Luận văn Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ

Biện pháp đặt ra phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, đặc biệt là điều kiện về cơ sở vật chất, tâm lý, tập quán .Mặt khác do định hướng phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương và đặc điểm của các nhà trường chi phối trực tiếp đến yêu cầu đội ngũ giáo viên. Nên các biện pháp phải có tính đón đầu, với mục tiêu đưa đội ngũ giáo viên phát triển. Các biện pháp đưa ra phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, để giải quyết mâu thuẫn và cải tạo thực tiễn.

doc104 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5580 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. 26 43,3 29 48,3 5 8,4 0 0,0 3 Đoàn kết với đồng nghiệp, xây dựng tập thể sư phạm tốt để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục. 45 75,0 15 25,0 0 0,0 0 0,0 4 Thương yêu học sinh, tôn trọng và đối xử công bằng với tất cả học sinh, giúp học sinh khắc phục khó khăn để học tập. 33 55,0 27 45,0 0 0,0 0 0,0 5 Có lối sống lành mạnh, văn minh, phù hợp với bản sắc dân tộc có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học. 42 70,0 18 30,0 0 0,0 0 0,0 6 Đúng mực trong ứng xử, giao tiếp với đồng nghiệp, phụ huynh học sinh và cộng đồng, hợp tác với đồng nghiệp trong chuyên môn. 28 46,7 29 48,3 3 5,0 0 0,0 7 Có sức khỏe phục vụ trong công tác. 48 80,0 12 20,0 0 0,0 0 0,0 Nghề nào cũng cần đạo đức song nghề dạy học có yêu cầu cao hơn về đạo đức. Bác Hồ đã dạy: “Muốn cho học sinh có đạo đức thì giáo viên phải có đạo đức”. Qua số liệu thu được từ điều tra thực tế tại các nhà trường về phẩm chất đội ngũ giáo viên. Nhìn chung đều được các giáo viên xác định đó là nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết đối với hoạt động nghề nghiệp của bản thân, họ luôn có ý thức tự học; tự phấn đấu rèn luyện, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục thể hiện qua 91,6% giáo viên tự đánh giá tâm huyết, gắn bó, say mê với nghề nghiệp; tình yêu thương, tôn trọng người học; sự công bằng 100%, tỉ lệ giáo viên đánh giá mức độ tốt, khá cao mặc dù cuộc sống đang diễn ra với nhiều hình thái và tác động khác nhau của nền kinh tế thị trường khi mọi thứ đều được “qui đổi”, quan niệm chưa đầy đủ về thuật ngữ “dịch vụ giáo dục” “ Lợi nhuận” của các trường ngoài công lập. Song, qua số liệu thống kê và thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận giáo viên còn hạn chế trong nhận thức về chính trị - xã hội vẫn chưa thật sự coi trọng, quan tâm đến công tác chính trị - tư tưởng, đạo đức và lối sống (tỉ lệ trung bình chiếm 8,4%). Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động giáo dục của nhà trường và các nhà trường cần chú trọng, quan tâm có biện pháp khắc phục sớm để công tác giáo dục học sinh đạt mục tiêu đề ra. b. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ Bảng 2.10. Kết quả tự đánh giá về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ. TT Tiêu chí Mức độ Tốt Khá TB Kém SL % SL % SL % SL % 1 Hiểu biết về mục tiêu giáo dục THPT, nội dung, chương trình, SGK THPT, phương pháp dạy học. 45 75,0 12 20,0 3 5,0 0 0,0 2 Đạt trình độ chuẩn đối với môn học đang dạy. 55 91,7 5 8,3 0 0,0 0 0,0 3 Hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, thực tiễn địa phương; môi trường giáo dục trong và ngoài nhà trường. 36 60,0 20 33,3 4 6,7 0 0,0 4 Vận dụng kiến thức về giáo dục học, tâm lí học trong giáo dục và dạy học. 47 78,3 10 16,7 3 5,0 0 0,0 5 Biết lập kế hoạch dạy học, kế hoạch bài giảng, tổ chức các hoạt động giáo dục khác. 48 80,0 9 15,0 3 5,0 0 0,0 6 Biết vận dụng các phương pháp dạy học mới – hiện đại làm tăng tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh. 45 75,0 3 5,0 12 20,0 0 0,0 7 Biết giao tiếp, ứng xử với học sinh, phụ huynh, đồng nghiệp và nhân dân; biết phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 49 81,7 11 18,3 0 0,0 0 0,0 8 Biết tự học, tự rèn luyện để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn - nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ. 