MỤC LỤC
Mở đầu
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
III- PHẠM VI NGHIÊN CỨU
IV- NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
V- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VI- CẤU TRÚC TIỂU LUẬN:
NỘI DUNG:
Chương I:
GIỚI THUYẾT VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỰ XUẤT HIỆN CÁI TÔI
TRỮ TÌNH TRONG THƠ MỚI.
1.1- Khái niệm cái tôi trữ tình
1.1.1- Cái tôi
1.1.2- Cái tôi trữ tình
1.1.3- Các phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ ca.
1.2- Sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới.
1.2.1- Cơ sở xã hội cảu sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới.
1.3- Giới thiệu chung về sự đóng góp của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới.
Chương II:
CÁC SẮC THÁI CẢM NHẬN VỀ CÁC TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN DIỆU.
2.1- Xuân Diệu – Một cái tôi độc đáo, tích cực thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống.
2.2- Xuân Diệu – Hồn Thơ cô đơn ngay chính giữa cuộc đời.
Chương III:
CÁC HÌNH THỨC THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN DIỆU.
3.1- Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh
3.2- Cái tôi được biến hóa qua nhiều hình ảnh.
3.3- Sự đồng nhất của cái tôi trữ tình với thiên nhiên.
KẾT LUẬN:
Tài liệu tham khảo
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9887 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các sắc thái cảm nhận về các tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh là yêu cầu khẳng định cái tôi, yêu cầu giải phóng tình cảm, cá tính của cái tôi. Thơ mới ra đời trong hoàn cảnh thoái trào cách mạng, tầng lớp tiểu tư sản hoang mang dao động, mất phương hướng, mất lẽ sống, vì vậy họ quay lưng lại cuộc chiến tranh chính trị chuyển dần sang đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá. Thơ ca trở thành nơi lựa chọn để “chạy trốn ”, thoát ly cuộc đời, vừa để nguôi quên thực tại vừa như có thể giải phóng và phát triển cá nhân. Trong khi “ Chạy trốn ” như thế, họ thấy mình vẫn có đóng góp cho dân tộc nên trong thơ mới nhu cầu khẳng định và nhu cầu thoát ly gần như tồn tại song song.
Nếu nhu cầu khẳng định đưa thơ mới đến sự tin tưởng, thái độ nhập cuộc, lòng yêu đời thì thoát ly đưa đến nỗi buồn, nỗi cô đơn và ngày càng có xu hướng xây cao tháp ngà nghệ thuật. Trên thực tế, Thơ mới đã tìm được nhiều con đường thoát ly: Vào cõi tiên (Thế Lữ), vào tình yêu (Xuân Diệu), về đồng quê ( Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ...), vào tôn giáo ( Hàm Mặc Tử), vào vũ trụ ( Huy cận).
Cũng trong thời kỳ này văn học có nhu cầu đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Một số nhà thơ đã thấy sự khủng hoảng tiêu điều của thi đàn với loại thơ nhìn mất sinh khí ( Thơ Đường cuối mùa), họ dũng cảm đổi mới thơ ca của mình ( Tản Đà, Trần Tuấn Khải), Nhưng đó chỉ là những cố gắng lẻ tẻ và phải đến Thơ mới, thì mới có cuộc cách mạng trong thơ ca để chuyển từ thơ trung đại sang thơ hiện đại, từ thơ điệu ngâm sang thơ điệu nói và cái ta phi ngã đã dần nhường chỗ cho cái tôi cá nhân thơ mới.
1.3 Giới thiệu chung về sự đóng góp của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới.
Xuân Diệu (1916 - 1985) là một tác giả lớn, có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Hơn nửa thế kỷ cần biết ông đã để lại cho đời một di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau ....tác phẩm của ông được bạn đọc nhiều thế hệ đón nhận và yêu thích, nhiều tác phẩm được chọn để giảng dạy trong nhà trường. Từ trước đến nay việc nghiên cứu tìm hiểu tác giả Xuân Diệu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn Xuân Diệu đã lọt vào “ mắt xanh” của những người có tên tuổi và uy tín trong giới văn nghệ sỹ. Mặc dù cách nhìn nhận và đánh giá của các tác giả có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung các bài viết đều thống nhất đánh giá cao vai trò và vị trí hàng đầu của Xuân Diệu đối với phong trào Thơ mới.
