Luận văn Biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phân tích tài chính tại Xí nghiệp dược phẩm trung ương 1
Thực tế cho thấy nếu hệ số này biến động từ 0,5 đến 1 chứng tỏ tình hình thanh toán của doanh nghiệp tương đối khả quan. Trong ba năm qua, hệ số này có khuynh hướng tăng. Năm 2001 tăng 0,34% so với năm 2000, trong khi đó mức tăng này là 8,13% trong năm 2002 đạt 0,075. Cả ba năm, hệ số này đều lớn hơn 0,5 như vậy tiền tại ngân quỹ thừa đủ sức để thanh toán các khoản nợ đến hạn. Nếu như năm 2000, 1 đồng nợ bảo đảm bằng 0,0685 đồng tiền mặt thì con số này đã tăng lên 0,069 năm 2001 và tăng 0,006 đồng năm 2002 đạt 0,075 đồng. Nhìn chung, mức dự trữ tiền mặt của xí nghiệp đều tăng qua các năm. Năm 2001 tăng 729.470 (nđ) so với năm 2001, tức là tăng 30,92%; sang năm 2002 đã tăng lên 3.469.623(nđ) tức là tăng 12,33% so với năm trước các hệ số này tăng là do tốc độ tăng của tiền mặt (30,92%) năm 2001 lớn hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn (29,84%) so với năm 2000. Ta biết rằng, tiền mặt là một loại tài sản linh động nhất, dễ dàng dùng nó để thỏa mãn mọi nhu cầu trong quá trình kinh doanh. Nhưng tiền mặt không hoặc hầu như không đem lại một khoản thu nhập nào nên hệ số trên của xí nghiệp là tương đối hợp lý. Xí nghiệp không nên tăng lượng dự trữ tiền mặt trong thời gian tới, nếu dư thừa nên dùng để đầu tư các hoạt động tài chính ngắn hạn để thu lợi. Trong thời gian tới, xí nghiệp cũng không nên giảm lượng tiền này xuống thấp quá miễn sao hệ số này trên 0,5 là tạm được. Bởi nếu quá thấp sẽ gây nên tình trạng căng thẳng trong việc thanh toán các khoản nợ đến hạn, mất đi tính chủ động về tài chính trong việc mở rộng quy mô.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24350.DOC