CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH
1.1 TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH .1
1.2 CÁC LỢI ÍCH TRONG QUÁ TRÌNH TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH ỞCÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN.3
1.3 CÁC RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TỰDO HÓA TÀI CHÍNH ỞCÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN.6
1.3.1 Dòng vốn chảy vào ồ ạt.8
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn .9
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn .10
1.4 TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH - NỘI DUNG CHỦYẾU LÀ TỰDO HOÁ DỊCH
VỤTÀI CHÍNH 12
1.4.1 Cơhội từquá trình tựdo hoá dịch vụtài chính .12
1.4.2 Thách thức của quá trình tựdo hoá đối với các chủthểcung cấp dịch vụtài
chính .17
1.5 NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH TỰDO HÓA TÀI CHÍNH .19
1.5.1 Một số đặc điểm cơbản vềthịtrường dịch vụtài chính ởViệt Nam và mức
độmởcửa đối với các nhà đầu tưnước ngoài .19
1.5.2 Những bài học kinh nghiệm của các nước đối với việt Nam trong quá trình
tựdo hóa tài chính.22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH ỞVIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾVIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .25
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế.25
2.1.2 Chỉsốgiá tiêu dùng.26
2.1.3 Lao động và việc làm .26
2.1.4 Thu chi ngân sách Nhà nước .27
2.1.5 Tiết kiệm và đầu tư.28
2
2.2 DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶGIÁ.30
2.2.1 Những yếu tốchủyếu đểlựa chọn chính sách tỷgiá hối đoái.30
2.2.2 Diễn biến quá trình điều hành chính sách tỷgiá ởViệt Nam .31
2.3 QUÁ TRÌNH TỰDO HOÁ LÃI SUẤT.34
2.4 THỰC TRẠNG VỀTỰDO HOÁ DỊCH VỤTÀI CHÍNH .36
2.4.1 Các dịch vụbảo hiểm .36
2.4.2 Các dịch vụngân hàng .38
2.4.3 Dịch vụtài chính khác.41
2.4.4 Thực trạng vềcác chủthểcung cấp dịch vụtài chính .41
2.5 NHỮNG KẾT QUẢ, HẠN CHẾTRONG THỰC THI TỰDO HOÁ
DỊCH VỤTÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 54
2.5.1 Kết quả54
2.5.2 Hạn chế56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TỰDO HÓA TÀI
CHÍNH VÀ MỘT SỐCÔNG CỤPHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÓ ỞVIỆT NAM
3.1 CÁC QUAN ĐIỂM CẦN NHẤT QUÁN TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH 57
3.1.1 Các nước đang phát triển cần theo đuổi một cách mạnh mẽnhững
chính sách cho phép nước mình thu lợi từdòng vốn toàn cầu và tránh
được những nguy hiểm tựdo hoá 57
3.1.2 Đối phó với dòng chảy vốn ồ ạt trong thời kỳ đầu tựdo hoá 58
3.1.3 Quản lý vấn đềbùng nổcho vay song song với việc chỉnh đốn tình
trạng yếu kém của hệthống ngân hàng 59
3.1.4 Đẩy mạnh phát triển thịtrường vốn vận hành tốt sẽgiảm được rủi
ro của sựbất ổn cũng nhưthu hút được đầu tưgián tiếp 60
3.1.5 Cần xây dựng những thiết bịgiảm sốc tốt hơn và triển khai cơchế
để đối phó với những bất ổn vì những nước này có thểbịtổn thương cao độdo sự
rối loạn kinh tế 61
3.1.6 Kết hợp mang tính quốc tếgiữa khuôn khổpháp lý với việc công
khai thông tin để đảm bảo cho thịtrường được an toàn và hiệu quả62
3
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH 62
3.2.1 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tếvĩmô đểthúc đẩy tăng trưởng
kinh tếtừphía Chính phủ62
3.2.1.1 Chính sách quản lý tài chính công 64
3.2.1.2 Chính sách tiền tệvà tỷgiá 65
3.2.1.3 Hoàn thiện chính sách điều hành tỷgiá hối đoái nhằm
khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tưnước ngoài 66
3.2.2 Nhóm các giải pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thiện thịtrường tài
chính và lành mạnh hệthống ngân hàng 69
3.2.2.1 Hoàn thiện thịtrường tài chính 69
3.2.2.2 Lành mạnh hệthống ngân hàng 72
3.2.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh hệthống ngân hàng 75
3.2.2.4 Khuyến khích và hỗtrợcác NHTM hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước 78
3.2.2.5 Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường tính minh bạch thông
tin thịtrường và tạo dựng môi trường đầu tưthân thiện 79
3.3 MỘT SỐCÔNG CỤPHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH
TIẾN HÀNH TỰDO HOÁ TÀI CHÍNH 80
3.3.1 Phòng ngừa rủi ro tỷgiá 80
3.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2330 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính sách lãi suất điều hành trong thời kỳ
này theo hướng khuyến khích sản xuất, đảm bảo tính cân đối giữa tỷ giá và lãi suất, hạn
chế sự dịch chuyển vốn từ tiền đồng sang đô la Mỹ, lãi suất ngắn hạn VND được điều
chỉnh tăng nhẹ và lãi suất cho vay ngoại tệ giảm từ 8,5%/năm xuống 7,5%/năm, đồng
thời đưa ra quy định điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa đối với tiền gửi ngoại tệ của các
doanh nghiệp.
