Văn hóa giao tiếp cũng là một bộphận của văn hóa dân tộc. Vì vậy, xây
dựng văn hóa giao tiếp trong các doanh nghiệp du lịch cần phải kếthừa được những
nét tinh tếtrong văn hóa giao tiếp, ứng xửngười Việt Nam nói chung, người Đà Lạt
nói riêng.
Đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp lại vừa rất rụt rè. Việt
Nam vốn là một nước nông nghiệp, người dân lại thường xuyên phải chống chọi với
thiên tai địch họa, đặc điểm này khiến những thành viên trong cộng đồng cần phải
nương tựa vào nhau mà tồn tại. Vì vậy, người Việt Nam rất coi trọng việc giữgìn
các mối quan hệgiữa các thành viên trong cộng đồng, đó chính là nguyên nhân dẫn
đến việc coi trọng giao tiếp. Sựgiao tiếp tạo ra các mối quan hệvà củng cốtình
thân. Nhưng khi sựgiao tiếp vượt ra khỏi phạm vi cộng đồng quen thuộc, trước
người lạ, người Việt Nam lại rất rụt rè, đây là điều mà nhiều khách nước ngoài vẫn
hay nhắc tới.
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3564 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp cải thiện vấn đề văn hóa giao tiếp với du khách tại các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
53 10
Ngừng phục vụ du khách say rượu đi một mình 49 35 15
Tỷ lệ bình quân 60 31 9
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
Bảng 2.6: Kết quả khảo sát một số hành vi khuyến cáo không nên làm của
nhân viên du lịch Đà Lạt
HÀNH VI KHÔNG NÊN LÀM
Không
bao giờ
làm
(%)
Thỉnh
thoảng
làm
(%)
Thường
xuyên
làm
(%)
Tán chuyện với du khách đi một mình 35 40 25
Xét nét du khách lần đầu tiên đến 77 13 10
Dọn bàn không hỏi ý kiến du khách 75 19 6
Điện thoại việc riêng để khách chờ 78 15 7
Tỷ lệ bình quân 66 22 12
(Nguồn: Đề tài khoa học “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho du lịch
Đà Lạt – Lâm Đồng đảm bảo khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế”)
29
Kết quả trên cho thấy khả năng lựa chọn hành vi và kiểm soát hành vi ứng
xử đúng đắn với du khách ở mức độ trung bình. Một bộ phận nhân viên chưa hình
thành thói quen ứng xử văn minh với khách hàng, có những hành vi không phù hợp
với những quy tắc nghề nghiệp trong phục vụ khách du lịch. Những hành vi đúng
đắn chưa trở thành thói quen thường trực trong mỗi nhân viên. Nguyên nhân có thể
do sự đào tạo và huấn luyện nhân viên chưa đạt đến chuẩn mực nghề nghiệp theo
như thống kê về trình độ nhân viên qua đào tạo nghề du lịch ở trên, cũng có thể do
vấn đề quản trị nhân sự tại các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, thiếu biện pháp khuyến
khích, chế tài hợp lý.
Nhân lực là nguồn tài nguyên quý giá hơn bất kỳ nguồn tài nguyên nào của
doanh nghiệp. Nguồn nhân lực có chất lượng cao sẽ là động lực thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển. Hiện nay, trên địa bàn thành phố Đà Lạt có nhiều trường học đào
tạo về du lịch như: trường Đại học Đà Lạt, trường Đại học Yersin, trường Cao đẳng
nghề Đà Lạt, trường Trung học kỹ thuật Đà Lạt., …Đây là nguồn đào tạo nhân lực
dồi dào và chất lượng cho ngành du lịch. Nhưng các doanh nghiệp du lịch Đà Lạt
chưa tận dụng được ưu thế này, thể hiện rõ nhất ở thực tế là nhân viên du lịch phần
lớn không được đào tạo về du lịch, làm trái chuyên môn, nhân viên thời vụ nên tính
chuyên nghiệp thấp dẫn đến việc du khách thường phàn nàn về thái độ phục vụ, ứng
xử, giao tiếp của nhân viên.