Trong bài viết đầu tiên giới thiệu Xuân Diệu năm 1937, Thế Lữ người đi tiên phong của phong trào thơ mới đã có những nhận xét chuẩn xác, biểu hiện sự trân trọng đối với một tài năng của đất nước “ thơ của ông không phải là “văn chương ” nữa, đó là lời nói, là tiếng reo vui hay năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là những tình ý rạo rực biến lẫn trong những âm thanh...Xuân Diệu, nhà thi sẽ của tuổi xuân, của lòng yêu và của ánh sáng”.
Bài viết về Xuân Diệu trong thi nhân Việt Nam ( 1942) của Hoài Thanh cho rằng thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng có, là “ nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới....”.
Lịch sử phát triển của phong trào Thơ mới có ba chặng ( 1932 – 1935, 1936 – 1939, 1940 - 1945). Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn ở chặng thứ 2 vào lúc mà thơ mới phát triển đến đỉnh cao.
Trong nửa sau những năm ba mươi, lá cờ đầu của phong trào Thơ mới được chuyển qua tay Xuân Diệu và với sự xuất hiện của Xuân Diệu thì ông được xem là chủ soái của phong trào Thơ mới. Cùng với các nhà Thơ mới cùng thời kỳ ( Huy Cận, Tế Hanh...) họ đã làm thành dòng chính của Thơ mới thời kỳ này.
Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, tiêu biểu đầy đủ nhất cho thời đại, cái tôi đã thực sự được giải phóng. Nó không còn dáng vẻ bỡ ngỡ, dè dặt trước đó, mà nó phát biểu hết sức thành thật, táo bạo những cảm xúc, khát khao của trái tim đang tràn đầy, cháy bỏng của nó. Thơ Xuân Diệu là khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn uống cạn một cách vồ vập cái ly tràn đầy sự sống nhưng đồng thời, Xuân Diệu hiểu rất rõ sự trôi chảy của thời gian, sự tàn phai của tuổi trẻ, nỗi bất trắc của cuộc đời vì vậy con người yêu sống nồng nàn ấy, luôn vội vàng, dục dã, để tận hưởng cuộc sống.
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Khát vọng yêu và khát vọng giao cảm với cuộc đời là một thái độ nhân sinh tích cực ông quả quyết không chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa trong thơ Xuân Diệu thoát lên một nhu cầu mãnh liệt là được cảm thông, chia sẻ. Con người rất có ý thức về bản ngã ấy không phải là một cái tôi khép kín mà là cái, tôi luôn mơ ra với cuộc đời, khát khao được hoà điệu cùng cuộc sống với lòng khát sống, khát yêu và khát khao giao cảm ấy là động lực, biến, Xuân Diệu thành nhà thơ tình cờ lớn. Bởi vì trên đời không có gì làm cho con người ta cảm thấy được sống đầy đủ, trọn vẹn, mãnh liệt bằng tình yêu, và có niềm giao cảm nào gần gũi, tuyệt vời hơn khi người ta yêu ? .
Một tình yêu đích thực, chân thành, táo bạo rất đỗi trần trục, đậm sắc dục nhưng thật lý tưởng, đòi hỏi trước hết là sự giao hoà tuyệt đối của hai tâm hồn. Lời thơ nồng nàn, đầy nhục cảm thể hiện niềm khao khát giao cảm trọn vẹn về linh hồn của con người, trong cái cuộc đời lạnh lùng đẩy mỗi cá nhân vào một hòn đảo cô đơn đó. Bi kịch của tâm hồn Xuân Diệu cũng chính ở đó. Muốn hiến dâng tâm tình chân thành, si mê, thèm khát sự giao cảm với đời nhưng cuộc đời đáp lại ông bằng sự thờ ơ, lạnh lẽo.
“ Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh ” (Hoài Thanh).