Sang năm 1999 và 2000, diễn biến lãi suất trở nên căng thẳng khi đối phó với
những khó khăn mới, tình trạng giảm phát xuất hiện. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch
vụ giảm liên tục. NHNN đã phải thực hiện điều chỉnh 5 lần lãi suất cho vay tối đa,
trong đó có 4 lần điều chỉnh lãi suất cho vay bằng nội tệ để thực hiện kích cầu. Lãi suất
tiền gửi và lãi suất huy động vốn cũng thường xuyên giảm xuống nhưng lượng tiền vốn
từ dân cư gửi vào ngân hàng vẫn theo chiều hướng tăng. Đến cuối năm 1999, tổng số
nguồn vốn huy động của các ngân hàng và TCTD tăng gần 20% so với cuối năm 1998.
Hàng nghìn tỷ đồng vốn nội tệ bị đọng trong NHTM.
Tháng 8/2000, theo QĐ 241/NH-QĐ của NHNN, cơ chế lãi suất cơ bản cộng
thêm biên độ đối với tiền đồng và ngoại tệ được áp dụng. Hàng tháng NHNN sẽ công
bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Tuy nhiên, cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản vẫn mang bóng dáng cơ chế trần lãi suất vốn ít nhiều làm méo
mó quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, gây trở ngại cho các TCTD trong việc huy
động và phân bổ hiệu quả nguồn lực quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là
những dự án sản xuất kinh doanh khả thi, có thể mang lại lợi nhuận cao và đương nhiên
rủi ro đi kèm thường cao không tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng bởi vì với
những dự án này, lãi suất cho vay (gồm cả yếu tố rủi ro) sẽ vượt mức lãi suất cơ bản
cộng với biên độ cho phép.
Và mốc quan trọng đánh dấu bước tiến trong điều hành lãi suất của NHNN đó
chính là việc NHNN thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ từ tháng 6/2001 trong
bối cảnh lãi suất trên thế giới giảm thấp, các điều kiện kinh tế tiền tệ trong nước đã
được nâng cao. Việc tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ đã có tác dụng khuyến khích
cho vay ngoại tệ, giúp cho mối quan hệ lãi suất tỷ giá được xác lập hợp lý hơn, cũng
như tạo điều kiện cho việc NHNN thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ thông qua các công
cụ chính sách tiền tệ khác.
39
Sau thời gian đúng một năm thực hiện thả nổi lãi suất cho vay ngoại tệ và tình
hình kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay
thoả thuận dựa trên cơ sở thị trường, năng lực của NHNN trong việc điều tiết và kiểm
soát lãi suất thị trường thông qua các công cụ chính sách tiền tệ đã được nâng lên, năng
lực tài chính, khả năng cạnh tranh của các NHTM ngày càng được củng cố. Quyết định
546/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về việc tự do hoá lãi suất cho vay bằng
VND đã có hiệu lực ngày 01/06/2002. Với việc thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thoả
thuận, có thể khẳng định rằng NHNN đã tiến hành một bước quyết định trong việc đổi
mới cơ chế điều hành lãi suất. Và việc điều hành lãi suất dựa trên cơ sở thị trường chắc
chắn là yếu tố nền tảng tạo điều kiện cho công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng theo
định hướng thị trường, giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện tốt vai trò
trung gian tài chính trong nền kinh tế.