2.3.2 Ảnh hưởng của tâm lý cá nhân trong văn hóa giao tiếp với du khách
Hoạt động giao tiếp là hoạt động nhằm trao đổi thông tin và thiết lập mối
quan hệ giữa con người với con người, vì vậy, nó chịu ảnh hưởng nhiều bởi trạng
thái tâm lý của các đối tượng giao tiếp. Giao tiếp trong công việc buộc đối tượng
giao tiếp phải điều chỉnh hành vi của mình để không bị ảnh hưởng bởi những trạng
thái tâm lý tiêu cực, ví dụ như những lúc đang buồn bực, khó chịu,…
Đặc điểm nguồn nhân lực của các doanh nghiệp du lịch là trình độ không
đồng đều (từ lao động phổ thông cho đến trình độ đại học), đội ngũ lao động đào
tạo không thuộc ngành du lịch cao, tức là không có nhiều nhân viên được học qua
về kỹ năng giao tiếp nhưng phần lớn nhân viên du lịch đều ý thức được tầm quan
30
trọng của giao tiếp trong công việc mình làm. Do đó, khi trạng thái tâm lý không
tốt, họ sẽ tự cố gắng điều chỉnh bản thân để những tình cảm cá nhân không ảnh
hưởng đến quá trình giao tiếp với khách hàng.
Tuy vậy, cả từ phía nhân viên và du khách cũng nhận định nhiều nhân viên
vẫn bị ảnh hưởng bởi tình cảm cá nhân trong giao tiếp:
+ Khi vui thì nhân viên giao tiếp cởi mở, thoải mái, nói chuyện nhiều hơn và
đôi lúc còn pha chút hài hước trong câu chuyện.
+ Khi buồn, giao tiếp bị hạn chế, nhân viên ít nói chuyện, kém nhiệt tình và
giảm sự kiên nhẫn với khách hàng.
Riêng tại các doanh nghiệp mà nhân viên đều đã được công ty hướng dẫn về
văn hóa giao tiếp trước khi bắt đầu làm việc thì nhận thức về vấn đề này rất tốt.
Nhân viên luôn phân định rõ ràng những tình cảm cá nhân với công việc. Khi đã
làm việc, họ đặt công việc lên trên hết, luôn tươi cười và thân thiện với khách hàng.
2.3.3 Đối tượng phục vụ của hoạt động du lịch là con người
Du lịch là một ngành kinh doanh đặc biệt, vừa có sản phẩm vật chất, vừa là
một lĩnh vực đậm màu sắc văn hóa. Nó vừa phản ánh mặt kinh tế lại vừa phản ánh
mặt văn hóa thông qua giao tiếp giữa người với người. Vì đối tượng phục vụ là con
người nên nó tương đối nhạy cảm, đòi hỏi phải có sự giao tiếp khéo léo và tinh tế.
Sản phẩm du lịch vừa phải thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa phải thỏa mãn
nhu cầu tinh thần của du khách một cách trọn vẹn, không thể thiếu một trong hai
mặt. Du khách chỉ có thể cảm thấy hài lòng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp
khi được cung cấp dịch vụ tốt, sản phẩm hấp dẫn, thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải
trí, thư giãn,… đồng thời cảm thấy được phục vụ một cách tận tình, chu đáo, nhận
được sự trân trọng từ phía doanh nghiệp.
Chính vì đối tượng phục vụ là con người nên các doanh nghiệp không nên
chỉ chú trọng vào những yếu tố vật chất hữu hình, cần hoàn thiện cả những yếu tố
thuộc về văn hóa riêng của doanh nghiệp. Nâng cao khả năng giao tiếp, ứng xử tinh
tế, khéo léo của nhân viên để khách hàng sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp cảm
thấy hài lòng và xứng đáng nhất.
31
Du khách có thể gồm nhiều thành phần khác nhau: viên chức Nhà nước,
người kinh doanh, nông dân, công nhân, học sinh, sinh viên,…. Ngày nay do đời
sống người dân được nâng cao nên trình độ về dân trí, thẩm mỹ cũng cao hơn, họ có
tính cách, suy nghĩ riêng. Yêu cầu của họ về sản phẩm, dịch vụ không chỉ nằm ở giá
trị vật chất mà phải mang giá trị tinh thần, những yếu tố văn hóa của doanh nghiệp.