25 41,7 30 50,0 5 8,3 0 0,0 9 Biết lập hồ sơ, sổ sách, tích lũy tài liệu, quản lí các loại hồ sơ. 29 48,3 28 46,7 3 5,0 0 0,0 10 Biết phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục. 8 13,3 16 26,7 36 60,0 0 0,0 Từ số liệu tổng hợp qua điều tra về năng lực đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ cho thấy: Với tỉ lệ khoảng 80% giáo viên tự đánh giá về năng lực chuyên môn của mình đối với yêu cầu giáo dục hiện nay nói chung và của các nhà trường THPT ngoài công lập nói riêng là đáp ứng được (mức độ đánh giá là tốt và khá). Tuy nhiên, vẫn còn số giáo viên dù được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, tự bồi dưỡng thông qua nhiều hình thức khác nhau những vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngành đề ra, trong đó với tỉ lệ 6,7% giáo viên chưa quan tâm đến tình hình chung của xã hội, của ngành…; 5,0% không nhận thức hết tầm quan trọng của việc nắm bắt tâm sinh lý lứa tuổi học sinh để có nhiều cách tiếp cận, biện pháp giáo dục và giảng dạy khác nhau nhằm tạo đạt hiệu quả cao trong giáo dục, 20,0% còn hạn chế về áp dụng phương pháp dạy học mới. Với đặc thù là chất lượng tuyển sinh đầu vào rất thấp có nhiều học sinh yếu cả về văn hóa và đạo đức nhưng tỉ lệ giáo viên biết phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục còn quá cao chiếm tỉ lệ 60,0%, đây cũng là một khó khăn trở ngại trong việc nâng cao chất lượng giáo dục giúp các em tiếp cận bài học và rèn luyện phẩm chất đạo đức cũng như kỹ năng sống. Như vậy, với năng lực hiện có của đội ngũ giáo viên hiện nay đó là sự phấn đấu không ngừng của đội ngũ giáo viên và góp phần không nhỏ vào thành công của các nhà trường. Nhưng với sự đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học... Đây sẽ là những vấn đề cần được các trường quan tâm để xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu của ngành giáo dục trong giai đoạn hiện nay. * Ý kiến đánh giá của CBQL (14 CBQL). Bảng 2.11. Kết quả đánh giá của CBQL về phẩm chất, năng lực của đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ.. TT Tiêu chí Mức độ Tốt Khá TB Kém SL % SL % SL % SL % A Phẩm chất 1 Yêu nước, yêu CNXH. Chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; tham gia các hoạt động của nhà trường, của địa phương. 11 78,6 3 21,4 0 0,0 0 0,0 2 Yêu nghề, gắn bó với nghề, chấp hành các qui định của ngành; có ý thức tổ chức kỉ luật; giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo. 10 71,4 3 21,4 1 7,1 0 0,0 3 Đoàn kết với đồng nghiệp, xây dựng tập thể sư phạm tốt để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục. 10 71,4 4 28,6 0 0,0 0 0,0 4 Thương yêu học sinh, tôn trọng và đối xử công bằng với tất cả học sinh, giúp học sinh khắc phục khó khăn để học tập. 12 85,8 2 14,2 0 0,0 0 0,0 5 Có lối sống lành mạnh, văn minh, phù hợp với bản sắc dân tộc có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học. 11 78,6 3 21,4 0 0,0 0 0,0 6 Đúng mực trong ứng xử, giao tiếp với đồng nghiệp, phụ huynh học sinh và cộng đồng, hợp tác với đồng nghiệp trong chuyên môn. 6 42,9 7 50,0 1 7,1 0 0,0 7 Có sức khỏe phục vụ trong công tác. 10 71,4 4 28,6 0 0,0 0 0,0 B Kiến thức và kỹ năng (chuyên môn, nghiệp vụ) 1 Hiểu biết về mục tiêu giáo dục THPT, nội dung, chương trình, SGK THPT, phương pháp dạy học. 11 78,6 2 14,3 1 7,1 0 0,0 2 Đạt trình độ chuẩn đối với môn học đang dạy. 13 92,9 1 7,1 0 0,0 0 0,0 3 Hiểu biết về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, thực tiễn địa phương; môi trường giáo dục trong và ngoài nhà trường. 