Khi một công trình xây d ựng có vấn đề, hiện nay dư luận thường xem xét v à
đánh giá thiên l ệch về phía các công ty thi công, v à cho rằng, chính các công ty thi
công là nguyên nhân chính gây ra s ự xuống cấp của công trình. Hoặc chính do sự
yếu kém về chuy ên môn của chủ đầu t ư, sự “đi đêm” giữa chủ đầu t ư và nhà thầu đã
tạo nên công trình có ch ất lượng kém. Nh ưng thực ra, lâu nay d ư luận đã lãng quên
một mắt xích rất quan trọng trong chuỗi các mắt xích, đó l àkhâu tư vấn.
Tổ chức tư vấn xây dựng đóng một vai trò rất quan trọng v à xuất hiện trong
tất cả các giai đoạn của dự án đầu tư xây dựng, nên tư v ấn quyết định phần lớn sự
“thành” hay “b ại” của một dự án. Tư vấn không chỉ đ ơn thuần là đưa ra lời khuyên,
màcòn phải chỉ vẽ, h ướng dẫn thực hiện lời khuy ên đưa ra,sao cho có th ể đạt hiệu
quả cao nhất. T ư vấn phải giúp đỡ kỹ thuật trong việc soạn thảo v à hoàn chỉnh các
dự án, giúp đỡ t rong giám sát s ự thực thi dự án; phải tổ chức việc điều tra, khảo sát,
nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện, dự án, quy hoạch, thiết kế v à quản lý các dự án
xây dựng cho khách h àng.
77 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp hoàn thiện quản lý giá thành của khu vực Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ thống các văn bản pháp luật hi ện hành. Luận văn này
chỉ tập trung phân tích thực trạng sự thay đổi của một số c ơ chế chính sách của Nhà nước
ban hành trực tiếp liên quan đến việc xác định và quản lý giá thành XDCT.
-35-
Trong thời kỳ từ năm 1998 đến nay Chính phủ đ ã ban hành Nghị định số
52/1999/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng, Nghị định số 12/2000/NĐ -
CP ngày 5 tháng 2 năm 2000 và Ngh ị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 1 năm
2003 về sửa đổi Nghị định số 52/1999 v à 12/2000 của Chính phủ, Nghị định
16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005, Nghị định số 112/2006/NĐ -CP ngày 29/9/2006
về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ -CP ngày 07/02/2005,
Nghị định số 99/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007.
Các Nghị định này đã phản ánh kịp thời các thay đổi, điều chỉnh về chủ
trương, chính sách trong quản lý kinh tế vĩ mô ở thời kỳ n ày. Nội dung các Nghị
định này đã kế thừa những nguyên tắc quan trọng trong công tác quản lý lĩnh vực
xây dựng được qui định trong các Bản Điều lệ quản lý tr ước đây, mặt khác đã đưa
ra được những qui định mới liên quan đến một số các vấn đề như mở rộng hơn về
các đối tượng và phạm vi điều chỉnh của Qui chế quản lý đầu t ư và xây dựng; phân
biệt rõ hơn các nguồn vốn đầu tư phát triển, nâng cao trách nhiệm và quyền chủ
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nh à nước; đẩy mạnh phân cấp
trong quản lý ĐT&XD; tiếp tục thực hiện triệt để cải cách h ành chính trong quản lý
ĐT&XD chú trọng đến các thủ tục liên quan đến công việc lập, tr ình duyệt, thẩm
định dự án và quyết định hoặc cấp giấy phép đầu t ư, thẩm định và phê duyệt thiết kế
kỹ thuật (TKKT) và TDT, các thủ tục trong công tác quản lý đấu thầu, giải ngân,
thanh toán và quyết toán vốn đầu tư XDCT.
Bên cạnh những thay đổi cơ chế chính sách liên quan trực tiếp đến quản lý
ĐT&XD kể trên, Chính phủ còn ban hành các Nghị định qui định các mức tiền lương
tối thiểu chi trả công cho người lao động. Trên cơ sở các Nghị định qui định các mức
tiền lương tối thiểu cho các đối tượng hưởng lương này các Bộ (như Bộ Tài chính, Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Giao thông
Vận tải và các Bộ, ngành khác) ban hành các Thông tư ho ặc Thông tư liên tịch hướng
dẫn thi hành các Nghị định này của Chính phủ phù hợp với Bộ, ngành của mình. Các
Thông tư này qui định cụ thể đối tượng, phạm vi áp dụng, cách tính mức l ương, phụ
cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí cho các đối tượng lao động. Cụ thể như sau:
-36-
- Thời kỳ trước năm 2000, mức lương tối thiểu của người lao động là:
144.000đ/người/tháng (theo Nghị định số 06/CP ngày 21 tháng 1 năm 1997).