Du khách lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ du lịch không chỉ quan tâm đến yếu tố vật
chất tiện nghi mà còn nhìn vào cách doanh nghiệp quan tâm, cư xử với mình ra sao.
Do đó mà yếu tố văn hóa giao tiếp cũng là một phần quan trọng làm nên sự hoàn
chỉnh cho các sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch.
2.3.4 Văn hóa dân tộc
Văn hóa giao tiếp cũng là một bộ phận của văn hóa dân tộc. Vì vậy, xây
dựng văn hóa giao tiếp trong các doanh nghiệp du lịch cần phải kế thừa được những
nét tinh tế trong văn hóa giao tiếp, ứng xử người Việt Nam nói chung, người Đà Lạt
nói riêng.
Đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp lại vừa rất rụt rè. Việt
Nam vốn là một nước nông nghiệp, người dân lại thường xuyên phải chống chọi với
thiên tai địch họa, đặc điểm này khiến những thành viên trong cộng đồng cần phải
nương tựa vào nhau mà tồn tại. Vì vậy, người Việt Nam rất coi trọng việc giữ gìn
các mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, đó chính là nguyên nhân dẫn
đến việc coi trọng giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra các mối quan hệ và củng cố tình
thân. Nhưng khi sự giao tiếp vượt ra khỏi phạm vi cộng đồng quen thuộc, trước
người lạ, người Việt Nam lại rất rụt rè, đây là điều mà nhiều khách nước ngoài vẫn
hay nhắc tới.
Nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn đến việc
người Việt Nam thường lấy tình cảm, lấy sự yêu ghét là nguyên tắc ứng xử (Yêu
nhau chín bỏ làm mười; Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ
hàng,…). Trong cuộc sống người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về
tình cảm hơn. Vì vậy, trong giao tiếp, người Việt Nam thiên về ứng xử theo tình
cảm.
32
Trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng hòa
thuận. Đây cũng là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư duy coi trọng các mối
quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kỹ càng trước khi nói để không mất
lòng người nghe. Để giữ gìn sự hòa thuận, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là
một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt Nam. Nụ cười tạo
nên hình ảnh người Việt Nam thân thiện và mến khách.
Ngoài ra, văn hóa ứng xử của người Việt Nam còn được thể hiện qua thái độ
đề cao người đối thoại và dành phần khiêm tốn về phía mình. Đó là nguyên tắc ứng
xử xưa nay rất được tôn trọng. Do dó, khi giao tiếp thì các yếu tố kèm theo lời nói:
âm điệu, nói to hay nhỏ, nói nhanh hay chậm,… cũng hài hòa theo nguyên tắc trên.
Về văn hóa ứng xử của người Đà Lạt, có thể nói do ảnh hưởng của các điều
kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, môi trường sống hài hòa giữa con người và
thiên nhiên tạo nên lối cư xử giao tiếp nhẹ nhàng, hiền hòa của người dân Đà Lạt,
từng được du khách đánh giá cao. Nét ứng xử này là một trong những nét văn hóa
đẹp, đặc sắc của du lịch Đà Lạt. Nhưng hiện nay, với sự phát triển ồ ạt các doanh
nghiệp du lịch, nhiều doanh nghiệp kinh doanh theo lối nhất thời, chụp giật dẫn đến
thay đổi trong văn hóa giao tiếp, ứng xử với du khách. Nạn cò kèo thường xuyên
diễn ra khiến du khách không khỏi phiền lòng, nhiều du khách không còn muốn
quay lại với du lịch Đà Lạt cũng một phần vì văn hóa giao tiếp của các doanh
nghiệp đã xuống cấp.
Thực tế, chính lối sống trầm, phong cách có phần khép kín, ít chấp nhận sự
sôi động tạo một nhược điểm trong giao tiếp của người Đà Lạt là rất thụ động,
không mạnh dạn. Nhiều nhân viên du lịch cũng bị ảnh hưởng bởi tâm lý này thường
không chủ động để giao tiếp với khách hàng. Đây là hạn chế lớn trong giao tiếp, vì
như vậy nhân viên sẽ không có điều kiện để trao đổi thông tin, tiếp thu ý kiến và
truyền đạt thông tin cần thiết đến khách hàng. Trong khi đó, khách hàng lại luôn
mong muốn nhận được sự quan tâm từ phía doanh nghiệp. Văn hóa giao tiếp thể
hiện bộ mặt của doanh nghiệp, thái độ thụ động dễ gây cho du khách cảm giác chất
33
lượng dịch vụ của doanh nghiệp không tốt, du khách không được phục vụ một cách
tận tình.