6 42,9 7 50,0 1 7,1 0 0,0 4 Vận dụng kiến thức về giáo dục học, tâm lí học trong giáo dục và dạy học. 6 42,9 7 50,0 1 7,1 0 0,0 5 Biết lập kế hoạch dạy học, kế hoạch bài giảng, tổ chức các hoạt động giáo dục khác. 9 64,3 5 35,7 0 0,0 0 0,0 6 Biết vận dụng các phương pháp dạy học mới - hiện đại làm tăng tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh. 8 57,2 1 7,1 5 35,7 0 0,0 7 Biết giao tiếp, ứng xử với học sinh, phụ huynh, đồng nghiệp và nhân dân; biết phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. 9 64,3 4 28,6 1 7,1 0 0,0 8 Biết tự học, tự rèn luyện để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn - nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ. 6 42,9 6 42,9 2 14,2 0 0,0 9 Biết lập hồ sơ, sổ sách, tích lũy tài liệu, quản lí các loại hồ sơ. 5 35,8 7 50,0 2 14,2 0 0,0 10 Biết phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn giáo dục. 3 21,4 5 35,7 6 42,9 0 0,0 Với kết quả thu được (bảng 2.11) ta nhận thấy: Đa số CBQL đều nhất trí trong việc đánh giá về đội ngũ giáo viên do mình quản lí đó là trên 92,8% giáo viên có phẩm chất, đạo đức lối sống cũng như năng lực, nghiệp vụ sư phạm tốt đáp ứng được yêu cầu của ngành, đa số giáo viên tâm huyết với nghề và “tất cả vì học sinh thân yêu”, đó là lí do tại sao chất lượng giáo dục của các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ vẫn giữ được mức độ ổn định và đạt mức độ trung bình so với các trường trong tỉnh mặc dù chất lượng tuyển sinh rất thấp thêm vào đó là trong thời gian qua toàn ngành giáo dục thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới chương trình và sách giáo khoa; đổi mới thi cử, cách đánh giá, xếp loại học sinh và tiếp tục thực hiện cuộc vận động “hai không”….. Nhưng bên cạnh đó, hiện nay vẫn còn không ít giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề, hạn chế về trình độ chuyên môn… Qua số liệu khảo sát cho thấy 14,2% CBQL nhận xét giáo viên chỉ đạt mức trung bình về tự học tự rèn luyện, 35,7 đạt mức trung bình về thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt số giáo viên quan tâm đến việc thực hiện các biên pháp giáo dục phù hợp với đặc thù nhà trường, biết giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn giáo dục ở mức trung bình chiếm tới 42,9%. c. Về trình độ Ngoại ngữ và Tin học 0,00% 20,00% 40,00% 60,00% Cử nhân Chứng chỉ A. Chứng chỉ B. Chứng chỉ C. Không 1,6 18,0 13,1 9,8 57,5 Trình độ Ngoại ngữ Hình 2.2. Trình độ Ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ. Qua kết quả khảo sát tại các trường cho thấy: hiện nay số giáo viên có văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ là rất ít (chỉ khảo sát về số lượng chưa đánh giá về chất lượng), 13,1% số giáo viên có trình độ ngoại ngữ Cử nhân đều là giáo viên giảng dạy bộ môn, chỉ có 18,0% là có chứng chỉ A, chứng chỉ B chiếm tỉ lệ 9,8% và chứng chỉ C là 1,6% và 57,5% trả lời không có. Đây là một trong những bất cập làm hạn chế đến việc tiếp cận các nguồn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy trên Internet, tài liệu bằng tiếng nước ngoài, nhất là các đợt bồi dưỡng chuyên môn do chuyên gia nước ngoài phụ trách hoặc tập huấn theo hình thức trực tuyến. Lãnh đạo các nhà trường đang tìm nhiều hình thức học tập, bồi dưỡng… khác nhau phù hợp với điều kiện thực tế của giáo viên, của nhà trường để từng bước phổ cập ngoại ngữ trình độ A cho giáo viên trẻ. 0,00% 20,00% 40,00% 60,00% Cử nhân Chứng chỉ A Chứng chỉ B Chứng chỉ C Không 54,1 0,0 16,4 26,2 3,3 Trình độ tin học Hình 2.3. Trình độ Tin học của đội ngũ giáo viên trường THPT ngoài công lập. Từ kết quả thu được qua điều tra thực tế (hình 2.3) chúng ta thấy rằng: tỉ lệ giáo viên có chứng chỉ tin học A, B, C hiện nay ở các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ còn rất ít. Có 3,3% giáo viên là Cử nhân tin học; 26,2% có chứng chỉ A, 16,4% có chứng chỉ B, còn 54,1% giáo viên không có, mặc dù hầu hết đội ngũ giáo viên trẻ dưới 30 tuổi đều có thể sử dụng vi tính trong việc soạn giáo án, truy cập internet; tìm tài liệu tham khảo... Trong đó, năm học 2008 – 2009 được chọn là “Năm học đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí tài chính và xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì công tác bồi dưỡng và tự học Tin học là nhiệm vụ quan trọng đối với lãnh đạo cũng như mỗi giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ. Tóm lại, từ những kết quả và số liệu trên cho thấy đa số giáo viên hiện nay của các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ đều đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, cơ cấu tương đối hợp lí, có phẩm chất, chính trị, đạo đức, lối sống tốt đã góp phần mang lại những kết quả giáo dục đáng ghi nhận. Tuy nhiên, một số giáo viên vẫn còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu của xã hội trong giai đoạn hiện nay nhất là về phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Để khắc phục tình trạng này thì hiệu trưởng cần có kế hoạch cụ thể, sát với thực tế từng nhà trường trong công tác tuyển chọn, bồi dưỡng; tạo môi trường làm việc tốt hơn… có như vậy mới thực hiện được mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục. Vì để làm được điều này hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ giáo viên bởi hoạt động của giáo viên mang tính độc lập rất cao, từ việc soạn bài, chấm bài, đánh giá người học… đều là hoạt động độc lập. 2.3.2. Thực trạng biện pháp quản lí phát triển đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ. 2.3.2.1. Quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên: 2.3.2.1.1. Quy hoạch: Việc xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ trong thời gian qua chưa nhận được sự quan tâm đúng mức, nhận thức đúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng… của các cấp quản lý giáo dục. Việc lập quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên ngoài công lập chưa có sự chủ động và còn nhiều lúng túng. Chưa có sự phân công rõ trách nhiệm cho các lực lượng giáo dục và từng cá nhân của các nhà trường trong việc xây dựng kế hoạch. Chưa đánh giá đúng thực trạng về đội ngũ giáo viên và thực trạng xây dựng quy hoạch phát triển giáo viên trong thời gian qua. Chưa phân tích và làm rõ được những hạn chế yếu kém và nguyên nhân thực trạng. Công tác dự báo phát triển giáo dục ngoài công lập có độ chính xác không cao. Các chủ trương, giải pháp để xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên đưa ra còn chậm và chưa tạo được bước đột phá, tính khả thi không cao. Việc tuyển dụng còn nhiều bất cập và trường còn bị động từ khâu tuyển chọn, bố trí, sắp xếp đội ngũ giáo viên. Phương pháp tuyển nặng về hình thức, chưa sát hợp, chưa đánh giá được người tham gia tuyển dụng và nhiều khi cũng không có ứng viên tham gia tuyển dụng. Việc bố trí, sắp xếp giáo viên chưa hợp lý, còn nể nang, châm trước, chưa thực sự căn cứ vào yêu cầu công việc và tình hình thực tế nhà trường. Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên chưa được chú trọng, kế hoạch chưa sát. Việc triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chưa được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thấp, kinh phí đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu, cơ sở vật chất chưa được trang bị đủ, các hoạt động về giáo dục gặp nhiều khó khăn, mức sống của giáo viên còn thấp. Nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên về xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên chưa đúng và chưa làm tốt những nội dung phục vụ việc xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên. 