Như vậy, biện pháp hành chính duy nhất trong quản lý lãi suất mà NHNN còn áp
dụng là khống chế lãi suất tiền gửi bằng đô la Mỹ của các doanh nghiệp. Hiện tại các
ngân hàng chỉ được phép trả 0,1%/năm đối với khoản tiền gửi không kỳ hạn, 0,5 và
1%/năm đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn dưới sáu tháng và trên sáu tháng.
2.4 THỰC TRẠNG VỀ TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
2.4.1 Các dịch vụ bảo hiểm
Trước năm 1994, khi lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm là một ngành độc quyền của Nhà
nước thì thị trường bảo hiểm tương đối ảm đạm. Các loại hình sản phẩm bảo hiểm
nghèo nàn, chủ yếu là các sản phẩm truyền thống như: bảo hiểm tàu biển, bảo hiểm tai
nạn và bảo hiểm tài sản…Các loại hình dịch vụ bảo hiểm chủ yếu thực hiện chức năng
chia sẻ tủi ro tổn thất của tài sản và sức khoẻ chứ chưa thực hiện chức năng tiết kiệm và
đầu tư. Ngày 18/12/1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP cho phép các nhà
bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức: liên doanh, mở chi
nhánh hoặc 100% sở hữu vốn nước ngoài. Việc tham gia của các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài đã làm cho thị trường bảo hiểm Việt Nam có tính cạnh tranh cao và
sôi động hơn. Chính sự đổi mới nhận thức quan trọng này đã làm cho thị trường phát
triển một cách nhanh chóng. Ngành bảo hiểm đã có những bước tiến quan trọng và
đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Theo thông tin từ Bộ Tài Chính, thị trường bảo hiểm
VN đang có bước tăng trưởng nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng bình quân trong suốt
giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2004 là 30%/năm, phí bảo hiểm từ mức 0,37% GDP
40
đến nay đã chiếm 1,86% GDP(vào khoảng 900 triệu USD). Với tốc độ tăng trưởng như
hiện nay, đến năm 2010, tỷ trọng phí bảo hiểm/GDP sẽ đạt khoảng 4,2%. Ngoài ra, vốn
từ bảo hiểm đầu tư ngược lại nền kinh tế đến năm 2004 đã đạt mức 23.000 tỷ đồng, đây
là đóng góp rất đáng kể của lĩnh vực kinh tế đầy tiềm năng này. Tính đến nay, ngoài 2
doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước đã có 10 doanh nghiệp cổ phần, 15 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và 30 văn phòng đại diện. Nhiều loại sản phẩm bảo hiểm khác
nhau cũng được doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước đưa vào khai thác. Từ đó
các dịch vụ liên quan và hỗ trợ bảo hiểm như tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, tư vấn bảo
hiểm ngày càng phổ biến và có triển vọng phát triển.
Cần phải khẳng định rằng sự phát triển của thị trường bảo hiểm ở Việt Nam trong
thời gian qua là một thành công lớn. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy được tổng doanh
thu phí bảo hiểm cho đến nay chỉ mới đạt khoảng 1,68% GDP là vẫn còn tương đối
thấp so với các nước trong khu vực như ở Thái Lan: 2,25%; Malaysia: 4,2%;
Singapore: 5,52% và Đài Loan là 6,9% (xem bảng 2.1). Điều đó cho thấy tiềm năng thị
trường bảo hiểm ở nước ta vẫn còn rất lớn. Đa số các sản phẩm bảo hiểm thâm nhập và
khai thác thị trường ở mức độ chưa cao. Theo các số liệu tính toán được, giá trị bảo
hiểm hàng nhập khẩu mới chỉ đạt 20% tổng kim ngạch hàng nhập khẩu và giá trị bảo
hiểm hàng xuất khẩu chỉ đạt 5,7% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu, tình trạng tương tự
như trong ngành xây dựng, giá trị bảo hiểm xây dựng và lắp đặt cho các công trình đầu
tư trong nước chỉ đạt 23% so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Các sản phẩm bảo
hiểm con người cho các đối tượng là học sinh, sinh viên… chưa được khai thác đúng
mức, thậm chí sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp hầu như chưa xuất hiện.
