn chặn kịp thời và
có hiệu quả ngay từ đầu những hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn
tránh, gây khó khăn cho việc xử lý ngƣời phạm tội. Cùng với đó, việc bắt các
đối tƣợng này góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà ngƣời
phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án.
Ba là, BPNC bắt ngƣời giúp việc ngăn chặn tội phạm đƣợc kịp thời và
hiệu quả: Việc này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm hậu quả của tội
21
phạm. Kịp thời ngăn chặn tội phạm góp phần bảo vệ đƣợc đối tƣợng tội phạm
tác động tới, đồng thời ngăn chặn và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra.
Bốn là, cơ sở pháp lý để cơ quan, ngƣời có thẩm tiến hành tố tụng áp
dụng BPNC bắt ngƣời trong những trƣờng hợp cần thiết, nhằm đạt đƣợc mục
đích của TTHS. Việc bắt ngƣời có tác động trực tiếp đến quyền con ngƣời,
quyền tự do về thân thể bởi vậy khi áp dụng cần phải tính toán hợp lý. Bắt
ngƣời đúng pháp luật sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh
chống và ngăn ngừa tội phạm. Ngƣợc lại, bắt ngƣời không đúng pháp luật sẽ
gây tác hại to lớn, không những xâm phạm quyền tự do thân thể của công dân
mà còn làm giảm uy tín của Nhà nƣớc và các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây
hoang mang trong dƣ luận, dễ bị các thế lực phản động, thù địch trong và
ngoài nƣớc lợi dụng để xuyên tạc nói xấu chế độ, chống phá lại Nhà nƣớc ta.
Vì vậy, việc quy định các cơ sở pháp lý cho việc áp dụng BPNC bắt ngƣời là
một yêu cầu cấp thiết và quan trọng trong TTHS Việt Nam
1.3. Biện pháp ngăn chặn bắt ngƣời trong tố tụng hình sự Việt Nam
từ năm 1945 đến năm 2003.
1.3.1 Từ năm 1945 đến năm 1988
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công Nhà nƣớc Cộng hòa dân
chủ nhân dân ra đời phải tổ chức cho nhân dân vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Nhiệm vụ của cách mạng thời kỳ này là đấu tranh với thù trong, giặc
ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng, Nhà nƣớc đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quy định về những BPNC mà cụ thể là BPNC bắt ngƣời và sử dụng
biện pháp này nhƣ phƣơng tiện sắc bén để đấu tranh chống Việt gian, phản
động và những tội phạm nguy hiểm khác. Tuy nhiên, thời kỳ này chƣa có các
văn bản quy định riêng về BPNC bắt mà mới chỉ đƣợc quy định xen kẽ trong
những văn bản pháp luật, một số cơ quan tƣ pháp đƣợc ra đời liên quan đến
việc bắt đƣợc quy định: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức TA và
ngạch Thẩm phán; Sắc lệnh 23/SL ngày 21/02/1946 thành lập Việt Nam Công
an vụ. Theo Sắc lệnh này thì lực lƣợng Công an vụ có nhiệm vụ “Điều tra về
22
những hành động trái phép và truy tìm ngƣời can phạm để giúp TA trong sự
trừng trị”; Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/07/1946 về tổ chức bộ máy Tƣ pháp
Công an tại Điều thứ 2: “Tƣ pháp Công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự
phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh), sƣu tập các tang chứng, bắt giao
ngƣời phạm pháp cho các TA xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”[11];
Sắc lệnh số 85/Sl ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp thì: “Tƣ pháp
Công an có nhiệm vụ bắt ngƣời phạm pháp và giao cho các TA xét xử”[12].
Nội dung của các văn bản trên thể hiện rõ quan điểm của Chính quyền Nhà
nƣớc Việt Nam dân chủ Cộng hòa là tôn trọng và bảo vệ quyền tự do thân thể
của nhân dân đối với các phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an toàn của Nhà
nƣớc.
Sau ngày miền Bắc giải phóng (1954), đây là thời kỳ miền Bắc hoàn
toàn đƣợc giải phóng và bƣớc vào khôi phục kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội
chủ nghĩa, chuẩn bị cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất.
Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị và xã hội trong thời kỳ mới, Nhà nƣớc
ta đã ban hành một số văn bản pháp luật nhƣ:
Luật số 103-SL/L005 ngày 20/5/1957 về Đảm bảo quyền tự do thân thể
và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thƣ tín của nhân dân. Tại
Điều 4 của Sắc lệnh ghi nhận BPNC bắt ngƣời phạm tội quả tang là một
BPNC bắt ngƣời đặc biệt:
Đối với những ngƣời phạm pháp quả tang, bất cứ ngƣời
nào cũng có quyền bắt và phải giải ngay đến Ủy ban Hành
chính, TA nhân dân hoặc đồn Công an nơi gần nhất.
Trong những trƣờng hợp khẩn cấp, cơ quan Công an có
thể bắt giữ trƣớc kho có lệnh viết của các cơ quan định trong
Điều 3 và phải báo cho các cơ quan đó biết
23
Những trƣờng hợp phạm pháp quả tang và trƣờng hợp
khẩn cấp là những trƣờng hợp đặc biệt do luật quy định
[13,Điều 4].
Sắc lệnh 002/SLT ngày 18/6/1957 quy định về các trƣờng hợp phạm
pháp quả tang, khẩn cấp và các trƣờng hợp khám ngƣời phạm pháp quả tang
trong đó quy định:
Ðể kịp thời giữ kẻ phạm pháp ðã gây thiệt hại ðến
an toàn của Nhà nýớc, ðến trật tự xã hội, ðến tài sản của Nhà
nýớc, ðến tính mệnh tài sản của nhân dân, nay quy ðịnh những
trýờng hợp sau ðây là phạm pháp quả tang mà ngýời công dân
nào cũng có quyền bắt và giải ngay ðến Uỷ ban hành chính,
TA nhân dân hoặc Ðồn công an nõi gần nhất:
1- Ðang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm
pháp thì bị phát giác ngay.
2- Ðang bị ðuổi bắt sau khi phạm pháp.
3- Ðang bị giam giữ mà lẩn trốn.
4- Ðang có lệnh truy nã. [14, Ðiều 1].
Nghị định số 301/TTG quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005
ngày 20/5/1957 bảo đảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
với nhà ở, đồ vật, thƣ tín của nhân dân. Nghị định ghi nhận trình tự thủ tục bắt
giữ đối với các quân nhân trong trƣờng hợp bị bắt phạm pháp quả tang:
Trừ những trƣờng hợp phạm pháp quả tang và
những trƣờng hợp khẩn cấp, những quân nhân phạm pháp luật
Nhà nƣớc do các cán bộ trong quân đội nói ở Điều 1 đoạn b
Nghị định này ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam. Những quân
nhân phạm pháp bị bắt trong những trƣờng hợp quả tang hoặc
những trƣờng hợp khẩn cấp thì trong hạn hai mƣơi bốn giờ
phải giải lên TA nơi gần nhất [16, Điều 24].
24
Sau khi miền Nam đƣợc hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 02/SL-76 ngày
15/3/1976 quy định về việc bắt giam giữ. Về cơ bản việc bắt giam giữ quy
định trong Sắc luật này giống luật 103/Sl-L005 ngày 20/5/1957, tuy vậy thẩm
quyền bắt đƣợc mở rộng đến cấp huyện.
Điều 3 Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 quy định về việc bắt
ngƣời, khám ngƣời, khám nhà ở, khám đồ vật trong trƣờng hợp khẩn cấp:
Đội trƣởng đội tuần tra của cơ quan an ninh hoặc của
quân đội, trƣởng hoặc phó đồn an ninh, trƣởng hoặc phó cơ
quan an ninh huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trƣởng
hoặc phó ban của cơ quan an ninh từ cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ƣơng trở lên, trong khi làm nhiệm vụ, có quyền ra
lệnh hoặc tự mình bắt, khám ngƣời, khám nhà ở, khám đồ vật
trong những trƣờng hợp khẩn cấp [37, Điều 3].
Tại kỳ họp thứ thứ nhất, khóa VI ngày 02/7/1976, Quốc hội đã ra Nghị
quyết về việc áp dụng pháp luật thống nhất trong cả nƣớc và giao cho Hội
đồng Chính phủ hƣớng dẫn việc áp dụng.
Những thủ tục, trình tự, thẩm quyền của bắt ngƣời phạm tội đƣợc quy
định ở nhiều văn bản trƣớc khi Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời. Những quy
định này có nhiều tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thì việc bắt ngƣời vẫn gặp nhiều
khó khăn. Hiến pháp năm 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050008256_4024_2002947.pdf