Luận văn Các giải pháp giảm thiểu rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1

NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VÀ RỦI RO XUẤT KHẨU

HÀNG DỆT MAY01

1.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của thế giới 01

1.1.1. Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may trong nền kinh tế và thương mại thế giới 01

1.1.1.1. Vai trò của dệt may trong nền kinh tế thế giới 01

1.1.1.2. Đặc điểm của buôn bán quốc tế hàng dệt may 02

a. Đặc điểm về nhu cầu và tiêu thụ 02

b. Đặc điểm về sản xuất 03

c. Đặc điểm về thị trường 04

1.1.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may thế giới 04

1.2. Thị trường dệt may Hoa Kỳ và luật lệ liên quan đến hàng dệt may 09

1.2.1.Thị hiếu thị trường Hoa Kỳ đối với hàng dệt may 09

1.2.2.Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ 11

1.3. Rủi ro xuất khẩu hàng dệt may 13

1.3.1. Khái niệm rủi ro 13

1.3.2. Phân loại rủi ro xuất khẩu 15

1.3.2.1. Nhóm rủi roxuất khẩu do các yếu tố khách quan mang lại 15

a. Rủi ro do thiên tai 15

b. Rủi ro chính trị, pháp lý 15

c. Rủi ro lạm phát 16

d. Rủi ro hối đoái 16

e. Rủi ro do chính sách ngoại thương thay đổi 16

1.3.2.2. Nhóm rủi ro do cácyếu tố chủ quan mang lại 17

a. Rủi ro do thiếu vốn 17

b. Rủi ro do thiếu thông tin 17

c. Rủi ro do năng lực quản lý kém 17

d. Rủi ro do thiếu trình độ chuyên môn nghiêp vụ 18

1.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc kiểm soát rủi ro xuất

khẩu hàng dệt may 18

1.4.1. Kinh nghiệm kiểm soát rủi ro trong xuất khẩu hàng dệt may

của các doanh nghiệp dệt may Trung Quốc

1.4.2. Kinh nghiệm kiểm soát rủi ro trong xuất khẩu hàng dệt may

của chính phủ Trung Quốc

Kết luận chương 1

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CÁC RỦI RO TRONG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT

MAY SANG HOA KỲ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

VIỆT NAM 22

2.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 22

2.2. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ 26

2.3. Rủi ro từ môi trường bên ngoài 30

2.3.1. Cạnh tranh từ các nước đối thủ cạnh tranh 30

2.3.2. Các hàng rào của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may Việt Nam 34

2.3.2.1. Chế độ hạn ngạch 34

2.3.2.2. Khai báo xuất xứ hàng dệt may 34

2.3.2.3. Tiêu chuẩn về hàng dễ cháy 35

2.3.2.4. Các quy tắc, luật định khác 35

2.3.3. Luật pháp và quy chế của VN lên hàng dệt may xuất khẩu 36

2.4. Rủi ro từ bản thân doanh nghiệp 40

2.4.1. Rủi ro trong đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng 40

2.4.1.1. Rủi ro trong khâu đàm phán 40

2.4.1.2. Rủi ro trong khâu soạn thảo và ký kết hợp đồng 42

2.4.2. Rủi ro trong khâuthực hiện hợp đồng 45

2.4.2.1. Rủi ro liên quan đến quota 45

2.4.2.2. Rủi ro trong khâu chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu 47

a. Rủi ro trong khâu chuẩn bị nguyên phụ liệu 47

b. Rủi ro trong khâu may và duyệt mẫu 50

c. Rủi ro trong khâu sản xuất 50

d. Rủi ro trong khâu kiểm tra chất lượng hàng hóa 53

e. Rủi ro trong khâu thủ tục Hải quan 55

f. Rủi ro trong khâu chuẩn bị chứng từ 56

2.4.3. Rủi ro trong thanh toán và thanh lý hợp đồng 58

2.4.3.1. Rủi ro trong khâu thanh toán 58

2.4.3.2. Rủi ro trong thanh lý hợp đồng 58

Kết luận chương 2

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP GIẢM THIỂURỦI RO TRONG XUẤT KHẨU