2.3.5 Các chính sách của Nhà nước
Quyết định số 121/2006/QĐ-TTg ngày 29/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ
“ Về việc phê duyệt chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 –
2010” đã nêu một trong những mục tiêu quan trọng của ngành du lịch đó là phát
triển du lịch bền vững. Trong đó, xác định những nhiệm vụ chủ yếu như: bảo vệ tài
nguyên môi trường du lịch; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch;… Bảo vệ
môi trường du lịch bao gồm cả việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường văn
hóa,… Việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch cần phải được đào tạo toàn
diện về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, văn hóa ứng xử, giao tiếp,…
Nghị quyết 06-NQ/TU của tỉnh ủy Lâm Đồng “Về phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp đột phá, tăng tốc phát triển kinh tế du lịch – dịch vụ du lịch
giai đoạn 2006 – 2010” đã đưa ra bảy nhiệm vụ và giải pháp phát triển du lịch Lâm
Đồng nói chung, thành phố Đà Lạt nói riêng. Một trong bảy nhiệm vụ đó là “ Xây
dựng, nâng cấp và bảo vệ môi trường du lịch, đảm bảo cho ngành du lịch phát triển
bền vững”. Song song với việc tích cực bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên,
xây dựng môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, là việc đẩy mạnh xây dựng một
môi trường văn hóa tốt đẹp, hài hòa cùng với sự phát triển của du lịch. Phương
châm đề ra là xây dựng phong cách người Đà Lạt “ hiền hòa, thanh lịch, mến
khách” để tuyên truyền và làm sinh hoạt, giáo dục vận động thường xuyên của Mặt
trận, các đoàn thể của thành phố Đà Lạt; đưa vào giảng dạy ngoại khóa ở các trường
phổ thông trên địa bàn thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận, đưa vào chương trình
chính khóa của khoa du lịch thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề,
cao đẳng, đại học và các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch trên địa bàn tỉnh. Phải làm
cho mỗi tổ chức, mỗi người dân đều nhận thức sâu sắc rằng cảnh quan thiên nhiên
và nét văn hóa trên là tài nguyên vô giá của Đà Lạt.
Như vậy, xây dựng văn hóa giao tiếp là một trong những chính sách quan
trọng của tỉnh Lâm Đồng và thành phố Đà Lạt trong chiến lược xây dựng Đà Lạt trở
34
thành đô thị du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế, xây dựng Đà Lạt trở thành “đô
thị du lịch hiện đại, phát triển và thân thiện”.
2.3.6 Quá trình mở cửa, hội nhập
Quá trình mở cửa, hội nhập của nền kinh tế nói chung kéo theo sự mở cửa
của thị trường du lịch. Lượng khách nước ngoài đến Việt Nam du lịch ngày càng
tăng và đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp kinh
doanh du lịch nước ngoài cũng tham gia vào thị trường du lịch Việt Nam nói chung,
Đà Lạt nói riêng. Chính quá trình mở cửa, giao lưu này tạo nên sự phong phú, đa
dạng trong văn hóa du lịch, trong đó có văn hóa giao tiếp.
Văn hóa giao tiếp nếu chỉ tuân theo những thói quen truyền thống mà không
phù hợp với xu hướng chung thì xem như là một rào cản cho sự hội nhập và phát
triển. Văn hóa giao tiếp trong doanh nghiệp nếu không được cập nhật kịp thời
những chuẩn mực giao tiếp chung, học hỏi những tinh hoa giao tiếp hay từ bên
ngoài thì sẽ là một hạn chế lớn của doanh nghiệp trong việc giao tiếp với du khách,
đặc biệt là du khách nước ngoài.