- Đến năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 175/21999/NĐ -CP ngày
15 tháng 12 năm 1999 về việc điều chỉnh mức tiền l ương tối thiểu từ
144.000đ/tháng tăng lên là 180.000đ/tháng và m ức tiền lương này được áp dụng từ
ngày 1 tháng 1 năm 2000.
- Cuối năm 2000, mức tiền lương tối thiểu được điều chỉnh lên 210.000đ/tháng
(theo Nghị định số 77/2000/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ).
- Từ ngày 1 tháng 10 năm 2004 áp d ụng mức tiền lương tối thiểu là
290.000đ/người/tháng.
- Đến ngày 15 tháng 9 năm 2005 Chính ph ủ ban hành Nghị định số
118/2005/NĐ-CP qui định mức tiền lương tối thiểu là 350.000 đ/người/ tháng.
- Ngày 07 tháng 9 năm 2006 Chính ph ủ ban hành Nghị định số 94/2006/NĐ -
CP qui định mức tiền lương tối thiểu tăng từ 350.000 đ/ng ười/tháng lên 450.000
đ/người/tháng. Từ ngày 01 tháng 10 năm 2006 có hiệu lực thi hành.
- Ngày 16 tháng 11 năm 2007 Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2007/NĐ-CP
qui định mức tiền lương tối thiểu tăng từ 450.000 đ/ng ười/tháng lên 540.000
đ/người/tháng. Từ ngày 01 tháng 01 năm 2008 có hi ệu lực thi hành.
Như vậy, trong thời gian từ 1998 đến nay, mức tiền l ương tối thiểu đã 6 lần
thay đổi và mức tiền lương tối thiểu áp dụng năm 2008 đã tăng 3,75 lần so với mức
tiền lương tối thiểu áp dụng năm 1998. Sự thay đổi mức tiền l ương tối thiểu này ảnh
hưởng rất lớn đến giá trị TMĐT, TDT, dự toán hạng mục CTXD.
Cùng với việc ban hành các Nghị định về Qui chế quản lý ĐT&XD, v à các
Nghị định về qui định mức tiền lương tối thiểu của Chính phủ trong thời kỳ từ 1998
đến 2008, các Bộ, ngành và các cơ quan quản lý Nhà nước đã tập trung nghiên cứu và
ban hành nhiều văn bản QPPL để hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ.
Nhìn chung các văn bản này đã được ban hành kịp thời và tương đối đồng
bộ, góp phần đưa nhanh các qui định pháp luật đi vào cuộc sống. Nghiên cứu này
chỉ tập trung vào những văn bản QPPL liên quan đến việc xác định giá XDCT v à
tác động đến việc làm thay đổi các trị số của các mức này.
-37-
Danh mục các văn bản QPPL chủ yếu do Chính phủ v à Bộ Xây dựng ban
hành trong thời kỳ 1998 đến 2008 được tổng hợp trong Bảng số 1. Các văn bản
QPPL trong Bảng này được chia theo hai nguồn ban hành văn bản: 1) Văn bản do
Chính phủ ban hành và 2) Văn bản do Bộ Xây dựng ban hành để triển khai thực
hiện các văn bản của Chính phủ. Đồng thời các văn bản n ày được sắp xếp theo trình
tự thời gian ban hành. Các văn bản QPPL do Bộ Xây dựng ban h ành được chia ra
thành hai nhóm: 1) Thông tư hư ớng dẫn việc lập và quản lý chi phí XDCT và 2)
Thông tư hướng dẫn điều chỉnh dự toán công tr ình xây dựng.
Bảng 1 Các văn bản qui phạm phá p luật ban hành thời kỳ 1998-2008
Chính phủ Bộ Xây dựng
Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định
Nghị định về quản lý
đầu tư và xây dựng
Thông tư hướng dẫn
việc lập và quản lý chi
phí XDCT
Thông tư hướng dẫn
điều chỉnh dự toán
CTXD
Năm 1998:
Nghị định số 42/CP ngày
16/7/1996 về Điều lệ
quản lý ĐT&XD.