Là người tiêu biểu đầy đủ nhất cho cái tôi thơ mới Xuân Diệu là người có ý thức “Đi tìm bề sâu” Nhất và đồng thời là người cảm nhận nhanh và rõ nhất trước sự lãnh lẽo đó.
Đến Xuân Diệu, tâm trạng cô đơn không còn âm thế mà nó đặc biệt sâu sắc, thấm thía đến tận xương tuỷ:
“Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt buốt xương da”.
Cái tôi đã đào tới tận đáy của nó, nó bỗng cảm thấy tất cả sự nhỏ bé, trơ trọi của nó trong một thế giới bao la xa lạ cuối cùng nó gặp chính nó:
Chớ để riêng em phải gặp lòng em.
Có thể nhận định rằng, đến xuân diệu, Thơ mới đã lên tới đỉnh cao và bắt đầu đi vào khủng hoảng, bế tắc.
Xuân Diệu là người có vai trò to lớn trong việc cách tân đối với thơ ca Việt Nam khi đó “ Xuân Diệu là người đem đến cho thi ca nhiều cái mới nhất ” (Vũ Ngọc Phan). Cái mới ấy diễn đạt bằng một gọng điệu, một ngôn ngữ nồng nàn, trẻ trung chưa từng có.
Đồng thời do ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng Pháp để đi sâu vào cái huyền diệu bên trong của cái tôi cho nên Xuân Diệu có những rung cảm hết sức tinh tế.
Quy luật thăng trầm cùng bi kịch của cuộc đời cái tôi. Thơ mới được thể hiện khá đầy đủ trong sáng tác của Xuân Diệu, vị đại diện ưu tú nhất cho thời đại thơ ca. Cùng chung nỗi đau lớn của những thân phận nô lệ trong xã hội đó nhưng mỗi nhà thơ lãng mạn có một cách “ chạy trốn ” riêng Xuân Diệu là người chấp nhận nỗi đau một cách rất độc đáo và nhân văn với một khát vọng sống nồng cháy và bền bỉ.
Tôi kẻ đưa ràng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bán vào đời.
Chương II
các sắc thái cảm nhận về cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu.
2.1 Xuân Diệu một cái tôi độc đáo – tích cực thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống:
Làm nên chiến thắng vẻ vang của phong trào Thơ mới qua mấy năm đấu tranh khá kịch liệt với thơ cũ trước tiên phải ghi nhận công lao của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông. Khi Xuân Diệu, với trái tim si mê vào rạo rực, với hồn thơ “Âu hoá” rõ rệt hơn xuất hiện thì những tháng năm “đại náo” trong lòng thơ đã đi qua. Thơ mới vừa toàn thắng ngọn cờ phong trào từ chủ tướng Thế Lữ được chuyển giao ngay sang bàn tay mới và chàng thanh niên Xuân Diệu quả không phụ công sức của những người giành giật, khai thác, đã giương cao hơn nữa ngọn cờ, mau chóng trở thành vị đại biểu ưu tú nhất của một thời đại thi ca.
Buổi đầu xuất hiện trên thi đàn, ra mắt xã hội cái tôi tiểu tư sản không khỏi bỡ ngỡ. Nhưng chàng trai trẻ bước ra trình diện khi xung quanh mình còn khá đông các cụ...
Do cái tôi thời này còn e dè, chưa dám bộc lộ một cách trực tiếp mọi ham muốn cá nhân, Lưu Trọng Lư đưa người đọc vào thế giới dường nữa hư, nửa thực, thế giới của mộng mơ, của nhớ thương bằng những vần thơ trong sáng, đượm buồn trong nhạc điệu vấn vương êm đềm . Cuộc sống thơ Thế Lữ vẫn chưa phải là cuộc sống thực mà dường như vẫn khoác cái áo bồng lại tiên cảnh. Đó dường như vẫn là thế giới của những người tiên, cảnh tiên, của những kim đồng, ngọc nữ...tuy là ngọn cờ đầu của phong trào thơ mới nhưng vẫn chưa đoạn tuyệt hẳn với những ước lệ cổ điển, cái tôi ở đây còn e dè, ngượng ngiụ như cô dâu mới về nhà chồng còn phải lấy cái quạt che mặt. Cái quạt là ước lệ trong thơ cũ.