2.4 ĐÁNH GIÁ VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP VỚI DU KHÁCH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH ĐÀ LẠT
Trong phạm vi đề tài, để có cơ sở cho việc đánh giá vấn đề văn hóa giao tiếp
với du khách, tác giả đã tiến hành một điều tra nhỏ với 105 phiếu điều tra được gởi
đến các đối tượng du khách đến du lịch Đà Lạt. Ngoài ra, tác giả cũng tiến hành
trao đổi trực tiếp với một số đối tượng du khách, nhà quản lý, nhân viên du lịch để
thu thập thêm ý kiến đánh giá về vấn đề văn hóa giao tiếp trong du lịch Đà Lạt. Kết
quả được tổng hợp theo phụ lục 3, 5, 7.
2.4.1 Đánh giá về văn hóa giao tiếp với du khách trên thực tế
35
Bảng 2.7 Tổng hợp kết quả điều tra
MỨC ĐỘ
STT YẾU TỐ
Đánh
giá
chung
Rất
tốt
(%)
Tốt
(%)
Bình
thường
(%)
Tệ
(%)
Rất
tệ
(%)
2,8 5 4 3 2 1
1
Thái độ nhân viên cởi mở,
thân thiện
3,9 32,4 41,1 17% 5,9 3,6
2
Trang phục, diện mạo
trong giao tiếp
(gọn gàng, lịch sự, đẹp
mắt,…)
2,9 2,2 6,8 77,3 8,6 5,1
3
Tôn trọng giờ giấc (đúng
giờ, không để khách chờ
đợi lâu,…)
3,2 10,4 11,9 66,5 7,7 3,7
4
Luôn biết lắng nghe mọi
yêu cầu của du khách
2,7 4,3 9,6 49,9 22 14,2
5
Tôn trọng và cư xử đúng
mực với du khách trong
mọi trường hợp
2,7 2,3 4,1 59,5 24,7 9,4
6 Làm tốt công việc 2,5 1,8 5,8 42,2 38,5 11,7
7
Nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ
du khách (cung cấp thông
tin, sẵn sàng hỗ trợ, dịch
vụ nhanh chóng,…)
2,5 0,5 3,9 55,6 27,7 12,3
8
Kiến thức trong giao tiếp
(linh hoạt xử lý tình
huống, cung cấp đầy đủ
thông tin cho khách, tự tin
trong giao tiếp,…)
2,9 3,5 8,2 73,8 13,7 0,8
9
Quan tâm đến những phản
hồi từ phía du khách
2,3 2,7 4,4 36,7 37,5 18,7
36
¾ Đánh giá về thái độ thân thiện, cởi mở
Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả cho thấy thái độ thân thiện, cởi mở của nhân
viên du lịch đạt 3,9 điểm, được đánh giá là tốt. Đây là yếu tố được đánh giá nổi bật
nhất trong văn hóa giao tiếp với du khách ở Đà Lạt. Kết quả này cũng tương đồng
với kết quả phỏng vấn du khách, đa số đều đánh giá cao sự nhiệt tình, thân thiện,
vui vẻ của nhân viên. Chính lối sống không xô bồ, tấp nập của vùng đất này đã tạo
nên cách ứng xử nhẹ nhàng, thân thiện rất khác biệt so với những địa phương khác.
Từ lâu, nét văn hóa này cùng cảnh quan thiên nhiên đã làm nên thương hiệu du lịch
Đà Lạt. Trải qua thời gian, Đà Lạt cũng chuyển mình phát triển nhưng mức độ phát
triển không quá mạnh mẽ như những khu vực lân cận: Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, … nên lối ứng xử thay đổi không đáng kể. Hơn nữa, trong giai đoạn mà
“nhà nhà làm du lịch, người người làm du lịch” như ở Đà Lạt hiện nay, nếu không
tạo được sự thân thiện, cởi mở ban đầu thì khó lòng thu hút được du khách.