Năm 1999:
Nghị định số
52/1999/NĐ-CP ngày
7/8/1999 về Qui chế quản
lý ĐT&XD
Thông tư số 08 /1999/TT-
BXD ngày 16/11/1999
hướng dẫn việc lập và
quản lý chi phí XDCT
thuộc các dự án đầu tư.
Năm 2000:
Nghị định 12/2000/NĐ-
CP, ngày 05/5/2000 Về
việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số
52/1999/NĐ-CP ngày
08/7/1999.
Thông tư số 09 /2000/TT-
BXD ngày 17/7/2000
hướng dẫn việc lập và
quản lý chi phí XDCT
thuộc các dự án đầu tư.
Thông tư số 02 /2000/TT-
BXD ngày 19/5/2000
hướng dẫn điều chỉnh dự
toán CTXDCB
-38-
Năm 2001:
Thông tư số 03 /2001/TT-
BXD ngày 13/2/2001
Hướng dẫn điều chỉnh dự
toán CTXDCB
Năm 2002:
Thông tư số 04 /2002/TT-
BXD ngày 27/6/2002
Hướng dẫn điều chỉnh dự
toán CTXDCB
Năm 2003:
Nghị định số 07/2003/
NĐ-CP, ngày 30/1/2003
về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số
52/1999/NĐ-CP, và Nghị
định số 12/ 2000/NĐ-CP.
Thông tư số 07 /2003/TT-
BXD ngày 17/6/2003 sửa
đổi, bổ sung một số điểm
trong Thông tư số
09/2000/TT-BXD ngày
17/7/2000
Thông tư số 05 /2003/TT-
BXD ngày 14/3/2003
Hướng dẫn điều chỉnh dự
toán CTXDCB
Năm 2005:
Nghị định của chính phủ
số 16/2005/NĐ-CP, ngày
07/2/2005 về quản lý dự
án đầu tư XDCT.
Thông tư số 04 /2005/TT-
BXD ngày 01/4/2005
hướng dẫn việc lập và
quản lý chi phí dự án đầu
tư XDCT.
Thông tư số 03 /2005/TT-
BXD ngày 4/3/2005
Hướng dẫn điều chỉnh dự
toán CTXDCB.
Thông tư số 16 /2005/TT-
BXD ngày 13/10/2005
Hướng dẫn điều chỉnh dự
toán chi phí CTXD.
Năm 2006:
Nghị định của chính phủ
số 112/2006/NĐ-CP,
ngày 29/9/2006 về sửa
đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định
16/2005/NĐ-CP ngày
07/02/2005 về quản lý dự
án đầu tư XDCT.
Thông tư số 07 /2006/TT-
BXD ngày 10/11/2006 về
việc hướng dẫn điều
chỉnh dự tóan XDCT.
-39-
Năm 2007:
Nghị định của chính phủ
số 99/2007/NĐ-CP, ngày
13/6/2007 về quản lý chi
phí đầu tư XDCT.
Thông tư số 05 /2007/TT-
BXD ngày 25/7/2007
hướng dẫn việc lập và
quản lý chi phí đầu tư
XDCT.
Năm 2008: Thông tư số 03 /2008/TT-
BXD ngày 25/01/2008 về
việc hướng dẫn điều
chỉnh dự tóan XDCT.
Đối với các văn bản QPPL liên quan đến việc hướng dẫn lập và quản lý chi phí
XDCT thuộc các dự án đầu tư do Bộ Xây dựng ban hành đã đưa ra các nguyên tắc lập
và quản lý chi phí dự án đầu tư XDCT và qui định các nội dung, các khoản mục chi phí
của TMĐT, TDT và dự toán công trình và các phương pháp xác định chúng, cũng như
các qui định về quản lý chi phí XDCT trong giai đoạn thực hiện đầu t ư. Cụ thể là:
- Năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/1999 để triển khai thực hiện
Nghị định này Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 08/1999/TT-BXD về việc hướng
dẫn việc lập và quản lý chi phí XDCT thuộc các dự án đầu t ư và đến năm 2000 Bộ
Xây dựng đã ban hành Thông tư số 09/2000/TT-BXD thay thế Thông tư số 08/1999.