Giữa lúc ấy Xuân Diệu xuất hiện, gạt bỏ những giấc mộng sầu man mác của Lưu Trọng Lư, hoà bão mơ hồ trong thơ thế lữ. Xuân Diệu dứt khoát và say sưa phát biểu thẳng những ham muốn riêng tư, những khao khát hưởng thụ của mình. Có thể nói rằng, đến Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản ngang nhiên đòi hỏi được thoả mãn một cách tối đa những nhu cầu của cuộc sống vật chất, của tình cảm, cảm giác phức tạp mà nồng nàn mãnh liệt nhất.
Có lẽ trong tất cả các nhà Thơ mới chưa ai bộc lộ lòng ham sống đến mức thiết tha, cuồng nhiệt như Xuân Diệu:
Kẻ đứng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
( Hư vô)
“ Lầu thơ của ông dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi trần”(Thế Lữ)
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Thân hoá rễ để hút mùa dưới đất.
Ông luôn ví mình như cây kim bé nhỏ mà vạn vật là muôn đá nam châm, Xuân Diệu luôn ước ao sự hoà hợp khăng khít với thế giới thiên nhiên, vầng trăng, cây cỏ, hoa lá....với mọi người, nhất là những người đang trẻ tuổi, trẻ lòng. Không ít nhà thơ mới có những lần cảm thấy thú vị khi trầm mình trong nỗi cô đơn. Xuân Diệu rất lo sợ sự lẻ loi, sợ thờ ơ lạnh nhạt. Vì thế, trong các nhà thơ, khao khát thực hiện bằng thơ cái nhu cầu đối thoại giao tiếp như Xuân Diệu, ông bộc bạch lòng ham muốn, bộc lộ nỗi hốt hoảng trước sự chảy trôi của thời gian.
Ông khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy bận tâm, siêng năng mà sống, mà yêu cho toàn vẹn tuổi xuân hiếm hoi của ta “và những vần thơ si mê, đầy cuốn hút ấy là những cái bỏng lưỡi hay những cái đau răng và đã uống tham lam vào suốt mặt trời, đã ăn hàm hở vào trái mùa xuân:
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời.
( Hư vô)
Hay:
Trời cao trêu nhử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi ta muốn uống hồn em!
(Vô biên)
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự.
(Giục giã).
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều...
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Có thể dẫn ra rất nhiều đoạn thơ nữ Xuân Diệu thể hiện đặc biệt sôi nổi ham yêu khát sống của mình. Có thể được một hệ thống động từ diễn tả đầy đủ các động tác mạnh bạo từng được Xuân Diệu bộc bạch nhiệt tình hưởng thụ cuộc sống nồng cháy, hăm hở đến kỳ lạ.
Xuân Diệu khẳng định cái tôi của mình bằng cách gắn bó với cuộc sống. Niềm ham muốn được gửi cả vào niềm khao khát vô biên tình yêu và tuổi trẻ bởi ông coi đó là phần ngon nhất của cuộc đời. Đến Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản không còn yêu một cách rụt rè, nhớ thương bóng gió nữa. Bây giờ Xuân Diệu là “ Kẻ uống tình yêu dập cả môi” mà vẫn không lúc nào nguôi nỗi khát thèm.
Rõ ràng, tình yêu của cái tôi tiểu tư sản này mang nặng triết lý hưởng thụ cuộc sống trần tục, thèm muốn hoà hợp vô biên và tuyệt đích trong tình yêu được Xuân Diệu nói một cách chân thành táo bạo.
Cường độ cảm xúc cao được biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ sinh động giàu sức gợi cảm trực tiếp. Phải chăng đây chính là nguyên nhân khiến thơ ông “mang theo một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” ( Thi nhân Việt Nam).
Đối với các nhà thơ lúc bấy giờ gắn bó với cuộc đời không phải dễ bởi vì cuộc đời đối lập với những khát vọng, càng yêu đời bao nhiêu , càng đau khổ bấy nhiêu. Bỏ đời mà đi (Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư thoát vào vườn tình, Chế Lan Viên trốn vào cõi âm...) Xuân Diệu cũng có lúc như vậy:
Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta.