2.3.2.1.2. Lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên. Việc lập kế hoạch phát triển giáo viên trong thời gian qua chưa được các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ quan tâm. Thiếu kế hoạch dài hạn tạo nên tình trạng mất cân đối về cơ cấu, trình độ, lứa tuổi, tỷ lệ giáo viên…. Để đánh giá thực trạng công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ, tác giả hỏi ý kiến của 14 cán bộ quản lý và 60 giáo viên thông qua phiếu hỏi (Phụ lục số 1 và 2) . Kết quả thu được như sau: Số cán bộ quản lý tự đánh giá về biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ ở mức rất tốt là 14,9%, ở mức tốt là 14,9%. Kết quả này cho thấy công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển GV chưa được qua tâm. Tổng hợp đánh giá của cán bộ quản lý và GV cho thấy mức độ rất tốt chiếm 27,0%, mức độ chưa tốt chiếm 41,9%. Như vậy, công tác quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ giáo viên của các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ trong những năm qua không được quan tâm đúng mức, còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. 2.3.2.2. Về kế hoạch tuyển chọn đội ngũ giáo viên Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trước đòi hỏi ngày càng cao về sản phẩm giáo dục của xã hội, ngành giáo dục nói chung, các nhà trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ nói riêng đã có nhiều nỗ lực để thu hút, chiêu mộ người tài về công tác (Hiệu trưởng được chủ động tuyển chọn giáo viên). Để tuyển chọn được người có năng lực phục vụ sự nghiệp giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế tuyển dụng. Nhìn chung, việc đổi mới cơ chế tuyển dụng giáo viên hiện nay diễn ra còn chậm, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra. Trong nhiều năm qua, việc tuyển dụng giáo viên ở tỉnh Phú Thọ về cơ bản được cải tiến với địa bàn tuyển rộng trên cả nước, ưu tiên giáo viên có bằng loại giỏi được chọn nhiệm Sở, nhiều giáo viên có trình độ học lực giỏi, khá được tuyển dụng. Tuy nhiên, cách tuyển dụng vẫn được tiến hành theo phương thức truyền thống đó là xét tuyển. Theo cơ chế này, giáo viên nộp hồ sơ về Sở GD&ĐT, trên cơ sở nhu cầu giáo viên từng bộ môn còn thiếu của từng trường (do Hiệu trưởng xây dựng kế hoạch nhu cầu giáo viên), Sở GD&ĐT cùng Sở Nội vụ thống nhất chỉ tiêu biên chế của từng trường, từng bộ môn và thông báo chỉ tiêu, nội dung xét tuyển. Tiêu chí xét tuyển theo qui định của Nhà nước nhưng chủ yếu dựa vào bằng cấp, các loại giấy tờ ưu tiên. Với cách tuyển chọn đó, các cơ quan tuyển dụng và đơn vị sử dụng (Hiệu trưởng) không có điều kiện tiếp xúc, tìm hiểu khả năng, năng lực, phẩm chất của người được tuyển dụng mà chủ yếu dựa vào bằng cấp, chứng chỉ nên có nhiều người trúng tuyển nhưng khi trực tiếp đứng lớp gặp rất nhiều khó khăn và bản thân nhà trường cũng chịu nhiều áp lực từ xã hội khi kết quả học tập của học sinh thấp trong đó có nguyên nhân do đội ngũ giáo viên hạn chế về năng lực. Thực tế, công tác tuyển chọn giáo viên của các trường ngoài công lập Thị xã Phú Thọ còn gặp nhiều khó khăn, khi các nhà trường có nhu cầu tuyển chọn giáo viên để cân đối về cơ cấu, phù hợp với công việc hiện còn thiếu người đảm nhận thì lại không có nguồn và còn bị động, Ví dụ muốn tuyển giáo viên Vật lý, Hóa học, QPAN lại không có ứng viên, trong khi đó các bộ môn về khoa học xã hội như Ngữ văn, Địa lý, Lịch sử, GDCD lại ở tình trạng dư thừa. Trong 3 năm qua các nhà trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ đã tuyển dụng được 22 giáo viên, trong đó THPT Thị xã là 8, THPT Trường Thịnh 14. Để tìm hiểu về công tác tuyển chọn giáo viên trong các nhà trường THPT ngoài công lập chúng tôi nêu câu hỏi: “Xin thầy/cô cho biết ý kiến về việc xây dựng kế hoạch tuyển