- Để phù hợp với tình hình quản lý thực tế năm 2003 Ch ính phủ ban hành
Nghị định số 07/2003/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52,
do vậy Bộ Xây dựng lại ban hành Thông tư số 07 /2003/TT-BXD về sửa đổi, bổ sung
một số điểm trong Thông tư số 09/2000/TT-BXD ngày 17 tháng 7 năm 2000 "Hướng
dẫn việc lập và quản lý chi phí xây dựng công trình thuộc các dự án đầu tư".
- Đến năm 2003 Luật Xây dựng đ ược ban hành, để thực hiện Luật, ngày 7
tháng 2 năm 2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý
dự án đầu tư XDCT và để triển khai thực hiện Nghị định số 16 , Thông tư số
04/2005/TT-BXD ngày 01/4/2005 hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí dự án đầu
tư XDCT được Bộ Xây dựng ban hành. Năm 2006 Chính Phủ ban hành Nghị định
số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005.
-40-
- Để quản lý chi phí đầu tư xây dựng phù hợp với lộ trình đổi mới kinh tế khi
Việt Nam gia nhập WTO, Chính phủ đ ã ban hành Nghị định số 99/2007/NĐ -CP,
ngày 13/6/2007 về quản lý chi phí đầu tư XDCT và Thông tư số 05 /2007/TT-BXD
ngày 25/7/2007 hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí đầu tư XDCT nhưng đến nay
để Nghị định sớm đi vào cuộc sống còn cả một thời gian dài phía trước, do tâm lý
Chủ đầu tư hoang mang trước cơ chế được xem là thoáng nhất từ trước đến nay.
Trên cơ sở thay đổi các qui định của các Thông t ư hướng dẫn lập và quản lý
chi phí XDCT thuộc các dự án đầu tư và do sự thay đổi mức tiền lương tối thiểu,
mức phụ cấp và sinh hoạt phí đối với các đối tượng hưởng lương, trên cơ sở giá
điện, giá xăng dầu thay đổi,…đối với các công tr ình xây dựng sử dụng nguồn vốn
của Nhà nước Bộ Xây dựng ban hành các Thông tư hướng dẫn việc điều chỉnh giá
trị dự toán các CTXD phù hợp với các thay đổi trên. Các thông tư này hướng dẫn
chi tiết việc điều chỉnh chi phí nhân công, chi phí máy thi công, chi phí chung và
thu nhập chịu thuế tính trước, thuế giá trị gia tăng đầu ra v à điều chỉnh các chi phí
khác trong tổng dự toán công tr ình xây dựng như điều chỉnh dự toán chi phí khảo
sát xây dựng, điều chỉnh các chi phí tư vấn ĐT&XD, chi phí thiết kế CTXD, cũng
như việc điều chỉnh chi phí Ban quản lý dự án.
2.3.2. Thực trạng về bộ máy quản lý giá thành xây dựng:
Thực trạng bộ máy các cơ quan chức năng định giá thành và quản lý giá
thành xây dựng hiện nay của nước ta qua rất nhiều cấp, nhiều cơ quan, nhiều đơn vị
tham gia, chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan này đôi khi lại chồng chéo nhau
hoặc chưa đồng bộ với nhau dẫn đến gây không ít khó khăn trong việc quản lý giá
xây dựng công trình. Ví dụ như việc lập TMĐT do cơ quan kế hoạch đầu tư ban
hành, TDT lại do cơ quan xây dựng chịu trách nhiệm, đến khâu thanh toán do Kho
bạc Nhà nước cấp phát và quyết toán do cơ quan tài chính quản lý. Các căn cứ để
lập TMĐT, TDT, dự toán công tr ình thì cũng do nhiều cơ quan qui định.
Ví dụ: Các định mức kinh tế kỹ thuật chung trong xây dựng do Bộ Xây dựng
ban hành còn các Bộ chuyên ngành thì ban hành các định mức chuyên ngành của mình.
Trước 1982 Bộ Xây dựng (cụ thể Vụ Quản lý thi công công tr ình) chịu trách
nhiệm duyệt dự tóan xây dựng từng công tr ình.
-41-
Sau năm 1982 Đơn giá xây dựng công trình của địa phương do các địa
phương tự ban hành, tuy nhiên Đơn giá xây d ựng những công trình trọng điểm vẫn
do Bộ Xây dựng ban hành.