Nhưng đó là ông nói vậy thôi, ông làm mình làm mẩy với cuộc đời vậy thôi chứ Xuân Diệu làm sao mà bỏ đời được vì cuộc đời rất ngon lành và hấp dẫn mà ông bám vào đời bằng sức mạnh kỳ lạ.
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
( Hư vô)
Chính chỗ đứng này, vị thế cái tôi này mà Xuân Diệu phát hiện ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là thế giới cái đẹp của con người. Điều đó chi phối quan điểm nghệ thuật của ông, chi phối mục đích sáng tác của ông.
Đối với Xuân Diệu, Việc làm thơ là để ông tìm đến sự giao lưu, sự hoà hợp giữa mình với cuộc đời, con người ông muốn “ gửi hương cho gió ”, muốn biến mình thành hạt “ phấn thông vàng” muốn trút tất cả tâm hồn mình vào thơ ca để bay đến với con người với cuộc đời ông coi đó là hạnh phúc.
“ Thơ tôi đó gió lùa đem toả khắp
Và lòng tôi mời mọc bạn chia nhau
Trông thấy nghìn môi rượu mùa ăm ắp
Tôi sẽ vui có được tấm lòng sầu”.
Như vậy, với Xuân Diệu, phong trào Thơ mới lên đỉnh cao, ở độ tròn đầy, sung mãn nhất của nó. Lần đầu tiên, với Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản ý thức được sâu sắc chính mình, mạnh dạn bày tỏ niềm ước vọng hưởng thụ cuộc sống.
Thơ Xuân Diệu là nguồn cảm hứng yêu cuộc đời, yêu cuộc sống, một khát vọng sống, một khát vọng hưởng thụ chưa từng thấy trong thơ ca.
Xuân Diệu là một người vô cùng yêu cuộc sống, đây là một tình yêu rất hăm hở và rạo rực đến kỳ lạ, Xuân Diệu yêu một cách vồ vập và cuống quýt.
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
( Vội vàng)
Người ta coi Xuân Diệu là một tình nhân si mê và cuồng bạo của cuộc sống.
Nói chung cùng tất cả các nhà Thơ mới ai cũng yêu đời kể cả Hàn Mặc Tử – người có cuộc sống bi đát nhất ông cũng yêu đời trong nỗi đau.
Nhưng có lẽ, không có ai có một sức mạnh của một tấm lòng trần như Xuân Diệu. Ông yêu cuộc sống bằng tất cả tình yêu của tấm lòng trần thế, yêu bằng một tình yêu vật chất.
Cái đẹp của cuộc sống, cái đẹp của tình yêu, sức hấp dẫn của nó là rất cụ thể, rất vật chất, rất trần tục. Xuân Diệu thường vật chất hoá những cái vô hình, trừu tượng ( hương thơm, màu sắc, ngọn gió, khúc nhạc...) thành những thực thể vật chất:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
- Con gió xinh thì thào trong lá biếc.
Tất cả đều trở thành nguồn dinh dưỡng để nuôi sống ông:
- Ta bấu răng ta vào da thịt của đời.
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát.
- Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi ta muốn uống hồn em.
(Vô biên )
Với một tình yêu là khát vọng sống như vậy, Xuân Diệu tập trung ca ngợi những hình thái giàu chất sống nhất của cuộc sống ( Mùa xuân, tuổi trẻ và ái tình...).
Đối với Xuân Diệu, mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ và tình yêu. Có nhiều lúc ông mượn cảm hứng mùa xuân để nói về tuổi trẻ và tình yêu:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
Từ khi yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên Đán)
Nếu Xuân Diệu coi được giao cảm với con người là một hạnh phúc thì tình yêu là tuyệt đỉnh của hạnh phúc ấy.
Suốt đời Xuân Diệu băn khoăn một điều:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào.