Bảng 2.1: Tổng doanh thu phí bảo hiểm so với GDP
Việt Nam Trung Quốc Thái Lan Malaysia Singapore Đài Loan
1,68% 1,5% 2,25% 4,2% 5,52% 6,9%
Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm năm 2001
Trước đây, hành lang pháp lý của thị trường bảo hiểm chủ yếu dựa trên các văn
bản dưới luật. Tuy nhiên, ngày 09/12/2000, Luật kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc
hội khoá X thông qua và có hiệu lực ngày 01/04/2001 là một văn bản pháp lý quan
trọng cho thấy nỗ lực của Chính phủ trong việc ổn định và phát triển thị trường bảo
hiểm Việt Nam nhằm thu hút nguồn nội lực để tạo động lực phát triển kinh tế.
41
Tóm lại, thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam là một thị trường năng động và có
tiềm năng kinh tế cao. Do đó, chúng ta cần hoàn thiện hơn nữa về môi trường pháp lý,
hình thành một chiến lược phát triển tổng thể để phát triển các dịch vụ bảo hiểm nhằm
tận dụng những cơ hội của tiến trình gia nhập WTO.
2.4.2 Các dịch vụ ngân hàng
Dịch vụ ngân hàng sẽ là một trong những lĩnh vực chịu sự tác động lớn từ việc
Việt Nam gia nhập WTO. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết song
phương và đa phương sẽ làm tăng số lượng đối thủ cạnh tranh có tiềm lực về tài chính,
công nghệ, trình độ quản lý và gia tăng các áp lực cạnh tranh trên thị trường nội địa do
nới lỏng các hạn chế cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Các ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu,
chất lượng tài sản có thấp. Nợ xấu của các ngân hàng còn lớn, trình độ quản lý nhân
hàng còn yếu và khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn thấp. Hầu
hết các ngân hàng còn thiếu chiến lược kinh doanh bền vững, chủ yếu tăng theo chiều
rộng bằng tăng tài sản có, mở rộng tín dụng, không chú trọng nâng cao chất lượng tài
sản và khả năng sinh lời.
Bên cạnh đó, công nghệ ngân hàng còn lạc hậu: các ngân hàng cũng chưa thiết
lập được hệ thống quản lý rủi ro hữu hiệu, hệ thống thanh toán nội bộ còn yếu; kiểm
tra, kiểm toán chưa hiệu quả; việc thu thập và xử lý hệ thống thông tin chưa hiệu quả
cũng như việc quản lý tài chính chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…Ngoài ra, đội ngũ
cán bộ của hệ thống ngân hàng trình độ am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp
trong nước, quốc tế, các nguyên tắc của WTO còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Không chỉ hạn chế về dịch vụ, nhân lực, tài chính, các ngân hàng VN còn phải
đối mặt với hàng loạt các thách thức khác như những rủi ro ngoại sinh từ thị trường tài
chính khu vực và quốc tế; mất dần lợi thế cạnh tranh về quy mô, khách hàng và hệ
thống kênh phân phối…
Dự báo khi VN hội nhập, tuy dịch vụ ngân hàng phục vụ doanh nghiệp là khu vực
cạnh tranh nhưng cạnh tranh mạnh chủ yếu lại diễn ra trong việc cung cấp dịch vụ cho
các doanh nghiệp lớn như các Tổng công ty Nhà nước lớn, một số nhóm công ty tư
nhân hoặc công ty cổ phần.
Có thể khẳng định ở thời điểm hiện nay khó có thể đánh giá hết những lợi ích
cũng như tác động và hệ quả lâu dài của hội nhập quốc tế nói chung và việc gia nhập
42
WTO nói riêng. Thậm chí là tác động trong một phạm vi hẹp là đối với khu vực tài
chính ngân hàng Việt Nam.
Nhìn chung, các dịch vụ ngân hàng ở nước ta chưa đa dạng, chủ yếu là các dịch
vụ truyền thống như tiết kiệm, tín dụng và dịch vụ thanh toán. Các dịch vụ khác hầu
như chưa ra đời hoặc chưa phát triển như: kinh doanh các sản phẩm phái sinh, các sản
phẩm trên thị trường kỳ hạn, quản lý tài sản và đầu tư gián tiếp. Đồng thời, các dịch vụ
nghiên cứu và tư vấn về đầu tư gián tiếp, phân tích tín dụng chưa đáp ứng được nhu
cầu của nền kinh tế.