Từ năm 1996 Liên Sở Xây dựng và Sở Tài chính của các thành phố/ tỉnh ban
hành các Thông báo giá vật liệu xây dựng tại địa phương mình. Trong khi đó giá ca
máy thi công xây dựng do cơ quan chức năng của Bộ Xây dựng ban h ành, và chế độ
tính tỷ lệ khấu hao của máy móc, thiết bị lại do Bộ T ài chính ban hành. Các chế độ
liên quan đến tiền lương và phụ cấp lương do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội qui định.
Từ tháng 4 năm 2005 đến nay, tất cả các đ ơn giá XDCB, giá ca máy và các
thông số tiền lương tính trong đơn giá XDCB do Chủ tịch UBND Thành phố/ Tỉnh
tự quyết định và ban hành.
2.3.3. Thực trạng về năng lực các tổ chức tư vấn xây dựng:
Khi một công trình xây dựng có vấn đề, hiện nay dư luận thường xem xét và
đánh giá thiên lệch về phía các công ty thi công, v à cho rằng, chính các công ty thi
công là nguyên nhân chính gây ra s ự xuống cấp của công trình. Hoặc chính do sự
yếu kém về chuyên môn của chủ đầu tư, sự “đi đêm” giữa chủ đầu tư và nhà thầu đã
tạo nên công trình có chất lượng kém. Nhưng thực ra, lâu nay dư luận đã lãng quên
một mắt xích rất quan trọng trong chuỗi các mắt xích, đó l à khâu tư vấn.
Tổ chức tư vấn xây dựng đóng một vai trò rất quan trọng và xuất hiện trong
tất cả các giai đoạn của dự án đầu tư xây dựng, nên tư vấn quyết định phần lớn sự
“thành” hay “bại” của một dự án. Tư vấn không chỉ đơn thuần là đưa ra lời khuyên,
mà còn phải chỉ vẽ, hướng dẫn thực hiện lời khuyên đưa ra, sao cho có thể đạt hiệu
quả cao nhất. Tư vấn phải giúp đỡ kỹ thuật trong việc soạn thảo v à hoàn chỉnh các
dự án, giúp đỡ trong giám sát sự thực thi dự án; phải tổ chức việc điều tra, khảo sát,
nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện, dự án, quy hoạch, thiết kế v à quản lý các dự án
xây dựng cho khách hàng.
-42-
Trong thời gian gần đây, hiện tượng chất lượng công trình và thất thoát lãng
phí trong xây dựng, đặc biệt ở các dự án xây dựng sử dụng vốn Nh à nước, đã có
những vấn đề nổi cộm bức xúc, đ ược cả xã hội quan tâm. Nhiều hội nghị, hội thảo
đã được tổ chức, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đã được triển khai, nhằm t ìm ra
nguyên nhân của tình hình và kiến nghị các giải pháp khắc phục hoặc ph òng ngừa
tình trạng không đảm bảo chất lượng công trình và thất thoát lãng phí trong xây
dựng. Những sai phạm và vi phạm của tư vấn xây dựng đã gây thất thoát hơn 10%
tổng giá trị thất thoát và lãng phí trong xây dựng.
Tư vấn lập hồ sơ thiết kế giai đoạn chuẩn bị đầu t ư là một ví dụ điển hình.
Thông thường, trong bước thiết kế quy hoạch và lập dự án chuẩn bị đầu tư, việc lựa
chọn vị trí, đề xuất quy mô xây dựng v à đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án không
hợp lý, dẫn đến lãng phí vốn đầu tư. Chẳng hạn, quy mô công tr ình quá lớn thì sẽ
không phát huy được hiệu quả đầu tư và ngược lại, nếu quy mô quá nhỏ th ì vừa mới
xây xong đã phải cải tạo, nâng cấp. Khi đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án, do sử
dụng số liệu đầu vào không chính xác, dẫn đến hiệu quả kinh tế có thể l à rất cao,
nhưng sự thật lại không phải như vậy. Hoặc như việc tính toán thời gian hoàn vốn
đối với dự án đầu tư BOT, có những dự án tính toán hoàn vốn lên đến trên 20 năm,
song thực tế, chỉ trong vòng 10-15 năm, nhà đầu tư đã thu hồi được vốn.