¾ Đánh giá về trang phục trong giao tiếp
Trang phục trong giao tiếp công việc thường yêu cầu trước hết phải phù hợp,
lịch sự, gọn gàng, sau đó là yếu tố đẹp mắt hoặc theo thiết kế riêng của mỗi doanh
nghiệp. Loại hình dịch vụ khác nhau thì yêu cầu về trang phục cũng khác nhau. Ví
dụ, khảo sát tại điểm du lịch XQ Sử quán: nữ nhân viên mặc áo dài, đội nón lá, nam
nhân viên mặc quần tây, áo sơ mi trắng, thắt cà vạt; Công ty TNHH Phương Trang
chuyên về lữ hành – vận chuyển, khách sạn thì đồng phục là áo sơ mi và áo khoác
màu xanh lá cây; nhưng tại Công ty du lịch Phương Nam chuyên về lữ hành, tổ
chức tour thì trang phục tự do, … Tuy nhiên, số lượng những công ty lớn có khả
năng trang bị đồng phục cho nhân viên như XQ Sử quán, Phương Trang không
nhiều. Ở mục trang phục, diện mạo trong giao tiếp, du khách đánh giá mức 2,9
điểm, tương ứng với mức bình thường. Có nghĩa các doanh nghiệp không tạo được
ấn tượng gì đặc biệt với du khách qua trang phục, diện mạo của nhân viên. Thật ra,
trang phục chỉ là dáng vẻ bên ngoài nhưng nó cũng là cách ghi dấu trong tâm trí du
37
khách, thông qua trang phục du khách nhận diện được doanh nghiệp. Doanh nghiệp
muốn du khách ghi nhớ tên mình nhưng lại bỏ quên yếu tố trang phục của nhân viên
thì thật đáng tiếc. Như ví dụ trên, ở Đà Lạt nếu nhìn những nữ nhân viên mặc áo
dài, đầu đội nón lá, du khách dễ dàng nhận ra đó là hình ảnh của Công ty XQ nổi
tiếng, hay bộ đồng phục màu xanh lá cây đặc trưng của Công ty Phương Trang
chuyên về vận chuyển – lữ hành.
¾ Đánh giá về việc tôn trọng giờ giấc với du khách
Yếu tố này được đánh giá 3,2 điểm, mức trung bình so với thang điểm 5.
Việc tôn trọng giờ giấc với du khách thể hiện ở hai mặt: một là chọn giờ giấc phục
vụ sao cho thuận tiện nhất với khách, hai là không để khách hàng phải chờ đợi được
phục vụ. Các dịch vụ như lưu trú, tổ chức tour, đến các điểm du lịch tham quan
thường không chịu ảnh hưởng nhiều về yếu tố thời gian, một là thời gian đến sử
dụng dịch vụ hoàn toàn do khách chủ động , hai là các dịch vụ buồng phòng, địa
điểm du lịch luôn sẵn sàng, khách đến là có thể sử dụng ngay. Chỉ có các dịch vụ về
ăn uống thường phải có thời gian chờ đợi để chế biến. Dù vậy, yếu tố giờ giấc chỉ
được đánh giá ở mức độ bình thường còn cho thấy các dịch vụ du lịch đã không
được cung cấp một cách nhanh chóng nhất.
¾ Đánh giá về yếu tố lắng nghe du khách
Lắng nghe du khách có nghĩa là nhớ và hiểu tất cả những thông tin có được
từ quá trình giao tiếp với du khách. Lắng nghe du khách là cách tốt nhất để hiểu
được nhu cầu của khách. Hoạt động này chỉ đạt 2,7 điểm, tức là dưới mức bình
thường. Như phần phỏng vấn trực tiếp, một số du khách cho biết họ đánh giá cao sự
nhạy bén trong nắm bắt tâm lý và nhu cầu của khách, thế nhưng họ chỉ thấy điều
trong các cơ sở du lịch cao cấp. Nếu không biết lắng nghe, thông tin hạn chế ,
doanh nghiệp làm sao có thể biết được nhu cầu khách cần gì, muốn phục vụ ra sao,
chưa nói đến việc nắm bắt tâm lý du khách còn đòi hỏi người giao tiếp phải có sự
chuyên nghiệp và kinh nghiệm, sự tinh tế của bản thân. Hạn chế trong việc lắng
nghe thể hiện nhân viên thiếu chuyên nghiệp, không có kỹ năng trong giao tiếp với
khách, doanh nghiệp thờ ơ với người sử dụng dịch vụ của mình. Liên hệ với kết quả
38
phỏng vấn một số nhà quản lý du lịch tại phụ lục 3, quả thật, nhiều doanh nghiệp
không hề biết du khách phản ứng thế nào về dịch vụ của mình. Đó là lý do tại sao
du lịch Đà Lạt có chiều hướng ngày càng chững lại và dậm chân tại chỗ.