Dịch vụ tiết kiệm và tín dụng là kênh huy động và cung cấp vốn chủ yếu cho nền
kinh tế. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như hạn chế về năng lực
quản lý của hệ thống ngân hàng nên các dịch vụ trên chưa thực sự hiệu quả. Tuy dịch
vụ tiết kiệm của hệ thống ngân hàng đã từng bước đạt được những tăng trưởng nhất
định kết hợp với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như: tiền gửi với các kỳ
hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, tiết kiệm đảm bảo bằng vàng, tiết kiệm để mua
nhà, tiết kiệm để du học… nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế
còn hạn chế. Trong khi đó, dịch vụ tín dụng cũng đã đa dạng hơn: từ các hình thức tín
dụng (cho vay đồng tài trợ, cho vay theo phương thức BOT, BT, cho vay xuất nhập
khẩu, chiết khấu chứng từ có giá…) cho đến các chủ thể cung cấp (ngoài hệ thống ngân
hàng còn có các tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư, các quỹ hỗ trợ và các công ty cho
thuê tài chính) nhưng nhìn chung các dịch vụ trên chưa đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của
nền kinh tế. Năm 1999 tổng nguồn vốn đầu tư cho toàn xã hội 131,2 nghìn tỷ đồng thì
khả năng ngân hàng cho vay chỉ ở con số 26,1 nghìn tỷ, chiếm tỷ lệ 19,9%, sang năm
2000 tỷ lệ này có tăng lên nhưng không đáng kể. Ngay cả khi so với các nước kém
phát triển, năng lực huy động vốn và cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng nước
ta cũng còn ở mức khá thấp (xem bảng 2.2)
Bảng 2.2 Tỷ lệ tín dụng cung ứng cho nền kinh tế so với tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội
Việt Nam
Mức trung bình
của các nước có
thu nhập thấp
Trung Quốc
Mức trung bình
của các nước có
thu trung bình
1990 1998 1990 1998 1990 1998 1990 1998
15.9 22.6 38.1 37.4 90 120 57.9 52.9
43
Nguồn: Watanabe Shinichi: Banhmarking the stage of the economic development of
VietNam
Các dịch vụ thanh toán ở nước ta bao gồm việc cung cấp các phương tiện thanh
toán như tiền mặt, thẻ tín dụng, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi và các phương tiện thanh
toán khác cũng như thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế: mở tài
khoản, trả lương vào tài khoản, thu hộ, chi hộ, đổi séc du lịch…Hiện nay tiền mặt vẫn
chiếm một tỷ trọng đáng kể trong lưu thông. Theo báo cáo thường niên năm 2004 của
NHNN, tiền mặt chiếm khoảng 20,35% trong tổng phương tiện thanh toán, giảm so với
các năm trước (tỷ lệ này năm 2002 là 22,56%, năm 2003 là 22,03%). Điều này chứng
tỏ các dịch vụ thanh toán khác (tiên tiến hơn) chưa phát triển cao. Tuy vậy, điều đáng
khích lệ là tốc độ sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt tăng trung
bình 30% năm. Điều này chứng minh các dịch vụ thanh toán đã có những chuyển biến
đáng kể. Uỷ nhiệm chi (lệnh chi) phát triển mạnh, hiện chiếm tới 90% trong tổng giá trị
các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Trong khi đó, sec và ngân phiếu có xu
hướng giảm mạnh: séc từ 7% năm 1995 xuống còn 2%-3%, ngân phiếu từ 15% năm
1995 xuống còn khoảng 8% năm 2000. Nguyên nhân của thực trạng trên là uỷ nhiệm
chi gắn liền với quá trình hiện đại hoá hệ thống thanh toán và khả năng ứng dụng công
nghệ tự động trong việc thực hiện các giao dịch. Từ đó uỷ nhiệm chi trở nên thuận tiện,
an toàn và rất được ưa chuộng. Ngoài ra, các loại thẻ như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,
thẻ rút tiền tự động là những phương tiện thanh toán hiện đại vẫn chưa được phát triển
mạnh. Các loại thẻ này chủ yếu do các ngân hàng lớn phát hành và chưa được thuận
tiện nên khả năng thâm nhập thị trường chưa cao. Bên cạnh đó, tài khoản cá nhân cũng
là một dịch vụ thanh toán có những tăng trưởng đáng kể. Số dư tài khoản cá nhân tăng
tương đối lớn: khoảng 40% năm 2000 và 48% năm 2001 nhưng chủ yếu phục vụ cho
các giao dịch rút tiền mặt của các chủ doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh và cán bộ
công nhân viên của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu của các luồng thanh toán qua các hệ thống thanh toán hiện nay như sau:
thanh toán qua hệ thống thanh toán nội bộ các ngân hàng thương mại (NHTM) chiếm
tỷ lệ 57%; thanh toán bù trừ qua các trung tâm thanh toán bù trừ ngân hàng Nhà nước
(NHNN) chiếm 27%; thanh toán qua tài khoản tiền gửi của NHNN chiếm 16%. Điều
này phản ánh thực trạng là các giao dịch thanh toán trên thị trường thanh toán liên ngân
hàng chiếm một vị thế thứ yếu. Hoạt động của hệ thống thanh toán chủ yếu phục vụ
44
khách hàng có mở tài khoản tại cùng một hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân
hàng có mạng lưới chi nhánh lớn và rộng khắp.