chọn đội ngũ giáo viên của nhà trường với các mức độ: đã làm rất tốt, đã làm tốt, bình thường, chưa tốt” (phụ lục số 1 và 2). Kết quả thu được: 30/60 (chiếm tỉ lệ 50,0%) giáo viên nhận xét đã làm tốt, 25/60 (41,7%) cho rằng bình thường và 5/60 (8,3%) nhận xét làm chưa tốt; 7/14 (50,0%) CBQL cho rằng đã làm tốt, 5/14 (35,7%) đánh giá chỉ ở mức bình thường và có 2/14 (14,3%) trả lời chưa làm tốt. Như vậy, bên cạnh những tính ưu việt của công tác tuyển chọn giáo viên trong những năm qua cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như: - Công tác tuyển chọn giáo viên còn bị động, manh mún, bất hợp lý, chưa có tiêu chí cụ thể, chính sách thu hút và điều kiện dàng buộc chưa thiết thực làm ảnh hưởng đến kế hoạch giảng dạy của nhà trường. - Việc tuyển chọn giáo viên ngoài trình độ chuyên môn còn phụ thuộc vào nguồn tuyển, chế độ chính sách, tâm lý an tâm công tác nên chưa tuyển chọn được các giáo viên giỏi. - Số giáo viên cần tuyển so với nhu cầu thực tế của nhà trường còn nhiều bất cập về cơ cấu, năng lực đặc biệt là loại hình hợp đồng lao động, chế độ đãi ngộ chưa thu hút được giáo viên an tâm công tác lâu dài. Đây là những nhiệm vụ cần phải được các nhà trường khắc phục để có được kế hoạch tuyển chọn đội ngũ giáo viên phù hợp trong thời gian tới. 2.3.2.3. Về phân công, sử dụng đội ngũ giáo viên Việc bố trí đội ngũ giáo viên của các nhà trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ đã đúng theo trình độ, chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm được đào tạo, kết quả khảo sát cho thấy 45/60 (chiếm tỉ lệ 75,0%) giáo viên trả lời là rất hợp và hợp lí, 8/60 (13,3%) trả lời tương đối hợp lí (số giáo viên này thường là giáo viên đã nghỉ hưu và hợp đồng ngắn hạn với trường) và có 7/60 (11,7%) giáo viên được hỏi trả lời chưa hợp lí (đây là số giáo viên trẻ chưa được đóng bảo hiểm và số giờ giảng của họ còn thấp hơn so với định mức) 10/14 (71,4%) CBQL cho rằng hợp lí, 2/14 (14,3%) đánh giá mức tương đối và 2/14 (14,3%) đánh giá không hợp lí (phụ lục số 1 và 2). Bên cạnh đó, nhà trường đã mạnh dạn bố trí, sử dụng những giáo viên trẻ có năng lực, có ý thức phấn đấu vươn lên, có tinh thần trách nhiệm với công việc đảm nhiệm vào những vị trí quan trọng như: Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn, chủ nhiệm lớp, dạy các lớp cuối cấp. Tuy nhiên, thực tế do tình trạng thiếu giáo viên, đặc biệt là giáo viên các bộ môn khoa học tự nhiên, các trường đã vận dụng khá nhiều biện pháp khác nhau như mời giáo viên thỉnh giảng … và tất nhiên là ảnh hưởng đến tính ổn định, tính kế hoạch và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của nhà trường. Mặc dù với trách nhiệm, cách làm việc khoa học, công bằng và sự khắc phục khó khăn nhưng quá trình phân công, sử dụng đội ngũ giáo viên vẫn còn tồn tại một số bất cập: - Công tác phân công, sử dụng giáo viên không được công khai, vẫn thiên về ưu tiên giáo viên có thâm niên, giáo viên trẻ ít được thử thách như công tác chủ nhiệm, giảng dạy các lớp chọn, các lớp cuối cấp… từ đó dẫn đến nội bộ tập thể sư phạm chưa thật sự đoàn kết, bầu không khí sư phạm chưa thật sự “trong lành”, tâm lý an tâm công tác và gắn bó lâu dài với trường của một số giáo viên trẻ có năng lực còn hạn chế. - Công tác phân công, sử dụng giáo viên của lãnh đạo nhà trường mang tính chủ quan, làm cho một số giáo viên bị động trong việc lên kế hoạch giữa công việc nhà trường với công việc cá nhân, điều này cũng đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả công tác của đội ngũ giáo viên. 2.3.2.4. Về bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên Mục tiêu bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên đứng lớp là nhằm nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, có đủ phẩm