¾ Đánh giá về sự tôn trọng, hành vi cư xử đúng mực với du khách
Bảng tổng hợp kết quả cho thấy việc lựa chọn hành vi cư xử đúng mực với
du khách chỉ đạt 2,7 điểm, dưới mức điểm trung bình. 84,2 % người được điều tra
đều đánh giá hành vi cư xử với du khách ở Đà Lạt rất bình thường, thậm chí là tệ.
Sau sự cởi mở , thân thiện ban đầu để thu hút khách, thái độ sau đó lại khác hẳn.
Đến các cửa hàng bán đặc sản, đồ lưu niệm, quần áo,… càng thấy rõ điều này, sau
lời chào mời đon đả, du khách chỉ cần chạm tay vào món đồ hay hỏi mà bỏ đi là có
chuyện không hay xảy ra, nhẹ là những lời nói không hay, nặng có thể xảy ra xích
mích, to tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh doanh du lịch tại Đà Lạt chưa có
quy hoạch, định hướng cụ thể, không chú trọng đến phát triển lâu dài, bền vững,
doanh nghiệp chỉ chú ý đến kết quả nhất thời theo lối “ăn xổi ở thì”. Chất lượng
nguồn nhân lực hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ (45% nhân viên du lịch chưa qua
đào tạo nghề, 46% có trình độ trung cấp, sơ cấp) nên kỹ năng giao tiếp yếu. Bản
thân những người làm công tác quản lý hiểu biết chưa đầy đủ về văn hóa giao tiếp
nên doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức, không có biện pháp khuyến khích hay
chế tài cần thiết để nhân viên có động cơ trau dồi những thói quen giao tiếp văn
minh, lịch sự với du khách.
¾ Đánh giá về khả năng hoàn thành tốt công việc
Làm tốt công việc là trách nhiệm của doanh nghiệp, thể hiện dịch vụ cung
cấp cho du khách đúng như cam kết. Khả năng này chỉ đạt 2,5 điểm, du khách
không hài lòng về khả năng thực hiện công việc của nhân viên cũng như chất lượng
dịch vụ của doanh nghiệp. Thật vậy, nhiều du khách cho biết rất thất vọng khi đến
Đà Lạt du lịch vì chất lượng dịch vụ không được như những lời quảng cáo, giới
thiệu hấp dẫn ban đầu. Đặc biệt, nếu du khách đến tham quan Đà Lạt vào những dịp
cao điểm như dịp 2/9, 30/4 và 1/5, Festival hoa,… thì sự xuống cấp về chất lượng
dịch vụ càng thể hiện rõ: gía cả phòng ốc tăng từ 100% - 300%, lại phải chịu cảnh
39
chen chúc nhiều người một phòng, các điểm tham quan du lịch thì nghèo nàn, đơn
điệu, du khách đến chỉ ngắm cảnh mà không có dịch vụ giải trí nào khác, nhân viên
du lịch trình độ hạn chế không thể thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu, khám phá những điều
mới lạ của du khách,… Chính điều này đã làm cho du khách mất dần sự tin tưởng
vào dịch vụ du lịch Đà Lạt. Nguyên nhân là do du lịch Đà Lạt chỉ biết khai thác
những gì sẵn có, không coi trọng việc đầu tư và tái đầu tư cả về cơ sở vật chất lẫn
nguồn nhân lực. Tâm lý làm du lịch theo kiểu tận thu mùa cao điểm để bù đắp cho
những thời điểm không có khách trong năm. Tất cả đều cho thấy các doanh nghiệp
du lịch Đà Lạt còn kinh doanh theo lối nhất thời, không nghĩ đến việc đầu tư cần
phải đạt hiệu quả lâu dài và bền vững.