Tóm lại, các dịch vụ ngân hàng ở nước ta đã phát triển tương đối đa dạng nhưng
trong đó các loại hình dịch vụ truyền thống như dịch vụ tiết kiệm, tín dụng, thanh toán
vẫn là những dịch vụ chính, chiếm tỷ trọng cao nhất trong thị trường. Trong khi đó, các
dịch vụ mới và hiện đại chưa được phát triển hoàn chỉnh do những nguyên nhân khách
quan như hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng và những nguyên nhân chủ quan từ những
hạn chế về năng lực của các chủ thể cung cấp dịch vụ. Vì vậy thị trường dịch vụ ngân
hàng của Việt Nam vẫn còn một khoảng cách khá lớn với các quốc gia trong khu vực
và trên thế gới.
2.4.3 Dịch vụ tài chính khác
Hiện nay, mới xuất hiện một loại dịch vụ tài chính phái sinh mới mà các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu rất quan tâm đó là quyền chọn tiền tệ (option). Đây là bước đi
mang tính chất đột phá của ngân hàng Eximbank. Tính đến thời điểm cuối năm 2003
thì ngân hàng Eximbank đã thực hiện được khoảng 70 hợp đồng option. . Tuy nhiên
nghiệp vụ này nhiều hạn chế vì nó chỉ áp dụng trên vài đồng tiền chính, và các doanh
nghiệp Việt Nam chưa có nhiều kiến thức về nó. Nhưng điều này cho thấy triển vọng
rằng trong tương lai không xa nữa, sẽ còn nhiều sản phẩm phái sinh sẽ được áp dụng ở
Việt Nam.
Ngoài ra còn có các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh mới được triển khai thực hiện vào cuối tháng
7/2000; kinh doanh ngoại tệ và vàng bạc; dịch vụ tư vấn tài chính và tiền tệ cho khách
hàng do một số công ty tài chính và kiểm toán cung cấp chủ yếu tư vấn về thuế; nghiệp
vụ uỷ thác và đại lý gồm uỷ thác, nhận uỷ thác, làm đại lý liên quan đến hoạt động
ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp
đồng; kinh doanh khác như cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
2.4.4 Thực trạng về các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
a) Các doanh nghiệp bảo hiểm
45
Hiện nay, tại nước ta có 24 doanh nghiệp bảo hiểm và 21 văn phòng đại diện
công ty bảo hiểm của Anh, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Singapore tại
Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003), trong đó có 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 4
công ty môi giới bảo hiểm, khoảng 7.000 đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp và 40 văn
phòng đại diện của các công ty bảo hiểm quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ta
không chỉ ít về số lượng mà còn hạn chế về tiềm lực tài chính. Tổng Công ty bảo hiểm
Việt Nam (Bảo Việt), doanh nghiệp nhà nước được xếp hạng đặc biệt có quy mô lớn
nhất thị trường bảo hiểm hiện nay, tính đến năm 2000 vốn chủ sở hữu chỉ ở mức 879 tỷ
đồng, công ty liên doanh TNHH Bảo Minh CMG là 6 triệu USD. Do đó, các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ gặp những khó khăn nhất định trong nỗ lực đầu tư đổi
mới công nghệ - điều kiện tiên quyết trong quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì
thế, sự hạn chế về tiềm lực tài chính là một bất lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh đặc biệt trong quá trình tự do hoá các