SANG HOA KỲ CHO CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY VỪA VÀ

NHỎ VIỆT NAM 60

3.1. Các giải pháp giảm thiểu rủi ro từ môi trường bên ngoài 60

3.1.1. Tham gia hoạt động trong chuỗi liên kết, hiệp hội 61

3.1.2. Cập nhật, theo dõi thông tin liên quanđến dệt may thường xuyên 62

3.2. Các giải pháp giảm thiểu rủi ro từ bản thân doanh nghiệp 63

3.2.1. Tái cấu trúc tổ chức theo quản lý chuyên nghiệp 63

3.2.1.1. Ban Giám đốc 64

3.2.1.2. Bộ phận kinh doanh 66

a. Bộ phận theo dõi đơn hàng 66

b. Bộ phận xuất nhập khẩu 67

3.2.1.3. Bộ phận kho 68

3.2.1.4. Bộ phận sản xuất 68

a. Bộ phận kỹ thuật (mẫu) 68

b. Bộ phận sản xuất 69

c. Bộ phận kiểm tra chất lượng 70

3.2.1.5. Bộ nhận nhân sự 71

3.2.1.6. Bộ phận kế toán 71

3.2.2. Ap dụng các tiêuchuẩn quốc tế vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp 72

3.2.2.1. Hệ thống quản lý chất lượng (ISO – 9001) 72

a. Trách nhiệm lãnh đạo 72

b. Xây dựng hệ thống chất lượng 73

c. Xem xét hợp đồng 73

d. Kiểm soát thiết kế 73

e. Kiểm soát các nguyên phụ liệu do khách hàng cungcấp 73

f. Kiểm soát quá trình 73

g. Kiểm doát sản phẩm không phù hợp 74

h. Hoạt động phòng ngừa và khắc phục 74

i. Xếp dỡ, lưu kho, đóng gói, bảo quản và giao hàng 74

j. Đào tạo 74

3.2.2.2. Trách nhiệm của Công ty đối với xã hội (SA – 8000) 74

a. Lao động trẻ em 75

b. Lao động cưỡng bức 75

c. Sức khoẻ và an toàn 75

d. Phân biệt đối xử 75

e. Thực thi kỷ luật 75

f. Giờ làm việc 75

g. Lương và phúc lợi 76

3.2.3. Nâng cao chất lượng quản lý trong quá trình lên kế hoạch và

thực hiện đơn hàng 76

3.2.3.1. Chuyên nghiệp hoá hoạt động 76

3.2.3.2. Quản lý tốthệ thống tin trong nội bộ doanh nghiệp cũng như với bên ngoài 78

3.2.3.3. Đầu tư trang thiết bị cần thiết hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp 78

3.2.3.4. Tổ chức tốt khâu chuẩn bị nguyên vật liệu cũng như các

điều kiện cần thiết để đảm bảo đúng tiến trình sản xuất 79

3.2.3.5. Tổ chức sản xuất và giao hàng theo đúng kế hoạch 80

a. Chuẩn bị sản xuất 80

b. Sản xuất 80

c. Kiểm hàng và xuất hàng 81

3.2.4. Chuyển hướng hoạt động để luôn được chủ động trong sản xuất 81

3.2.4.1. Chuyển dần từ gia công sang tự sản xuất xuất khẩu 81

3.2.4.2. Đa dạng khách hàng, không nên tập trung vào duy nhất

thị trường Hoa Kỳ 82

3.3. Các kiến nghị đối với Chính phủ, cơ quan quản lý Nhà nước, Bộ, Ngành 83

3.3.1. Kiến nghị về chức năng tổ chức của Chính phủ, Bộ, ngành 83

3.3.2. Kiến nghị về chức năng hoạch định của Chính phủ, Bộ, ngành 84

3.3.2.1. Chính phủcần phải tăng cường hơn nữa công tác cải

cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa các khâu chứng từ 84

a. Về thủ tục xử lý công văn, yêu cầu, kiến nghị của thương

nhân liên quan đến hạn ngạch 84

b. Về thủ tục cấp visa, C/O hàng dệt may 84

3.3.2.2. Bộ thương mại cần cảitiến trong các tiêu chí phân bổ hạn ngạch 85

3.3.2.3. Cần triển khai và tăng cường những công tác hỗ trợ cho

doanh nghiệp dệt may 86

a. Hỗ trợ tạo nguồn cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành dệt may 86

b. Các cơ quan liên kết với nhau để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động dễ dàng hơn 87