chất, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết những vấn đề trong dạy học và trong cuộc sống xã hội. Để thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới, việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đang giảng dạy trong những năm gần đây của ngành giáo dục Phú Thọ nói chung và các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ nói riêng được xác định là rất quan trọng và đã có sự chuyển biến tích cực đáng kể. Công tác bồi dưỡng giáo viên thực hiện thông qua chương trình bồi dưỡng chuẩn hóa, bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ (đa số giáo viên đã tham gia bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 2002-2006, trừ những giáo viên ra trường từ năm 2007 trở lại đây), bồi dưỡng thay sách; bồi dưỡng giáo viên theo chuyên đề và được tiến hành theo ba phương thức: Bồi dưỡng tập trung; bồi dưỡng tại chỗ và bồi dưỡng từ xa. Các giáo viên đều ý thức được tầm quan trọng của việc nâng cao kiến thức và cập nhập kiến thức mới của nhân loại mà cụ thể đó là sự thay đổi chương trình và sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy… Trong xu hướng đổi mới chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học hiện nay, ngoài các nội dung, hình thức bồi dưỡng giáo viên được Sở GD&ĐT tổ chức thì các trường cũng chủ động áp dụng nhiều hình thức bồi dưỡng khác nhau (bồi dưỡng tại chỗ) phù hợp với điều kiện từng nhà trường, từng giáo viên. Thí dụ, tổ chức bồi dưỡng thông qua hình thức kèm cặp, phân công những giáo viên giỏi, nhiều kinh nghiệm kèm cặp giáo viên mới ra trường (hiện nay chủ trương này được đưa vào nghị quyết chi bộ và 100% giáo viên mới trong các nhà trường đều được phân công người kèm cặp), kế hoạch thao giảng, dự giờ không phải làm theo những đợt phong trào mà có thời khóa biểu riêng và hoạt động này tổ chức hàng tuần, tháng và năm, có như vậy mới có đủ thành viên tham dự và góp ý tránh tình trạng giáo viên bị trùng giờ (năm học 2010 - 2011 có 95,0% giáo viên đăng kí thao giảng dự giờ còn lại do nhiều lí do không thực hiện được). Trong năm qua, các trường đã tổ chức được các lớp hướng dẫn ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, trong đó có việc hướng dẫn soạn giảng bằng phần mềm Power point, Violet.... tổ chức các buổi hội thảo khoa học về dạy học tích hợp, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực và hội thảo về đổi mới phương pháp trong giảng dạy ở các bộ môn Ngữ văn và Lịch sử ở cấp tổ, trường và thời gian tới sẽ là các môn khác nhau tùy vào nhu cầu và điều kiện của các nhà trường. Các trường tạo điều kiện về thời gian, hỗ trợ kinh phí và có cơ chế khuyến khích đối với người tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cũng như dài hạn và theo học những bậc học cao hơn. Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống nhưng số giáo viên tham gia học Đại học và Thạc sĩ ngày càng nhiều (hiện có 1 giáo viên học cao học Quản lý giáo dục, 1 giáo viên học cao học Toán, 3 giáo viên tham gia học Đại học). Kết quả điều tra thực tế cho thấy 9/14 (chiếm tỉ lệ 64,3%) CBQL và 32/60 (53,3%) giáo viên khẳng định hiệu quả tốt của biện pháp bồi dưỡng giáo viên đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục, 27/60 (45,0%) giáo viên; 4/14 (28,6%) CBQL cho rằng công việc này đạt mức bình thường, 1/60 (1,6%) giáo viên và 1/14 (7,1%) CBQL cho rằng công tác này thực hiện chưa tốt (phụ lục số 1 và 2). Với việc xác định được tầm quan trọng của hoạt động bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, lãnh đạo nhà trường đã có nhiều hình thức, sáng kiến mang lại hiệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBiện pháp phát triển đội ngũ giáo viên của Hiệu trưởng các trường THPT ngoài công lập Thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ.doc