dịch vụ tài chính. Điều này đưa đến một thực trạng là các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam chỉ khai thác các sản phẩm bảo hiểm qua những kênh truyền thống. Các kênh
phân phối dịch vụ qua mạng hầu như chưa ra đời trong khi trên thế giới, doanh thu dịch
vụ bảo hiểm qua Internet đã lên tới hàng tỷ đôla vào năm 2000. Ưu thế của việc khai
thác các kênh phân phối mới là sự nhanh chóng, tiện lợi, chính xác và đặc biệt là giảm
các chi phí giao dịch từ đó góp phần hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường dịch vụ bảo hiểm của Việt Nam chủ
yếu được các doanh nghiệp nhà nước khai thác. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước
nắm giữ thị phần rất lớn. Ví dụ, trong thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, Bảo Việt
chiếm 42,42%, kế đó là Bảo Minh với 22,89%, PVI (14,06%), PJICO (8,75%). Số thị
phần ít ỏi còn lại (chưa đến 12%) thuộc về 11 DN bảo hiểm khác như Bảo Long
(1,49%), Alianz (1,69%)..., Đối với lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, năm qua Công ty
Prudential Việt Nam đã đứng đầu trong số các công ty bảo hiểm nhân thọ về khai thác
mới thị phần phí bảo hiểm với tỷ lệ 45,07%, tiếp theo là Bảo Việt (28,42%), Manulife
(12,76%), AIA (8,58%) và Bảo Minh CMG (5,17%). Sự tăng trưởng mạnh của
Prudential trong năm qua đã giúp cho thị phần phí bảo hiểm các hợp đồng bảo hiểm có
hiệu lực đến năm 2004 của công ty này sau 5 năm hoạt động tại Việt Nam ngang ngửa
46
với Bảo Việt (40,02% so với 40,07%). Các DN bảo hiểm nhân thọ òn lại chiếm tỷ lệ
lần lượt là Manulife 11,68%, AIA 5,56%, Bảo Minh CMG 2,67%.
Hình 2.5 Thị phần các doanh nghiệp bảo hiểm trong thị trường bảo hiểm
Prudential
45%
Manulife
13%
AIA
9%
BM
5%
BV
28%
DN khaùc
12% BV
42%
BM
23%
PJICO
9%
PVI
14%
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Thị trường bảo hiểm nhân thọ
Nguồn: báo Đầu tư 01/12/2005
Hiện nay thị trường dịch vụ bảo hiểm có tiềm năng rất lớn, đặc biệt là bảo hiểm
nhân thọ (hiện chỉ có khoảng 2% dân số tham gia và chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP.
HCM). Các sản phẩm đang được mở rộng đến mọi thành phần kinh tế và trải rộng khắp
các địa bàn nên thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều dấu hiệu lạc quan. Hầu hết các
doanh nghiệp bảo hiểm đều có lãi. Tốc độ tăng trưởng bình quân doanh thu phí bảo
hiểm của toàn hệ thống đạt 28,75% năm trong giai đoạn 1994 - 2001. Sang năm 2005,
dự báo của Bộ Tài chính là thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng ở
mức độ cao như năm vừa qua . Mục tiêu được đặt ra cho năm nay là tổng doanh thu
ngành bảo hiểm đạt 2,5% GDP. Đạt được chỉ tiêu này có ý nghĩa to lớn trong việc thực
hiện các mục tiêu chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm đến năm 2010 là phát triển
toàn diện, an toàn, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và
dân cư, thu hút được nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên
nếu so với một số nước trong khu vực (Malaysia 3,6%, Singapore 5%) tỷ trọng khai
thác bảo hiểm của Việt Nam vẫn còn thấp. Doanh thu phí bảo hiểm trên một người dân
ở mức 2 USD, trong khi đó ở Indonesia là 4 USD, Thái Lan 6 USD, Philipines 11
USD.