3.3.2.4. Cơ quan Hải quan cũng nên đơn giản và cải cách các quy định phù hợp với thực tế 87

3.3.3. Giải pháp hoạch định chính sách đào tạo và quản lý nguồn

nhân lực của Chính phủ 88

Kết luận chương 3

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

pdf92 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4303 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp giảm thiểu rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t (sau 20 giờ) và quyết định cho xuất khẩu và xác định số lượng xuất khẩu. Doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong khâu này. Một số trường hợp do nhiều nguyên nhân khách quan như: khách hàng chậm thanh toán, hàng chất lượng kém phải tái chế ở nước ngoài, chậm tiến độ phải giao hàng bằng máy bay… dẫn đến tranh chấp và phải thương lượng, thời gian có thể kéo dài vài ba tháng, thậm chí có vụ việc hàng năm, vì vậy không thể làm thủ tục thanh khoản và thủ tục không thu thuế trong thời gian ân hạn 275 ngày và bị cưỡng chế theo quy định. Khi bị cưỡng chế, thời gian ân hạn chỉ còn 30 ngày và từ ngày thứ 31 trở đi, doanh nghiệp lại bị phạt nộp thuế chậm 0,1%/ngày đối với lô hàng bị cưỡng chế. Mức phạt trên đối với các doanh nghiệp ngành may là quá lớn. - Các doanh nghiệp dệt may gặp rủi ro trong việc thiếu lao động cho sản xuất. Ngành dệt may sử dụng hàng triệu lao động nhưng chỉ nâng cao tay nghề theo kiểu “anh truyền, em nối”, chưa có trường lớp đào tạo bài bản, tình trạng thiếu lao động có tay nghề tiếp tục là chuyện phổ biến. Ca cũng đầu tư vào ngành may mặc để giải quyết bài toán lao động, dẫn đến tình trạng lao động ngành may từ thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận rút về các tỉnh miền Trung và Bắc một cách ồ ạt. Ngoài ra, tình trạng công nhân chạy theo lương. Ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lương công nhân thường thấp do đơn hàng của doanh nghiệp có hạn trong khi các chi phí khác lại cao hơn, giá cả không tăng vì không thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Do lương thấp nên các lao động giỏi bỏ sang các công ty trả lương cao, nhất là các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp nước ngoài, khiến cho một số công ty, xí nghiệp may thiếu trầm trọng lao động có tay nghề. 43 Ví dụ 3: Trong tháng 3 năm 2005, công ty may Tân Phú Cường có hơn 100 lao động đã tự ý bỏ việc và đến nay vẫn chưa tuyển được công nhân. Vì thế, việc lôi kéo lao động bằng mọi cách của một số đơn vị cũng là lẽ đương nhiên. Họ không cần biết người lao động mới có gắn bó lâu dài với công ty nhưng trước mắt chỉ cần đáp ứng nhu cầu đơn hàng. Hiện, công đoàn của công ty cũng đang mệt mỏi với vấn đề này, vì phải làm công bằng cho cả doanh nghiệp và người lao động (Nguồn: Bà Tạ Thị Ngọc-Chủ tịch Công đoàn công ty may Tân Phú Cường) Các doanh nghiệp dệt may cũng như các nhà lãnh đạo ngành dệt may đang mắc phải tình trạng khó khăn với vòng lẩn quẩn “thiếu lao động, không có đơn hàng – có đơn hàng, không có lao động”. Điển hình như ở công ty trách nhiệm hữu hạn may mặc S. A, trước đây, công ty muốn có cơ hội được ký hợp đồng xuất khẩu để mong tìm kiếm công ăn việc làm cho hơn 300 công nhân nhưng lại thiếu quota. Ban giám đốc công ty phải cố gắng hết sức để đem đơn hàng về thì lại vấp phải khó khăn thiếu lao động. Công ty hiện thiếu đến 20% lao động để hoàn tất đơn hàng, Ban giám đốc công ty lại một lần nữa phải lo tìm người, vừa đăng báo tuyển lại đến đăng ký ở các trung tâm tuyển dụng nhưng chỉ tuyển được vài người. Ban giám đốc phải bàn bạc và thống nhất quyết định giao cho nhà máy khác gia công, thành ra công sức bỏ ra của ban giám đốc công ty trở nên quá uổng phí nhưng không ai dám giữ đơn hàng vì sợ không đảm bảo đúng thời hạn giao hàng thì lại bị bồi thường cho khách hàng. 2.4. RỦI RO TỪ BẢN THÂN DOANH NGHIỆP 2.4.1. Rủi ro trong đàm phán, soạn thảo, ký kết hợp đồng 2.4.1.1. Rủi ro trong khâu đàm phán - Theo điều tra từ 50 công ty dệt may, có đến 46% doanh nghiệp đàm phán sử dụng phiên dịch của đối tác, đây là con số không nhỏ mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa khắc phục được. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ thường ít chú ý đầu tư vào nhân viên giỏi tiếng Anh để có thể sử dụng trong đàm phán. Thường ở các doanh nghiệp này, hoặc không có cán bộ đàm phán hoặc có nhưng vốn tiếng Anh còn yếu. Đến lúc đối tác nước ngoài cần gặp để đàm phán về hợp đồng thì họ thuê hay nhờ phiên dịch bên ngoài vào dịch. Những người này có thể vốn tiếng Anh giỏi nhưng không chuyên 44 - Ngoài rủi ro trên, doanh nghiệp còn có thể gặp rủi ro khi cán bộ đàm phán không nắm được những thông tin về hàng hoá, thị trường và về chính đối tác của mình. Theo điều tra thực tế từ 50 doanh nghiệp dệt may, hầu hết không sử dụng nhân viên kỹ thuật trong buổi đàm phán để cố vấn mà các quyết định đều do Giám đốc (hay cán bộ đàm phán quyết định). Chỉ có 4 trong số 50 doanh nghiệp này có sự tham gia của nhân viên kỹ thuật trong buổi đàm phán, chiếm chỉ 8%. Cũng phải thừa nhận một điều là người quyết định trong buổi đàm phán của doanh nghiệp là người có kinh nghiệm lâu năm trong may mặc tuy nhiên, họ ở trên cương vị quản lý nên đôi khi không đánh giá được khả năng thực hiện mẫu mã do đối tác đưa ra (nếu gặp mẫu mã khó) hay không thể nắm bắt được tình hình thực hiện thực tế) ở dưới chuyền sản xuất bằng nhân viên kỹ thuật. Ngoài ra, nếu cán bộ đàm phán không am hiểu tình hình thì dễ làm cho doanh nghiệp gặp phải những rủi ro sau: • Nhận một đơn hàng quá lớn so với năng lực hiện có của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với hàng dệt may xuất qua Hoa Kỳ, khách hàng Hoa Kỳ thường đặt với số lượng rất lớn. Khi đã nhận đơn hàng và ký hợp đồng rồi mà thực hiện không được thì doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro là bị phạt hợp đồng. • Không nắm chắc được thông tin về thời gian nhận vải và nguyên phụ liệu mà đã đưa ra một ngày giao hàng xác định thì sẽ gặp rủi ro khi vải và nguyên phụ liệu không về kịp tiến độ sản xuất • Không nắm được chính sách ngoại thương của trong nước và nước của khách hàng về chế độ hạn ngạch, hàng rào quan thuế…, doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi sản xuất hàng xong và chuẩn bị để xuất thì mới biết hàng xuất cần phải có quota và khi đi mua quota hoặc xin cấp quota thì đã hết. • Không nắm được thông tin giá thế giới, mà đưa ra một giá chào FOB không tính tới tình hình biến động giá nguyên phụ liệu trong thời gian sắp tới doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi giá vải, 45 - Không tìm hiểu đối tác về uy tín, tình hình tài chính, nhu cầu, ý định của đối tác nhà xuất khẩu có thể gặp rủi ro khi trong đàm phán do nhân nhượng theo những đòi hỏi của khách hàng như đòi thanh toán T/T trả sau… Ví dụ 4: Thực tế một doanh nghiệp may gia công xuất khẩu Việt Nam M.T ký kết hợp đồng gia công với tổng số tiền gia công khoảng 35 ngàn USD cho một đối tác Hoa Kỳ không có tenâ công ty mà chỉ có tên người giao dịch và ký hợp đồng, không có địa chỉ cụ thể mà chỉ có địa chỉ hộp thư bưu điện. Trong suốt thời gian gia công hàng, doanh nghiệp không hề nghi ngờ và bên đối tác cam kết sẽ chuyển tiền ngay cho doanh nghiệp sau khi nhận được bộ chứng từ lấy hàng. Đến nay, sau khi giao hàng hơn một năm, doanh nghiệp này vẫn chưa nhận được tiền gia công. Doanh nghiệp đã gởi thư, fax và email đòi nợ nhưng đều không nhận được trả lời. Không có tên công ty và địa chỉ cụ thể của đối tác Hoa