Thêm vào đó, chất lượng tư vấn thiết kế còn nhiều bất cập, thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau như: trình độ khảo sát - thiết kế... Công tác nghiên cứu, đặc
biệt là nghiên cứu ứng dụng còn xa rời thực tế, dẫn đến chất lượng đồ án thiết kế
thấp, kết cấu chưa hợp lý, thiết kế biện pháp thi công không tiết kiệm; khi nghi ên
cứu công trình lớn gặp lúng túng, sơ xuất khi thiết kế, bóc tách dự toán, khối l ượng
sai dẫn đến phải làm đi làm lại, nghĩa là phải trình duyệt lại dự án dẫn đến chậm
tiến độ công trình, có khi làm mất đi cả cơ hội đầu tư, lỗi này rất phổ biến mà không
thể lượng hoá thiệt hại bằng tiền được.
Dự toán hoàn toàn dựa vào định mức, đơn giá Nhà nước đã lạc hậu, không
theo kịp với tiến bộ khoa học kỹ thuật v à công nghệ xây dựng. Nhiều đơn giá quá
thấp, không đủ để thi công, cũng có nhiều đơn giá quá cao mà vẫn được áp dụng (ví
-43-
dụ đơn giá nén tĩnh thử tải cọc). Tư vấn chỉ áp đơn giá đúng theo quy định, chứ
không quan tâm và lập dự toán theo giá thị trường (với mục đích dự báo) nên giá
thành công trình thi công thực tế sau này thường khác xa với dự toán, không dự báo
được một cách tương đối biến đổi về giá cả thị trường vật liệu xây dựng.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ tư vấn giám sát còn nhiều yếu kém và hạn chế.
Chưa có được đội ngũ tư vấn giám sát không những giỏi trong việc kiểm soát chất
lượng, công nghệ thi công, mà còn phải đủ năng lực, trình độ giám sát thực hiện các
chỉ dẫn kỹ thuật, phát hiện những tồn tại của đồ án thiết kế kỹ thuật để có ph ương
án sửa chữa, hoàn thiện.
Thực tế hiện nay, nhiều trường hợp tư vấn giám sát bị nhà thầu qua mặt, sử
dụng chủng loại vật liệu sai quy cách, hoặc thi công không đúng đồ án thiết kế, quy
trình thi công, chỉ dẫn kỹ thuật; thay đổi biện pháp thi công để tiết kiệm vật t ư, thiết
bị xe máy và nhân lực. Song, một số biện pháp đ ược thay đổi đã làm giảm chất
lượng công trình chính, phải làm đi sửa lại gây lãng phí cho công trình. Tư vấn
giám sát chưa làm hết trách nhiệm trong khâu giám sát, không phát hiện đ ược
những thiếu sót của thiết kế. Ví dụ, thiết kế thiếu thép trong đ ường ống áp lực số 1
Nhà máy Thuỷ điện Trị An) gây ra sự cố công tr ình, hay Nhà chung cư A5 cao 15
tầng với 136 căn hộ trên diện tích xây dựng 1.276 m2 ở khu đô thị Đại Kim - Định
Công bị thiếu tới 219 tấn thép, Trường THPT Nguyễn Hữu Thọ ở huyện Bến Lức -
Long An thiết kế dự toán đến khi tổ chức thi công phát hiện dự toán tính thiếu thép
cho cả một sàn lầu ...
Bên cạnh các công ty tư vấn góp phần đem lại những công tr ình mang tầm
vóc quốc gia, đem lại niềm tự hào của Việt Nam trước con mắt của bạn bè thế giới,
vẫn còn có những công ty tư vấn thiếu năng lực, chưa hoàn thành đầy đủ trách
nhiệm và nghĩa vụ của mình, để lại những hậu quả nặng nề không thể tính bằng
tiền. Nguyên nhân của thực trạng trên, trước hết phải kể đến việc các tổ chức t ư vấn
thiếu nguồn tài chính để đầu tư chiều sâu về trang thiết bị, về t ài liệu, về đào tạo,
làm ảnh hưởng đến chất lượng đồ án thiết kế; Tài liệu khảo sát điều tra cơ bản có
trường hợp không đảm bảo chất l ượng, đã gây nhiều sai sót trong thiết kế xây dựng;
Trình độ và năng lực chuyên môn của một số cán bộ tư vấn chưa cao, thiếu kinh
nghiệm thực tế. Cũng như trách nhiệm tư vấn chưa cao...