Cần phải khẳng định rằng, sự tăng trưởng khá thành công của thị trường dịch vụ
bảo hiểm có phần đóng góp không nhỏ từ sự nỗ lực của Chính phủ nhằm xây dựng
hành lang pháp lý ổn định cho loại hình kinh doanh bảo hiểm. Nghị định 100/CP ngày
18/12/1993 cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới các hình
47
thức: liên doanh, mở chi nhánh hoặc 100% sở hữu vốn nước ngoài đã thổi luồng sinh
khí cho thị trường bảo hiểm Việt Nam vốn ảm đạm trước đó. Sau đó, luật kinh doanh
bảo hiểm được Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu lực ngày
01/04/2001 là văn bản pháp lý quan trọng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam bởi vì
trước đây hoàn toàn chỉ dựa vào các văn bản dưới luật. Tiếp theo là hai nghị định
42/2001 NĐ-CP và 43/2001 NĐ-CP ban hành trong tháng 8/2001; đồng thời Bộ Tài
Chính ban hành hai thông tư 71/2001 TT-BTC và 72/2001 TT-BTC nhằm chi tiết hóa
và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm. Việc chuyển chức năng quản lý nhà
nước khỏi các công ty bảo hiểm về cho Bộ Tài Chính đã làm cho các doanh nghiệp bảo
hiểm có điều kiện cạnh tranh công bằng hơn đồng thời mạnh dạn đầu tư hơn.
Tuy nhiên, trong bức tranh toàn cảnh về các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
chúng ta không thể không nhắc đến những khác biệt về cơ cấu đầu tư của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam với các nước đã có nền tài chính ổn định. Trên 50% nguồn
quỹ được các doanh nghiệp bảo hiểm gửi tại ngân hàng, trong khi đó ở các nước trên
60% nguồn quỹ được đầu tư vào các loại chứng khoán. Phần còn lại trong cơ cấu đầu
tư của các doanh nghiệp bảo hiểm là tín phiếu kho bạc, thị trường bất động sản, cho
vay và góp vốn liên doanh. Cơ cấu đầu tư như trên cho thấy các doanh nghiệp bảo hiểm
tuy có tăng trưởng về mặt doanh thu nhưng còn thụ động trong đầu tư vì thế hiệu quả
hoạt động chưa cao.
b) Hệ thống ngân hàng
Chương trình, mục tiêu phát triển dịch vụ ngân hàng năm 2005 và giai đoạn
2006-2010 đã được NHNN lên phương án. Theo đó, sẽ xây dựng một hệ thống ngân
hàng đủ mạnh về vốn, công nghệ hạ tầng kỹ thuật và năng lực tài chính để cạnh tranh
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong giai đoạn này sẽ tạo khả năng lưu thông VND và mở rộng một số dịch vụ
tài chính sang các nước trong khu vực; phát triển công nghệ ngân hàng theo hướng ứng
dụng công nghệ thông tin; tăng cường phát triển loại hình dịch vụ cao cấp như dịch vụ
môi giới và tư vấn tài chính, giữ hộ, bảo hiểm. Đặc biệt, khi Luật Giao dịch điện tử
được Quốc hội thông qua sẽ tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lý cho giao dịch NH
điện tử trong bối cảnh hội nhập. NHNN sẽ tiếp tục xây dựng và hòan chỉnh môi trường
48
pháp lý phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tiến tới xóa bỏ hàng rào ngăn cách
về địa lý tài chính.
Cột mốc quan trọng nhất trong lộ trình này là hệ thống các NHTM phải đáp ứng
được tiềm lực nguồn vốn và dự phòng rủi ro, cơ cấu tổ chức, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trang thiết bị công nghệ kỹ thuật. Theo đó, các ngân hàng cần tiếp tục tăng
vốn nhanh, đặc biệt là các NHTM Cổ phần phấn đấu có quy mô vừa và nhỏ phải có
mức vốn tối thiểu 450 tỷ đồng, quy mô lớn phải đạt từ 1.000 tỷ đồng trở lên vào năm 2010.
Thời gian qua, các Ngân hàng đã đầu tư không ít cho tiến trình hiện đại hóa ngân
hàng phù hợp với lộ trình hội nhập. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay ngoài chuyện
hoạt động bên trong sao cho hiệu quả thì ngay cả bộ mặt NH cũng là điều quan trọng
trong tiến trình hội nhập.
Việc lắp đặt hệ thống máy ATM hiện nay vẫn chưa hợp lý, mạnh ngân hàng nào
tìm nơi thuận tiện thì đặt. Điều đó cho thấy rằng, phát triển hạ tầng công nghệ cũng
phải có quy chuẩn và phải được nhiều cơ quan, ban ngành cùng tham gia. Tài khoản
tiền gửi hiện nay trên toàn địa bàn các tỉnh, thành phố là quá ít, vì vậy các NH cần phải
xem lại hoạt động của mình bởi thị trường còn bỏ trống rất nhiều.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở việt nam.pdf