Kỳ, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng không thể tìm ra đối tác đó để giúp doanh nghiệp may M.T đòi lại tiền gia công. Doanh nghiệp không có lợi nhuận nhiều từ tiền gia công, nhưng phải trả lương, điện nước trong suốt 2 tháng sản xuất đơn hàng do đó doanh nghiệp đã thiệt hại rất lớn.. (Nguồn: Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ) Đàm phán là giai đoạn quan trọng của đời sống một hợp đồng. Những thỏa thuận đưa ra trong giai đoạn này phải được hai bên thực hiện đúng. Chính vì vậy, doanh nghiệp cần phải chú ý rằng khi đối tác đưa ra những yêu cầu, cần phải cân nhắc xem yêu cầu nào có thể chấp nhận được và yêu cầu nào phải kiên quyết từ chối. Mọi rủi ro trong ký kết và thực hiện hợp đồng xảy ra là do nguyên nhân từ giai đoạn đàm phán này. 2.4.1.2. Rủi ro trong khâu soạn thảo và ký kết hợp đồng Đa số các hợp đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ ký kết với đối tác đều do đối tác soạn thảo. Từ kết quả điều tra thực tế, có đến 38 trong tổng số 50 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 76% là sử dụng hợp đồng của đối tác. Như vậy, rủi ro của doanh nghiệp sẽ rất lớn nếu không kiểm tra kỹ càng nội dung của hợp đồng. Nếu đối tác cố ý gài bẫy doanh nghiệp thì nếu kiểm tra vẫn có thể có sơ sót làm cho doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro khi thực hiện hợp đồng. - Tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax của công ty và người đại diện công ty bị đánh máy sai sẽ gây ra rủi ro khi làm thủ tục hải quan khi xuất hàng. Một số 46 Ví dụ5: Công ty V. ký hợp đồng với công ty may mặc Hoa Kỳ S., đại diện ký hợp đồng của bên công ty S. là phó tổng giám đốc. Oâng này qua Việt Nam chỉ lần đầu khi ký kết hợp đồng, sau đó ông ta quay về nước và người thay thế ông theo dõi đơn hàng với V. là nhân viên QC của công ty. Đến lúc thực hiện các đơn hàng chi tiết, hai bên cần phải ký phụ kiện cho vải và nguyên phụ liệu thì không có ai ký, vậy là phải trễ nải công việc khi phải đợi gởi phụ kiện sang Hoa Kỳ cho ông phó tổng giám đốc công ty S. ký. Trong khi đó, mặc dù thời hạn giao hàng được thỏa thuận cho dời lại, tuy nhiên công ty V. cũng vẫn mất gần nửa tháng ngưng trệ sản xuất, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất cho các đơn hàng tiếp theo… (Phiếu điều tra thu lại vào ngày 20/09/2005) - Tên hàng, mã hàng không khớp hay không đúng theo mã hàng cần gia công. Có trường hợp do viết sai hay không kiểm tra kỹ tên đơn hàng, khi đối tác yêu cầu làm hàng thì doanh nghiệp lại không làm được, sẽ bị bồi thường. - Số lượng, loại nguyên phụ liệu nếu không kiểm tra kỹ sẽ gặp phải những rủi ro về sau như: • Không ghi dung sai cộng trừ đến lúc giao hàng lại thiếu hụt do nhiều nguyên nhân khách quan như hàng lỗi, thiếu vải, thiếu nguyên phụ liệu sẽ bị rắc rối trong khâu Hải quan. • Số lượng hàng không chẵn theo thùng thì sẽ phải theo dõi, nếu bị lẫn lộn, sẽ gây hậu quả khi giao hàng cũng như làm thủ tục hải quan, làm hóa đơn vận chuyển, hàng bị rớt lại, dẫn đến chậm trễ thời hạn giao hàng. • Ký hợp đồng với số lượng quá lớn, không phù hợp với năng lực sản xuất của công ty sẽ dẫn đến tình trạng làm tăng ca hay phải nhờ công ty khác gia công. Hàng không đảm bảo chất lượng, hay không đáp ứng được thời hạn giao hàng. - Quy định về nguyên phụ liệu và định mức nguyên phụ liệu không rõ ràng. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp đồng nhận về hầu hết là 47 - Quy định về kỹ thuật và chất lượng nếu không đảm bảo sẽ dẫn đến rủi ro không sản xuất đúng theo mẫu quy định, trì trệ thời gian sản xuất. Vì vậy, cần phải quy định thời gian và loại tài liệu kỹ thuật cần thiết phải cung cấp như: Mẫu gốc, rập, bảng thông số, tỷ lệ hao hụt cho phép, mẫu vải và nguyên phụ liệu đính kèm cho từng size, từng loại vải, tiêu chuẩn wash, điều kiện ủi, .v.v - Quy định về giá phải dựa trên mẫu gốc, tính cả chi phí khác như wash, đóng gói, v.v, nếu không khi có sản xuất, mẫu thực tế khó hơn doanh nghiệp cũng như diễn tả của đối tác, làm đơn hàng sẽ không có lợi nhuận, đôi khi lỗ, nhưng lúc đó doanh nghiệp cũng phải đành chấp nhận rủi ro bù lỗ để tiếp tục sản xuất vì đã ký trong hợp đồng từ ban đầu. - Thời gian và địa điểm giao hàng nếu không được quy định rõ sẽ ảnh hưởng đến thời hạn giao hàng. • Nếu quy định thời gian giao hàng mà không tính đến thời gian có đủ vải, nguyên phụ liệu, thời gian sản xuất, thời gian dự trữ sẽ dẫn đến rủi ro cho các doanh nghiệp dệt may là giao hàng không đúng theo hợp đồng, hàng bị rớt lại, dẫn đến phải xuất hàng bằng đường hàng không hay chịu phạt hợp đồng kèm với việc mất uy tín trong kinh doanh. • Nếu hợp đồng định ngày giao hàng nhất định sẽ gặp rủi ro bị rớt hàng khi không có tàu chạy vào ngày qui định hay các nguyên nhân khách quan khác như lễ, ngày Hải quan không làm việc, v.v. - Bao bì, kích cỡ, ký hiệu, nhãn mác nếu có sai sót cũng là nguyên nhân làm đình trệ sản xuất, giao hàng trễ. Đối với nhãn mác, nếu không cẩn thận, doanh nghiệp sẽ bị phạt hay kiện nếu khách hàng dùng nhãn mác không có giấy phép, làm hàng giả, hàng nhái. 2.4.2. Rủi ro trong khâu thực hiện hợp đồng 2.4.2.1. Rủi ro liên quan đến quota Ở Hoa Kỳ, có hàng ngàn thương hiệu thời trang hàng dệt may qui mô vừa và nhỏ. Họ thường đặt hàng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, với 48 - Đối với các công ty vừa và nhỏ, việc chuẩn bị hay có sẵn quota cho đơn hàng là chuyện hy hữu vì lượng quota họ được phân chia quá ít không phù hợp với đơn hàng nhận được. Thật vậy, theo kết quả điều tra từ 50 doanh nghiệp dệt may tại thành phố Hồ Chí Minh, không có doanh nghiệp nào luôn luôn có sẵn quota để xuất hàng và tất cả các doanh nghiệp đều gặp trường hợp giao hàng trễ vì vấn đề quota. Chính vì vậy, các công ty vừa và nhỏ thường nhận đơn hàng rồi mới lo chạy quota đề xuất hàng. Có nhiều trường hợp trục trặc giấy tờ trong việc chuyển nhượng quota hay ở Bộ thương mại nên hàng đã tới cảng Hoa Kỳ, nhưng chứng từ chưa xong, công ty phải trả tiền lưu kho hàng. Ví dụ 6: Trường hợp công ty may B nhận đơn hàng của Asia Faith số lượng 20,000 cái quần thuộc cat 347/348 năm 2003. Trước đó đã thỏa thuận với công ty may Tân Châu để chuyển nhượng. Sau khi xuất hàng, hai bên tiến hành làm chứng từ chuyển nhượng quota nhưng khi Tân Châu lên Bộ thương mại làm thủ tục thì bị ách lại do thiếu một số hồ sơ cần bổ sung. Thời gian chuyển nhượng chứng từ quota kéo dài nên đến khi công ty B. Hoàn tất bộ chứng từ và gởi qua Hoa Kỳ cho người nhận hàng thì hàng đã nằm trong kho của hải quan Hoa Kỳ đến 2 tuần. Công ty B. phải tra tiền lưu kho khoảng 20,000 USD. (Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp nhân viên theo dõi đơn hàng của AsiaFaith-11/2004) - Hàng bị trả ngược lại Việt Nam vì khi đến Hoa Kỳ, quota cho loại hàng này đã hết, hải quan Hoa Kỳ khóa sổ, không cho nhập loại hàng này vào nữa. Trường hợp này rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp phải ở giai 49 Ví dụ7: Trường hợp của công ty May Vĩnh Phú xuất đơn hàng cho Asia Faith vào tháng 10/2003 cho lô hàng váy cat 342. Khi hàng rời bến ở Việt Nam thì theo thông tin vẫn còn quota những đến Hoa Kỳ lại không được vào. Vì vậy lô hàng đã được trả ngược về cho công ty. Đối với lô hàng này, công ty cuối cùng phải thanh lý trong nội địa với giá rẻ, và phải trả tiền vải và nguyên phụ liệu cho Asia Faith. Tổng số tiền lên đến hàng trăm ngàn USD. (Nguồn: Phỏng vấn trực tiếp nhân viên theo dõi đơn hàng của AsiaFaith-11/2004) - Cuối năm, các doanh nghiệp may