Nhà thơ mời yêu, kêu gọi tuổi trẻ hãy biết yêu say đắm:
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dù chỉ là trong một phút mà thôi
Xuân Diệu náo loạn cả khung trời tình ái bằng một thứ ái tình táo bạo mới mẻ. Tình yêu của ông không chịu sự kiểm soát của lý trí, ông muốn yêu thật si mê, thật chân thành, muốn trở thành sứ giả của tình yêu:
“ Tôi khờ khạo quá ngu ngơ lắm
Chỉ biết yêu thôi chả biết gì ”
Ông tự tuyên bố mình là một “ Khách tình si”, “ kẻ uống tình yêu dập cả môi”.
Với Xuân Diệu niềm khao khát giao cảm với cuộc đời trần trục đã chi phối toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ. Đó chính là tiếng nói của cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống. Khi Xuân Diệu bước chân lên mặt đất là lúc trái tim ông rộng mở để đón nhận cuộc đời nhưng cũng là lúc thi nhân nhận ra sự thờ ơ, lạnh lẽo của cuộc đời đối với mình.
2.2 Xuân Diệu – Hồn thơ cô đơn ngay chính giữa cuộc đời:
Khi Thế Lữ cố gắng chạy trốn cô đơn bằng cách trốn lên tiên hay hoá thân thành ẩn sĩ, say sưa đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật thì Xuân Diệu cảm thấy cô đơn ngay chính giữa cuộc đời, cô đơn ngay trong bản thân mình, và cô dơn ngay cả khi mình đang hạnh phúc.
Dù mộng tướng quá nhiều ở tình yêu, cuộc đời và không được đáp ứng như mong ước cho nên ngay từ phút đầu tiên nhà thơ đã thất vọng thốt lên:
Vì sao gặp gỡ buổi đầu tiên
Ta đã đày thân giữa xứ phiền
Không thể vô tình qua trước cửa
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên.
(Vì sao)
Thất vọng vì không tìm được niềm giao cảm với đời, Xuân Diệu rơi vào một trạng thái cô đơn vô hạn. Cuộc đời đầy hương hoa, đầy ánh sáng rực rỡ nhưng bước chân của nhà thơ lại lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội kim tiền. Đến với cuộc đời bằng tất cả tâm hồn và trái tim rộng mở, khát khao hoà nhập cuộc đời với trái tim tươi trẻ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn siết mây mưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Cho chuếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của đời tươi
Hỡi Xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.
( Vội vàng)
Nỗi cô đơn của Xuân Diệu cũng xuất phát từ đáy lòng yêu đời đó. Cô đơn nên bao giờ cũng buồn, và với Xuân Diệu cô đơn còn là sự lẻ loi, cô độc đến cùng cực, đến tuyệt vọng. Bởi trái tim và tâm hồn của nhà thơ đã dâng hiến cho cuộc đời, cho tình yêu. Vì thế, có lúc Xuân Diệu đã tự trách mình ra khỏi thế giới bên ngoài, tự đối thoại với bản thân mình. Khi một mình độc thoại với hồn mình, đó cũng là lúc ta bắt gặp một Xuân Diệu cô đơn đến tột đỉnh, với lời van nài thê thiết:
Chớ để riêng em phải gặp lòng em
(Lời kỹ nữ)
Sự tồn tại một cách lẻ loi của những “riêng chiếc” “riêng em” nói lên sự cô đơn, nỗi sơn hãi chính mình của tác giả. Cuộc đời thì nhẫn tâm, lạnh nhạt, vô tình. Con người trôi dạt trong nỗi cô đơn.
Tôi như chiếc thuyền hư không bến đỗ
Tôi chỉ là một con chim không tổ
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi
Nhặt nụ cười của thiên hạ, than ôi
Để tự nhủ: Ta được yêu đấy chứ
(Dối trá)
Cảm giác cô đơn đến tột đỉnh, cảm thấy mình là kẻ trắng tay: Bơ vơ, không có chỗ đứng, không có vị trí trong xã hội, không một tổ ấm tình cảm nào. Thi nhân chợt cảm thấy mình cô đơn chẳng khác gì một đứa trẻ mồ côi thiếu tình thương và khao khát sự cảm thông của người đời: Nhưng tội nghiệp thay, cuộc đời ấy vốn đã “ đìu hiu” lại “ hay cực” đến vô tình:
Ta buồn bã riêng tây như đứa nhỏ
Mẹ bỏ đi vò võ kiếm đồ chơi
Không ai thương nên chẳng giám hé lời
Biết thân phận ghì môi không giám khóc.