¾ Đánh giá về sự nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ du khách
Như đã trình bày ở phần lý luận, thái độ nhiệt tình, sẵn sàng hỗ trợ thể hiện
dịch vụ của doanh nghiệp không chỉ ở mức hoàn thành theo cam kết mà còn tốt hơn
cả sự kỳ vọng của khách hàng. Phần này du khách đánh giá rất thấp, 2,5 điểm, mức
dưới trung bình. Liên hệ với yếu tố hoàn thành tốt công việc ở trên cũng đạt 2,5
điểm. Kết quả này là tất yếu bởi trách nhiệm trước hết của doanh nghiệp là hoàn
thành dịch vụ đã cam kết, sau đó mới đưa thêm các hoạt động hỗ trợ để làm hoàn
hảo hơn dịch vụ của mình. Bản thân dịch vụ chưa tốt thì doanh nghiệp khó có khả
năng cung cấp thêm các dịch vụ hỗ trợ khác. Nhiều du khách phàn nàn nhân viên tại
một số doanh nghiệp rất chậm trong việc đáp ứng yêu cầu của khách, đôi khi yêu
cầu một vài lần mới được đáp ứng, ví như khâu tiếp thực ở các cơ sở ăn uống, nhân
viên phục vụ trong khách sạn,… Trước hết là do bản thân nhân viên thiếu kỹ năng
nghề nghiệp nên khả năng phục vụ không chuyên nghiệp. Một số nhân viên chỉ cố
gắng làm cho xong việc, không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận phục
vụ nên thiếu hẳn sự nhiệt tình trong cung cách phục vụ. Sau phải thẳng thắn nhìn
nhận rằng bản thân doanh nghiệp thờ ơ với nhu cầu của khách, không biết quan tâm
lắng nghe để nắm bắt nhu cầu của khách, dẫn đến phục vụ thiếu nhiệt tình, công tác
chăm sóc, hỗ trợ khách hàng bị bỏ ngỏ.
40
¾ Đánh giá về kiến thức trong giao tiếp của nhân viên
Du khách đánh giá kiến thức của nhân viên du lịch Đà Lạt ở mức bình
thường – 2,9 điểm. Trong hoạt động giao tiếp, yếu tố kiến thức là điều kiện cần, các
kỹ năng giao tiếp là điều kiện đủ. Một số công việc trong ngành du lịch đòi hỏi
nhân viên có trình độ cao, kiến thức rộng như: hướng dẫn viên du lịch, thuyết minh
viên,… Để thỏa mãn nhu cầu được thông tin của du khách, nhân viên không chỉ cần
có kiến thức chuyên môn, còn phải mở rộng kiến thức về nhiều lĩnh vực khác: văn
hóa, xã hội, lịch sử,… Với kết quả 45% nhân viên chưa qua đào tạo nghề, 46%
nhân viên có trình độ trung cấp, sơ cấp và chứng chỉ nghề thì nền tảng kiến thức của
đội ngũ nhân viên du lịch chưa thể đáp ứng được yêu cầu công việc chứ chưa nói
đến việc cần phải mở rộng thêm kiến thức. Ngoài ra, trình độ thấp cũng hạn chế khả
năng học hỏi, tiếp thu cái mới đối với nhân viên.
¾ Đánh giá về mức độ quan tâm đến những phản hồi từ phía du khách
Chỉ tiêu này được đánh giá thấp nhất trong 9 chỉ tiêu khảo sát. Với mức 2,3
điểm, việc quan tâm đến những phản hồi từ phía du khách không tốt. Thông tin
phản hồi từ du khách là kênh thông tin vô cùng quan trọng để doanh nghiệp cải
thiện chất lượng sản phẩm, thay đổi cung cách phục vụ, ứng xử. Trong phần trao
đổi trực tiếp, chúng tôi có đặt câu hỏi với các nhà quản lý du lịch về việc du khách
nhận xét, phản ứng thế nào về cung cách ứng xử, phục vụ của nhân viên trong
doanh nghiệp. Kết quả 50% số người được hỏi không hề biết khách phàn nàn, khen
ngợi hay có ý kiến gì về dịch vụ của doanh nghiệp. Chính vì không nắm được các
thông tin phản hồi từ du khách mà du lịch Đà Lạt qua bao nhiêu năm vẫn dậm chân
tại chỗ, nếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_hoa_giao_tiep_voi_du_khach_tai_cac_doanh_nghiep_du_lich_da_lat.pdf