nhận được thông báo sắp hết quota sang Hoa Kỳ nên tranh thủ may hàng gấp rút (mặc dù chưa tới hạn giao hàng) để xuất hàng bằng đường không nhằm tranh thủ trước khi hải quan Hoa Kỳ khóa sổ, công ty phải trả tiền phí hàng không cho lô hàng này. Một số lô hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vào thị trường này đang bị ùn tắc do Hải quan Hoa Kỳ không cho làm thủ tục nhập khẩu. Nguyên nhân chính là do có sự chênh lệch về số liệu hạn ngạch giữa Hải quan Hoa Kỳ và Bộ thương mại Việt Nam. Theo Hải quan Hoa Kỳ, tính đến ngày 25/9/2004, số lượng cat. 351/651 từ Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ đạt trên 88%, trong khi số liệu thống kê từ phía Việt Nam mới đạt gần 74%. Một số chủng loại khác cũng trong tình trạng tương tự: số liệu thực hiện từ phía Việt Nam luôn thấp hơn so với số thống kê của Hải quan Hoa Kỳ. 50 Ví dụ 8: Trường hợp công ty Tân Phú Cường có lô hàng đi Hoa Kỳ cat 338/339 có tờ giấy phân hạn ngạch hơn 10,000 tá (tức 120,000 cái) trên tay nhưng sau vụ ông Lê Quốc Thắng bị bắt, thông tin quota về cat. này sắp đầy ở bên Hoa Kỳ nên công ty phải tranh thủ xuất đi bằng đường air, vụ này công ty tổn thất đến mấy trăm ngàn đô la cho phí vận chuyển. (Nguồn: Hội nghị hội dệt may Thêu đan Thành phố Hồ Chí Minh- 17/09/2004) 2.4.2.2. Rủi ro trong khâu chuẩn bị hàng hóa xuất khẩu a. Rủi ro trong khâu chuẩn bị nguyên phụ liệu Ông Diệp Thành Kiệt, Tổng thư ký Hội Dệt may Thêu đan thành phố Hồ Chí Minh, cho biết nếu doanh nghiệp gia công theo chỉ định của khách hàng thì giá trị gia tăng (gồm phụ liệu mua trong nước, tiền lương, khấu hao tài sản, tiền thuế, tiền lãi…) tổng cộng chỉ được 20% trên đơn hàng giá thỏa thuận. Giá này khách hàng đã khảo sát thị trường nên đơn giá gia công rất rẻ. Nếu doanh nghiệp làm tốt và gặp khách hào phóng thì có thể được hưởng thêm khoảng 2,5%. Còn làm hàng để tự xuất khẩu bán theo giá FOB thì ngoài 20% giá trị nội địa, doanh nghiệp có thể lãi thêm 10% trên giá xuất. Tuy nhiên, phương thức này chứa nhiều rủi ro như: thị trường các nước phát sinh những rào cản kỹ thuật mới, doanh nghiệp thực hiện giao hàng trễ, nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu về chậm… Các yếu tố rủi ro này doanh nghiệp phải gánh chịu nên có thể dẫn tới thua lỗ. Vì vốn nhỏ, kinh nghiệm thương trường thiếu nên để phòng thân, đa số các doanh nghiệp chọn phương thức gia công. Thật vậy, phần lớn các hợp đồng may mặc của các công ty vừa và nhỏ đều là hợp đồng gia công. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp các công ty này kiếm được các đơn hàng FOB. Đối với các đơn hàng loại này, các doanh nghiệp càng gặp phải nhiều rủi ro về mặt chuẩn bị nguyên phụ liệu cho đơn hàng. Có một số nguyên phụ liệu doanh nghiệp có thể đặt mua trong nước tuy nhiên, đối với các nguyên phụ liệu mẫu mã lạ, doanh nghiệp lại phải đặt mua từ nước ngoài. Các doanh nghiệp và nhỏ thường gặp phải rủi ro trong khâu này ở chỗ nguyên phụ liệu về không đúng thời hạn trong khi lịch sản xuất đã lên, khít với thời hạn giao hàng. Từ đó làm cho cả khâu sản xuất của doanh nghiệp bị trì trệ, giao hàng trễ so với thời hạn hợp đồng, kết quả là doanh nghiệp phải thương lượng. Nếu thời gian trễ hạn không dài – vài ngày, bên khách hàng có thể châm chước, tuy nhiên uy tín của doanh nghiệp sẽ bị sút giảm đối với khách hàng này. Còn nếu thời gian trễ hạn quá dài, doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận bỏ tiền túi 51 - Nhà cung cấp nguyên phụ liệu không giao hàng đúng hạn. Ví du ï9: Trường hợp công ty TNHH Xuất nhập khẩu may Vinh Tiến đã ký kết phụ kiện may và xuất hàng cho công ty Statement Inc. (My)õ lô hàng gồm 12.000.000 cái váy thời trang vào ngày 15/4/2004. Dự kiến nguyên phụ liệu sẽ có đầy đủ vào