(Riêng tây).
“Ghì môi” lại nhưng lại tuôn chảy bao hàng nước mắt, những tiếng nấc cố nén, nghẹn ngào. Ngay từ nhỏ, Xuân Diêu đã phải sống trong những ngày trống trải, cô đơn, thiếu tình cảm máu mủ, ruột thịt. Đó cũng chính là lúc nhà thơ bước đầu tách mình ra khỏi xã hội, cuộc đời, bước vào thế giới riêng chỉ có mình. Nhưng đó cũng chính là nơi trống vắng, hoang vu và nhất là không ai có thể đặt chân đến: Thế giới cô đơn. Như con nai trước buổi hoàng hôn, ngơ ngác giữa rừng sâu, lạc lõng bởi lạc bầy, bóng tối bao trùm và nỗi cô đơn bao phủ:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
(Khi chiều giăng lưới)
Tuỵệt vọng, cô đơn đến mức có lúc “ nhắm mắt làm liều” đi tìm sự giải thoát bằng cách “ Lấy cá nhân làm cứu cách cho cá nhân” ( Hoài Thanh) để thoát ra khỏi tâm trạng:
Cô đơn muôn lần, muôn thưở cô đơn
(Hi Mã lạp sơn)
Nhưng rồi lại rơi vào cảm giác rợn ngợp ở cái đỉnh tháp ngà của cái “ Tôi ” ấy:
Ta cao quá mà núi non thấp lắm
Chẳng so chi, chẳng chi đến giao hoà.
Từ trên đỉnh cao ấy, thi nhân nhìn xuống kênh kiệu:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.
Và ánh mắt khinh mãn:
Lầu vua chúa còn hơn chi mái cỏ
Nóc đền đài cũng thấp tựa lũng nam.
Lọt thơm giữa cái phẳng phặng đến rợn người, giữa “cái lạnh lùng thê tuyệt ấy” cũng có lúc thi nhân càng cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn của mình:
Hiu hắt nhỉ, bốn phương trời vò võ
Lạnh lùng chăng, sầu một đỉnh chon von.
Và nhà thơ đã đóng cửa, thu mình lại trong cái thế giới “ Riêng tây” và tự đày đoạ mình trong cô độc:
“ Trời mưa gió hôm nay ta đóng cửa
...Ta nằm đây như một giải quan xa
Suốt năm tháng chẳng có người tiếc nuối”
(Riêng tây)
Cô đơn ngay chính giữa cuộc đời, Xuân Diệu như dồn tất cả những tình cảm còn lại cho tình yêu, để giải thoát nỗi cô đơn, để tìm nơi trú ngụ:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
(Riêng tây)
Tình yêu là phần ngon nhất của cuộc sống, cuộc đời. Cuộc sống không có tình yêu thì “ mặt trời cũng sẽ tắt ngấm” (Huy gô) Khi yêu con người sống tốt đẹp hơn và gần gũi với mọi người hơn. Với tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Xuân Diệu đã đến với tình yêu, một lần nữa thi nhân phải cam chịu thân phận “ đơn phương”.
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ hay thờ ơ chẳng biết.
(Yêu)
Yêu mà không được đón nhận, Yêu mà không được đáp lại, Yêu mà không được yêu. Từ thất vọng giữa cuộc đời, từ thất vọng trong tình yêu, trái tim “ dại khờ” ấy bật lên những lời cay đắng, tội nghiệp:
Người ta khổ vì yêu không phải cách
Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người
(Dại khờ)
Và cầu xin:
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
( Mời yêu)
Để rồi chấp nhận bi kịch của tình yêu: “ có gửi đi chăng có về” và thấm thía:
Ta trút bâng quơ một trận lòng
Biết rằng đau khổ giữa hư không
Muốn trốn sầu đơn muôn vạn kiếp
Lại tìm sa mạc của tình yêu
Trốn tránh sự cay nghiệt của cuộc đời, lại bắt gặp sự lạnh lùng của tình yêu, con người cô đơn ấy lại càng cô đơn, càng lẻ loi hơn, bởi chẳng có ai hiểu và san sẻ với mình. Ngay cả khi tưởng chừng như gắn bó khăng khít với người yêu, ông vẫn cảm thấy cô đơn, và khi tưởng như mình đang rất hạnh phúc thì ông vẫn ông luôn bị ám ảnh bởi mặc cảm xa cách:
Dẫu tin tưởng chung một đời một mộng
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua vạn lý trưởng thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
(Xa cách)
Có những lúc ở bên cạnh người yêu mà tác giả vẫn thấy cô đơn:
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm yêu chẳng bến bờ
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
( Trăng)
Trốn cô đơn của cuộc đời, Xuân Diệu lại bắt gặp “ sa mạc” mênh mông của tình yêu. Đến với tình yêu bằng tất cả con tim, tâm hồn và sự sống, nhưng tình yêu lại không giúp nhà thơ giải thoát được sự bế tắc mà càng dẫn nhà thơ tới ngõ cụt của sự cô đơn. Đó là nỗi cô đơn tự mình không chịu đựng nổi nhưng lại không chia sẻ cùng ai. Đó là lúc thi nhân trơ trọi lại một mình giữa cuộc sống vốn dông người qua lại.
Không có một tình cảm nào bền chặt. Không một mái ấm gia đình, không một bàn tay đủ chân thành để sưởi ấm tâm hồn cô liêu:
Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
(Lời Kỹ nữ)
Mượn lời Kỳ nữ để bày tỏ nỗi lòng mình: Đó là nỗi cô đơn, rợn ngợp giữa cuộc đời, giữa những con người, những ký nữ bị du khách ruồng bỏ hay cũng chính là tâm trạng của Xuân Diệu trước cuộc đời “đìu hiu” “ cay cực”. Tình cảm người du khách cũng nhạt nhẽo, vội vàng như người đời: “ tình du khách thuyền qua không buộc chặt”, để lại nàng một mình trong nỗi đau đớn tột cùng, trong sự cô đơn đến tận cùng.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngàn lạnh buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi...du khách đã đi rồi
( Lời kỹ nữ)
Xuân Diệu là người hiến dâng cho cả cuộc đời mình cho sự sống, tình yêu và ông luôn đòi hỏi sự vô biên, tuyệt đích, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa nhất dẫn tới sự cô đơn trong thơ Xuân Diệu, và cũng chỉ có Xuân Diệu, cái tôi cô đơn ấy mới thấm đấm tận hồn người, để khi đọc lên, ta nghe như chính hồn mình đang hoà vào từng câu chữ:
Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da
( Lời kỹ nữ)
Hoà tan vào nỗi cô đơn giá buốt của nhân vật trữ tình từ những chuyển động của thân thể đến cảm giác tâm hồn cái cô đơn của tâm hồn như ngấm vào tận xương tuỷ của con người. Cảm giác cô đơn ấy như là sự tổng hợp của những tế bào cô đơn. “Sinh thời”, khi nói về bài thơ này Xuân Diệu cho biết người kỹ nữ trong thơ cũng chính là mình (Lưu Khánh Thơ).
Tác giả đã hoàn toàn hoá thân và đồng nhất với thân phận người kỹ nữ. Giữa họ có những điểm tương đồng. Cả hai cùng chân thành, tha thiết với cuộc đời, nhưng đều gặp sự thờ ơ, lạnh lẽo, để rồi nhận về mình nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Và cũng chỉ có Xuân Diệu tuyệt vọng. Và cũng chỉ có Xuân Diệu “ nhà thơ mới nhất trong các câu Thơ mới”. Hơn ai hết đã thể hiện cái tôi cá nhân. Cái tôi riêng của mình một cách phong phú nhất nhưng cũng cô độc nhất, cái tôi cô đơn ấy, là cái tôi mang tính nhục thể. Thiên nhiên hay tạo vật cũng là sự hoá thân của hồn người. Nếu như trong thơ ca trung đại, k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan Lam Han.doc