-44-
2.3.4. Thực trạng về quản lý tiến độ thi công xây dựng.
Một trong những bất cập hiện nay l àm kéo dài thời gian thi công làm tăng giá
thành xây dựng làm lãng phí thời gian nguồn vốn ngân sách Nh à nước. Đó là nhiều
công trình thi công dỡ dang rồi dừng do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do tổng mức đầu tư chưa phù hợp. Tổng mức đầu tư do chuyên
gia xác định về giá thành xây dựng ở một thời điểm nhất định, căn cứ vào giá cả ở
thời điểm đó và kinh nghiệm xây dựng các công tr ình tương tự, thế nhưng, ở Việt
Nam từ lúc có được dự án cho đến khi đưa vào kế hoạch rồi đi thẩm định là một
thời gian dài. Thẩm định xong, chờ được phê duyệt rồi đưa ra đấu thầu cũng lại một
thời gian dài. Vậy nên, giá cả lúc công trình thi công với giá cả lúc lập dự án hoàn
toàn khác nhau.
Thứ hai, do chi vượt trong đền bù giải phóng mặt bằng phải mất nhiều thời
gian thẩm định để điều chỉnh tổng mức đầu tư và thời gian bồi thường giải phóng
mặt bằng kéo dài làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án . Đây là điều vướng
mắc của tất cả các công tr ình trong cả nước.
Thứ ba, trong quá trình xây dựng mới phát sinh ra nhiều hạng mục, công
việc lúc lập dự toán chưa tính đến nên lại phải chờ điều chỉnh cho phù hợp. Cuối
cùng là những rủi ro như thời tiết, tai nạn, địa chất...
Thứ tư, năng lực thi công của Nhà thầu còn hạn chế, do tình hình khan hiếm
nguồn công nhân ngành xây dựng, các nhà thầu cùng một lúc thi công nhiều công
trình thuộc khu vực Nhà nước ở mỗi địa phương khác nhau và ngoài khu v ực Nhà
nước nên không thể kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, giai đoạn lựa chọn nh à thầu còn
nhiều bất cập trong giai đoạn đấu thầu n ên chưa lựa chọn nhà thầu đủ năng lực thi
công công trình đúng tiến độ.
Thứ năm, nhà thầu thi công nhiều công tr ình cùng một thời điểm nên nguồn
vốn của nhà thầu không đáp ứng nhu cầu thi công các công tr ình làm kéo dài thời
gian thi công công trình xây dựng.
-45-
2.3.5. Thực trạng về tình hình đầu tư tràn lan và thời gian thực hiện các
công trình xây dựng:
Từ trước đến nay, chúng ta chỉ chú trọng đến những việc l àm định tính mà
không định lượng. Công tác điều tra cơ bản của các dự án làm qua loa, dẫn đến chợ
làm xong không có người họp, cảng cá xây xong không có t àu thuyền neo đậu, khu
tái định cư làm xong không có người đến ở. Vừa qua cuộc điều tra nhỏ cho thấy,
thất thoát trong tổng vốn đầu tư Nhà nước là 15%, trong đó có ngành lên t ới 30%.
Nếu làm điều tra cơ bản tốt, chắc chắn không có chuyện n ày.
Những nguyên nhân nào dẫn đến thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng
cơ bản:
Thứ nhất, là do các chủ thể tham gia đầu tư xây dựng chưa quán triệt và thực
hiện nghiêm túc các cơ chế, chính sách pháp luật. Trong đó quy định và giám sát thời
gian thực hiện đầu tư các dự án xây dựng thật cụ thể theo nhóm dự án A, B, C.
Thứ hai, là các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư, xây dựng cơ bản chưa
làm đầy đủ trách nhiệm quản lý, giám sát, kiểm tra. Một số địa ph ương do chủ
quan, duy ý chí muốn đẩy nhanh quá trình phát triển của địa phương dẫn đến đầu tư
tràn lan.
Thứ ba, là tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp ở lĩnh vực n ày chưa
cao. Lực lượng tư vấn, quản lý, kỹ thuật… đều nghiệp d ư, thiếu đồng bộ.
Câu hỏi đặt ra là phải làm gì để chấm dứt hiện trạng này là vấn đề bức xúc
hiện nay.
Nhà nước còn quá cứng nhắc, yếu kém trong quản lý giá xây dựng. Giá ở
đây bao gồm từ chuyện đền bù giải phóng mặt bằng đến nguyên vật liệu. từ trước
đến nay, chúng ta chỉ chăm chăm l àm phép tính tổng số đền bù giải phóng mặt bằng
của công trình A vượt bao nhiêu, nợ đọng vốn bao lâu… mà quên mất một điều, sự
chậm trễ của dự án ấy làm mất đi những cơ hội kinh tế hay lợi ích g ì cho địa
phương đó, gây cản trở đến lĩnh vực nào. Chúng ta phải thay đổi cơ chế này, thực
hiện linh hoạt để không làm phát sinh tham nhũng, lãng phí nhưng cũng không gây
nợ đọng triền miên cho các công trình.
-46-
2.3.6. Hiện trạng biến động giá vật tư ảnh hưởng đến giá thành xây dựng.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của ngành xây dựng, công tác
lập và quản lý giá thành xây dựng được quan tâm và ngày càng hoàn thiện cả về nội
dung và phương pháp. Trong n ền kinh tế thị trường, việc nghiên cứu và dự báo sự
biến động của giá cả là công việc không thể thiếu cho việc lập kế hoạch, phân tích
và đề ra các quyết định trong công tác quản lý, trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Việc phân tích, dự báo sự biến động của giá cả không chỉ phục
vụ cho công tác quản lý vĩ mô cấp Nh à nước mà còn là công cụ quản lý kinh tế hữu
hiệu cho các chủ đầu tư, các nhà thầu xây dựng.
Trên thị trường xây dựng hiện nay, giá trị dự toán xây dựng công tr ình đang
có chiều hướng tăng lên, do các yếu tố về sự tăng của giá cả vật t ư, vật liệu, năng
lượng, tăng tiền lương cho cán bộ, công nhân ngành xây dựng, sự tăng giá trị của
đất đai, do kéo dài thời gian xây dựng…Một trong những nguy ên nhân tăng chủ yếu
do giá cả đầu vào của một số loại vật liệu xây dựng chủ yếu, cấu th ành khoảng 60 –
80% chi phí vật liệu trong giá trị dự toán có xu h ướng tăng. Đặc biệt giá thép của
thế giới tăng, kéo theo giá thép trong nước cũng tăng mạnh làm cho dự toán xây
dựng công trình tăng gây khó khăn cho công tác l ập kế hoạch và quản lý vốn đầu tư,
gây ra khó khăn cho các nhà th ầu xây dựng. Sự tăng giá của một số loại vật liệu xây
dựng chủ yếu đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động giá trị dự toán xây dựng
công trình.
Theo kết quả thống kê và nghiên cứu trong vòng 9 năm từ năm 2000 đến
năm 2008 đối với 5 loại vật liệu xây dựng chủ yếu bao gồm: Xi măng PCB30, sắt
thép xây dựng, cát mịn, cát vàng, đá dăm tại một số thành phố như Hà Nội, TP.
HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng, hệ số biến động giá vật liệu các năm so với năm
2000 được tính toán trong bảng sau:
-47-
Số
TT
Loại vật
liệu
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Biến động
trung bình
trong 7
năm
1
Xi măng
PCB30
1.000 0,973 1,034 0,960 0,960 0.960 0,987 0,019 0,985
2
Thép xây
dựng
1,000 1,041 1,088 1,436 2,094 1,879 2,086 2,255 1,697
3 Cát xây 1,000 1,093 0,778 0,815 1,037 1,111 1,148 1,037 1,003
4 Cát vàng 1,000 0,913 0,897 0,897 1,196 1,196 1,413 1,739 1,179
5 Đá dăm 1,000 1,000 1,000 0,976 1,082 1,082 1,184 1,240 1,080
(Theo nguồn thông tin Kinh tế Xây dựng, số 4/2007)
Qua việc nghiên cứu tình hình biến động giá một số loại vật liệu n êu trên cho
thấy trong 3 năm đầu giá tương đối ổn định do sự điều tiết của Nh à nước trong quản
lý giá. Nói chung, giá các lo ại vật liệu xây dựng đều tăng, chỉ ri êng giá xi măng
tương đối ổn định qua các năm. Hiện nay hàng loạt các nhà máy xi măng được đầu
tư xây dựng với tổng công suất thiết kế 42 triệu tấn đều ghi tiến độ ho àn thành đưa
vào sản xuất từ năm 2007 đến 2010.
Nguyên nhân dẫn đến giá thép xây dựng trong n ước liên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DE TAI TOT NGHIEP hoan thien sau bao ve.pdf