ngày 15/3/2004 nhưng bên công ty Đại Quang – sản xuất dây đai (sử dụng làm dây thắt lưng cho váy) đã không cung cấp được dây đai theo mẫu nên đến lúc đó, phải đi kiếm công ty khác đặt hàng. Sau đó, váy may xong nhưng không có dây đai. Hàng phải đợi trễ 15 ngày, công ty phải xuất hàng bằng đường hàng không. Tổng chi phí vận chuyển đơn hàng này công ty phải trả là 25.700 đô la Mỹ. (Nguồn: Nhân viên theo dõi đơn hàng văn phòng đại diện ILU Vietnam) - Nhân viên theo dõi đơn hàng (Merchandiser) đã không theo dõi chặt chẽ về thời hạn giao hàng hay sơ suất trong khâu đặt hàng. Ví dụ10: Trường hợp ở công ty Cổ phần may 30-4, việc đặt hàng nguyên phụ liệu do anh T. (Nhân viên theo dõi đơn hàng), anh ta phải fax các đơn hàng đến các công ty cung cấp nguyên phụ liệu nhưng lại không kiểm tra người ta có nhận được hay không, cuối cùng, đơn hàng gởi cho công ty dây kéo YKK không fax được, người ta không nhận được, đến ngày nguyên phụ liệu phải tập kết, bên kho báo cho anh biết là chưa có dây kéo, lúc đó anh ta mới tá hỏa điện thoại yêu cầu YKK giao hàng nhưng thực ra người ta đã không nhận được đơn đặt hàng bằng fax của anh ta trước đó, cuối cùng, nguyên chuyền phải đợi vì dây kéo được sử dụng ngay từ khâu đầu tiên, cuối cùng hàng trễ lại 1 tuần (Nguồn: Phiếu điều tra phát ngày 25/11/2004) - Nguồn nguyên phụ liệu không có ở trong nước, phải tìm ở nước ngoài. Mặc dù hiện nay, ngành may mặc của Việt Nam rất phát triển, kéo theo các ngành cung cấp nguyên phụ liệu cho may mặc cũng phát triển không kém. Các nguyên phụ liệu như keo, đồ lót túi, nút, chỉ, dây kéo, v.v có thể tìm mua ở trong nước, tuy nhiên đó chỉ là đối với những loại thông dụng, nếu có những yêu cầu nguyên phụ liệu lạ hay nhiều kiểu cách thì lại phải nhập khẩu. 52 Ví dụ11: Công ty dây kéo YKK đã đầu tư một nhà máy ở Việt Nam để cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của Việt Nam nhưng có loại dây kéo mà nhà máy ở Việt Nam chưa sản xuất được, phải nhập từ YKK Singapore. Điển hình như công ty May Vinh Tiến đã tính toán đặt mua nguyên phụ liệu và riêng đối với dây kéo mã số YN-3542 là loại dây kéo răng bằng nikel và đầu khóa cũng bằng nikel hình dáng lạ, công ty YKK báo không sản xuất được ở Việt Nam, phải nhập khẩu từ Singapore. Trong khi đó, thời gian bình thường YKK có thể cung cấp cho công ty từ khi nhận đơn hàng đến khi giao hàng là 14 ngày. Thời gian đặt và nhận hàng từ Singapore mất của công ty này hơn 1 tháng. Vậy là sản xuất phải chậm trễ khoảng 15 ngày, công ty đã phải xuất hàng bằng đường hàng không. Cũng may lúc đó, số lượng không nhiều, chỉ là 6.000 cái quần nên công ty mất 10.000 USD (Nguồn: Đơn hàng VT-000159 vào tháng 4/2004) - Nghiêm trọng nhất là về vải: vì theo mẫu của người mua thì công sản xuất vải lên mẫu và sản xuất theo đúng số lượng này, nếu vải có vấn đề như: lỗi sợi, thiếu, chất lượng không tốt,… sẽ rất tốn thời gian để làm lại. Theo phương thức FOB, công ty sẽ là người mua vải dựa trên mẫu vải mà buyer cung cấp. Thường những loại vải này được mua ở Trung Quốc vì giá rẻ, mỗi mẫu vải sẽ tốn thời gian kiểm tra và làm ra mẫu là 30 ngày, sau khi được xác nhận mẫu, sẽ làm gởi trước vải làm mẫu thường là 20-30 yard sau đó 10 ngày, và đến ngày nhận đủ số hàng mà công ty đặt sẽ là 30 ngày sau khi xác nhận mẫu. Vậy trung bình, tốn khoảng 60 ngày để đặt và nhận vải. Ví dụ12: Trường hợp của công ty may Vinh Tiến là một điển hình về rủi ro trong trường hợp này. Tháng 11/2003, công ty nhận được đơn hàng sản xuất hàng quần Jeans theo phương thức FOB cho văn phòng đại diện ILU Vietnam - Hoa Kỳ với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCác giải pháp giảm thiểu rủi ro trong xuất nhập khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan