Luận văn Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại: lý luận, pháp luật và thực tiễn tài phán

MỤC LỤC Trang

CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

1.1 Sơ lược về hợp đồng và hợp đồng thương mại. 1

1.1.1 Khái niệm. 2

1.1.2 Hình thành hợp đồng. 3

1.1.3 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. 5

1.1.3.1 Năng lực chủ thể. 5

1.1.3.2 Sự tự nguyện,tự do của các bên giao kết hợp đồng. 7

1.1.3.3 Nội dung và mục đích của hợp đồng. 8

1.1.3.4 Hình thức của hợp đồng. 11

1.2 Sơlược hợp đồng vô hiệu và phân loại hợp đồng vô hiệu. 13

CHƯƠNG 2: CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU

CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

2.1 Khái quát những qui định của pháp luật về các

trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại. 15

Định nghĩa.

2.2 Các trường hợp vô hiệucụ thể của hợp đồng thương mại. 16

2.2.1 Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm

điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội. 16

2.2.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo. 17

2.2.3 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ hình thức. 19

2.2.4 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất

năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự xác lập, thực hiện. 21

2.2.5 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa. 22

2.2.5.1 Hợp đồng lừa dối. 22

2.2.5.2 Hợp đồng vô hiệu do đe dọa. 25

2.2.6 Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn. 27

2.2.7 Hợp đồng vô hiệu do người kí hợp đồng

không đúng thẩm quyền. 31

2.3 Hậu quả pháp lý của hợp đồng vôhiệu. 34

CHƯƠNG 3:THỰC TIỄN TÀI PHÁN CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ HIỆU

CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1 Nhìn chung về thực tiễn tài phán các hợp đồng thương mại vô hiệu . 38

3.2 Mộtsốkiếnnghị. 45

LỜIKẾT. 47

TÀI LIỆUTHAM KHẢO. 48

pdf53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14527 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại: lý luận, pháp luật và thực tiễn tài phán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí). Tuy nhiên, không phải sự thể hiện ý chí giả tạo nào cũng đưa đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Chỉ có những giao dịch mà ở đó ý chí giả tạo tồn tại ở cả hai bên trước khi giao kết, xác lập các giao dịch dân sự như vậy mới đưa đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự. Nói cách khác, ở đây phải có sự thông đồng của các chủ thể khi giao kết xác lập các giao dịch giả tạo như vậy. Theo ý kiến của tiến sĩ luật khoa, luật sư Nguyễn Mạnh Bách: trong hợp đồng mua bán nếu hai bên không xác định giá cụ thể hoặc giá ghi trong hợp đồng là giả tạo thì hợp đồng cũng vô hiệu vì thiếu đối tượng (1). Bởi vì theo Điều 121 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 :“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự ”, nếu xét về phương diện đối tượng của hợp đồng thì hợp đồng không có đối tượng mà chỉ tạo lập nghĩa vụ, chính nghĩa vụ này mới có đối tượng. Đối tượng phải có thể thực hiện được một cách tuyệt đối, nếu cam kết một điều gì không thể thực hiện được một 1 Các hợp đồng thương mại thông dụng – Ts luật khoa, Luật sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Giao thông vận tải 2007 – Tr 13, 39 SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 19 cách tuyệt đối thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Và, theo đó, giá cả là một thành tố thuộc đối tượng của việc mua bán. Nếu trong hợp đồng hai bên qui định giá, sau đó bằng một chứng thư khác hai bên qui định rằng người mua không phải trả tiền, thì giá ghi trong hợp đồng là giả tạo, giữa hai bên không có hợp đồng mua bán mà chỉ có một sự tặng cho tài sản. Theo qui định của Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 thì hợp đồng mua bán vô hiệu còn hợp đồng tặng cho vẫn có hiệu lực. Có hai trường hợp giả tạo  Thứ nhất, giả tạo nhằm cố ý giấu một giao dịch khác: thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu. (Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ). Ví dụ: X không phải là đối tượng làm dịch vụ môi giới cho Công ty A, nhưng X đã giả tạo ra một số hợp đồng mua bán giữa các công ty khác với công ty A và nhờ B lập các hợp đồng môi giới giả tạo để rút tiền hoa hồng của công ty A thì những hợp đồng đó vô hiệu.  Thứ hai, giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba: “Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu” (Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ). Ví dụ: Giá ghi trong hợp đồng là 20 triệu trong khi giá thực tế hai bên giao dịch là 100 triệu. Sự che giấu này trước tiên là nhằm mục đích trốn thuế. Hợp đồng giả tạo này sẽ bị tuyên vô hiệu do trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế cho cơ quan Nhà nước. 2.2.3 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ hình thức  Hình thức của hợp đồng - yếu tố không nên xem nhẹ Trên thương trường, bất kể hoạt động kinh doanh nào của bạn với đối tác bên ngoài cũng đều được thể hiện thông qua hợp đồng. Một trong các vấn đề mà các chuyên gia về pháp luật kinh doanh quan tâm là hình thức hợp đồng có ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng như thế nào. Về vấn đề này, pháp luật của các nước có những quan điểm và cách tiếp cận khác nhau. Ở nhiều nước trên thế giới, pháp luật có những điều khoản cụ thể đối với một số hợp đồng, bắt buộc từng loại phải được thể hiện bằng hình thức nhất định, nếu vi phạm quy định này, hợp đồng đã ký kết sẽ không có giá trị pháp lý. Vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến pháp luật và trật tự công cộng. Vì vậy, chừng nào sự thống nhất của các bên chưa được thể hiện bằng những hình thức nhất định theo đòi hỏi của pháp luật thì chừng đó chưa có hợp đồng. Pháp luật một số nước coi sự vi phạm về hình thức là vi phạm lợi ích công cộng nên hợp đồng vô hiệu tuyệt đối. Ví dụ: pháp luật của Đức đã đưa ra các đòi hỏi đầu tiên là phải tuân thủ nghiêm ngặt điều kiện về hình thức để nhằm bảo vệ những người không có kinh nghiệm đối mặt với những tình huống bất ngờ, cũng như để hạn chế phương pháp chứng cứ. Tuy nhiên, việc pháp luật quy định hợp đồng phải được thiết lập bởi những hình thức nhất định sẽ vô tình tạo nên khoảng cách nhất định giữa sự thỏa thuận mong muốn của các bên với hiệu lực của hợp đồng. SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 20 Hay ở một số nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (common law), người ta quan niệm hình thức văn bản là bắt buộc đối với các hợp đồng có giá trị. Đơn cử Anh và Úc, hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản khi giá trị của nó lớn hơn 10 bảng Anh. Quy định này xuất phát từ hệ thống luật án lệ coi các văn bản hợp đồng có giá trị bắt buộc và có tính chất như luật đối với các bên và đó chính là căn cứ cơ bản để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết tranh chấp. Nhờ đó, hợp đồng ở các nước này được soạn thảo rất chặt chẽ. Do vậy, trong giao dịch kinh doanh, trước khi tiến hành ký kết hợp động kinh doanh với các đối tác nước ngoài, bạn cần xem xét và nắm vững các quy định pháp luật về hợp đồng của nước đó. Một lời khuyên đối với các công ty là khi ký kết Hợp đồng kinh doanh quốc tế, công ty nên thoả thuận với đối tác để luật điều chỉnh Hợp đồng là luật của nước mình. Có như thế, khi có tranh chấp xảy ra, công ty sẽ đỡ mất thời gian tìm hiểu pháp luật nước ngoài và có thêm lợi thế để giải quyết các vướng mắc phát sinh.  Theo qui đinh của pháp luật Việt Nam Điều 124 Bộ luật dân sự 2005 có qui định hình thức của các giao dịch: “Giao dịch dân sự được biểu hiện bằng lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể” và so với Bộ luật dân sự 1995 luật hiện hành đã cụ thể hóa các “phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Khoản 1 Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 nêu các điều kiện để một giao dịch có hiệu lực không bao gồm hình thức của giao dịch. Cho nên, có thể nói rằng hình thức của giao dịch theo qui định của luật hiện hành là điều kiện cần để một giao dịch được tiến hành thuận lợi dưới sự bảo hộ của pháp luật, điều này khác hẳn so với Bộ luật dân sự 1995: hình thức là một trong bốn điều kiện bắt buộc có hiệu lực của một giao dịch, theo đó, theo Điều 131 Bộ luật dân sự 1995, ta có thể nói rằng: hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện đủ để một giao dịch có hiệu lực và một bên có thể dựa vào yếu tố hợp đồng không tuân thủ hình thức mà yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu. Ví dụ: Thương nhân A (bên bán) và thương nhân B (bên mua) tiến hành giao kết một hợp đồng mua bán gạo. Trong hợp đồng qui định rõ mọi sửa đổi đối với hợp đồng chỉ có hiệu lực khi được lập thành văn bản. Ngày giao hàng là ngày 30\02. Đến ngày 15\02 B gọi điện cho A và yêu cầu giao hàng trễ hơn so với hợp đồng 1 tháng do B chưa chuẩn bị kho bãi kịp để nhận hàng. A đồng ý. Đến ngày 15\03 B đâm đơn kiện, yêu cầu hủy hợp đồng và A phải bồi thường thiệt hại do đã vi phạm hợp đồng: giao hàng trễ hạn và B thừa nhận đã gọi điện nhưng cho rằng chưa lập thành văn bản nên thỏa thuận đo không có hiệu lực. Ở ví dụ này chúng ta chỉ bàn về hình thức của hợp đồng và hậu quả pháp lý được giải quyết nếu căn cứ theo Bộ luật dân sự cũ và Bộ luật dân sự 2005. Bộ luật dân sự 1995: “Khi các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng đã coi đã được giao kết khi đã tuân theo hình thức đó” (Khoản 1 Điều 400) và “Trong trường hợp pháp luật qui định giao dịch dân sự vô hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản,…buộc các bên thực hiện…trong một thời hạn,; quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô hiệu”. Không còn SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 21 một cách lý giải nào khác và hợp đồng không tuân theo sự thỏa thuận ban đầu về mặt hình thức sẽ bị tuyên bố vô hiệu hoặc huỷ hợp đồng hoặc bồi thường hợp đồng. Bộ luật dân sự 1995 qui định có vẻ tôn trọng sự thỏa thuận và đặt sự tự do thỏa thuận của các bên giao kết lên hàng đầu, nhưng thực tế còn rất nhiều lỗ hỏng để một bên có thể dựa vào đó mà hưởng lợi. Bộ luật dân sự 2005 : Khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự 2005: “ Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có qui định”, cho nên, chỉ khi nào có qui định và luật yêu cầu thì hợp đồng mới phải tuân thủ về hình thức. Hình thức của hợp đồng không phải là yếu tố đương nhiên khiến hợp đồng vô hiệu và cũng không thể dựa vào lặp luận do hợp đồng không tuân thủ hình thức nên vô hiệu (Khoản 2 Điều 401). Ta có thể suy luận rằng: mọi thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng đều có giá trị pháp lý, đều ràng buộc các bên phải thực hiện nghiêm túc. B gọi điện yêu cầu A dời ngày giao hàng là có thật, nên B không có quyền viện dẫn điều khoản trong hợp đồng qui định về hình thức mà cho rằng A vi phạm, trong khi A căn cứ vào việc B gọi điện mà tiến hành thực hiện hợp đồng. Chỉ những giao dịch pháp luật qui định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí, hoặc xin phép thì mới ràng buộc các bên phải tuân theo, nếu các bên không tuân thủ các qui định này đồng thời có yêu cầu thì Tòa án xem xét và buộc các bên thực hiện theo qui định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn nhất định. Việc ấn định thời hạn do Tòa án quyết định căn cứ vào giao dịch cụ thể. Việc buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa vụ của Tòa án. Tòa án không mặc nhiên tuyên bố giao dịch này là vô hiệu. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các qui định về hình thức của giao dịch trong thời hạn do Tòa án ấn định thì giao dịch mới đương nhiên vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại. 2.2.4 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy, giao dịch của họ phải được xác lập, thiết lập dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác lập, thực hiện. Tuy nhiên, giao dịch do những người này xác lập không mặc nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện cho họ: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo qui định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện” ( Điều130 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ) Ngoài ra, “người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 22 án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu” (Điều 133 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ). Ở trường hợp này có một ý kiến cho rằng: trong hợp đồng mua bán tài sản, năng lực của người mua cũng được xét vào lúc người này quyết định mua, nếu tại thời điểm tiếp nhận lời đề nghị từ người bán, người này có đầy đủ năng lực nhưng khi quyết định mua thì mất năng lực hành vi thì hợp đồng mua bán vô hiệu. Trái lại, đối với người bán, vì người này thoả thuận bán ngay từ khi đưa ra lời đề nghị bán, do đó, năng lực của người này được xem xét vào thời điểm đưa ra lời đề nghị. Do đó, tại thời điểm người mua chấp nhận đề nghị, người bán có mất năng lực hành vi thì cũng không ảnh hưởng gì đến giao dịch (1). 2.2.5 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa 2.2.5.1 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối  Hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng Lừa dối là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Theo cách nói thông thường, lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo, ví dụ: thủ đoạn lừa dối của con buôn. Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt người khác. Từ những lời lẽ gian dối đến mánh khóe xảo trá dùng để khiến người ta giao kết hợp đồng đều là lừa dối. Cũng có cách hiểu: “Lừa dối là hành vi cố ý đưa thông tin sai không đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật. Nếu không có các thủ đoạn ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng”. Các nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà lập pháp Việt Nam coi lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó. Dù cách sử dụng ngôn từ có khác nhau song nội dung của các khái niệm trên là không khác nhau. Đó là, không phải bất cứ sự nói dối nào cũng đều bị coi là lừa dối và việc xác định có tồn tại hay không sự lừa dối trong giao kết hợp đồng phải có hai điều kiện: một là, một bên phải sử dụng thủ đoạn để lừa người khác và hai là, người kia phải nghe theo, làm theo một việc nào đó (giao kết hợp đồng). Thuật ngữ pháp lí “lừa dối” được hình thành từ thời La Mã. Cổ luật La Mã lúc đầu đã coi lừa dối như một tội phạm hình sự, theo đó những kẻ lừa dối sẽ bị trừng phạt đối với sự lừa dối mang tính chất quan trọng. Dần dần lừa dối đã được sử dụng trong lĩnh vực dân sự và xem nó như một trong các yếu tố có thể làm cho hợp đồng vô hiệu hay nói cách khác khi có lừa dối, sự thỏa thuận trở thành khiếm khuyết và bên bị lừa dối có quyền yêu cầu vô hiệu hợp đồng. Tuy nhiên, trên thực tế làm thế nào để xác định có sự lừa dối là vấn đề rất phức tạp. Một sự khẳng định của người bán hàng về thực trạng mà anh ta không biết có phải là sự lừa dối không? Năng lực của người kí kết hợp đồng có ý nghĩa gì không trong việc xác định có hay không có sự lừa dối. 1 Các hợp đồng thương mại thông dụng – Ts luật khoa, Luật sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Giao thông vận tải 2007 – Tr 35, 36 SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 23 Khoa học pháp lý đã đưa ra những điều kiện để xác định khi nào thì lừa dối tồn tại. Phần lớn pháp luật các nước đều coi những lừa dối có tính chất quyết định đến sự giao kết hợp đồng là yếu tố vô hiệu hợp đồng. Tính chất quyết định thể hiện ở chỗ nếu không dùng các mánh khóe như vậy thì sẽ không có giao kết hợp đồng. “Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không kí kết hợp đồng”. Việc một người bán hàng giới thiệu không đúng sự thật về hàng hóa của mình hoặc người bán hàng nói giá quá cao (nói thách) thì không bị xem là lừa dối, bởi lẽ trong các trường hợp này người tiếp nhận thông tin không bị buộc phải kí hợp đồng nếu họ không muốn.(1)  Hợp đồng lừa dối Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí trong việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết. Ý chí giao kết hợp đồng của các bên giữ vị trí vô cùng quan trọng trong việc xác định sự tồn tại hay không của hợp đồng. Các biểu hiện của sự không thống nhất ý chí (sự thể hiện ý chí khác nhau) hoặc sự trái ngược giữa biểu hiện với ý chí đích thực của các bên giao kết sẽ không hình thành nên một hợp đồng có hiệu lực. Nói cách khác một hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, nhầm lẫn hay đe dọa có thể không có giá trị vì trong các hoàn cảnh như vậy, các cam kết được đưa ra không xuất phát từ ý chí đích thực của người giao kết. Cũng như nhiều quốc gia khác, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam thừa nhận lừa dối trong giao kết hợp đồng như một yếu tố có thể đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng. Theo Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 Ðiều 132: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Người giao kết với người lừa dối không nhầm, mà bị lừa, hay đúng hơn là bị người lừa dối dẫn dụ vào sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn do bị lừa dối được hình dung trong một phạm vi khá rộng so với sự nhầm lẫn tự động phân tích ở trên: người nhầm lẫn tự động chỉ được bảo vệ trong trường hợp nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng; trong khi người nhầm lẫn do bị lừa dối có thể được bảo vệ cả trong trường hợp nhầm lẫn về chủ thể giao kết, về tính chất của đối tượng, về nội dung của giao dịch. 1 Trích ý kiến Lê Bích Thọ-Ths, Phó hiệu trưởng trường ĐH luật tp.HCM trên trang web SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 24  Ðiều kiện của sự lừa dối (1)  Người lừa dối phải là bên kết ước ? Điều 142 Bộ luật dân sự Việt Nam 1995: “ Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai…”.Bộ luật này không xây dựng khái niệm lừa dối của người thứ ba. Tuy nhiên, thực tiễn của các hợp đồng xác lập do lừa dối thì người kết ước có thể là người tổ chức việc lừa dối, cũng có thể người này không phải là người duy nhất thực hiện hành vi lừa dối. Đây là một hạn chế của Bộ luật dân sự Việt Nam 1995, khiến cho việc bảo vệ những chủ thể bị lừa dối hạn chế. Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ở Điều 132 đã dự liệu được thiếu sót của Bộ luật cũ: “lừa dối là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai...”.Bộ luật dân sự hiện hành đã khẳng định hành vi lừa dối có thể do chính một bên giao kết hợp đồng hoặc do người thứ ba thực hiện. Tuy nhiên, dù một người kí kết hợp đồng hay người thứ ba không trực tiếp thực hiện hành vi gian trá nhưng đã tham gia hoặc đồng lõa với hành vi gian trá đó thì hành vi này cũng được coi là do chính người kí hợp đồng thực hiện. Nói chung, điều quan trọng là phải có vai trò tích cực của bên kết ước trong vụ lừa dối; còn vấn đề có bao nhiêu người tham gia vào vụ lừa dối không phải là vấn đề cần được giải quyết trong khuôn khố xác định các điều kiện của hành vi lừa dối.  Người kết ước không trung thực. Việc lừa dối của người kết ước được ghi nhận, một khi người này có hành vi lừa dối chủ động (cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng tài liệu giả, nói dối) - với tư cách người tổ chức, người thực hiện, người đồng lõa với người thứ ba hoặc người giúp sức, hoặc có hành vi lừa dối thụ động (không hành động), nghĩa là biết người kết ước với mình bị nhầm nhưng im lặng để hưởng lợi từ việc người kết ước chấp nhận giao kết hợp đồng. Trong trường hợp lừa dối bằng hành vi thụ động, điều quan trọng là người lừa dối phải có nghĩa vụ thông tin đối với người đối tác và thái độ thụ động trở thành biểu hiện của việc không thực hiện nghĩa vụ thông tin ấy.  Ý định lừa dối. Người lừa dối phải thực hiện hành vi lừa dối một cách cố ý, nghĩa là thực hiện hành vi lừa dối một cách có ý thức với mong muốn có được sự chấp nhận giao kết hợp đồng của người bị lừa dối. Hành vi lừa dối, vả lại, phải bị đánh giá xấu theo các chuẩn mực chung về đạo đức; có những thủ đoạn lừa dối chấp nhận được trong thực tiễn giao dịch, do tính chất vô hại của chúng, ví dụ, quảng cáo bột giặt “chỉ ngâm thôi đã sạch”, kem đánh răng có tác dụng làm cho “răng chắc như thép”,... Thế nào là xấu hoặc chấp nhận được theo các chuẩn mực chung về đạo đức là vấn đề không đơn giản. 1 Trích trong “Giáo trình Luật dân sự Việt Nam ( tập 1 - quyển2)” - Trường Đại học Luật Cần Thơ_Khoa Luật – Ts.Nguyễn Ngọc Điện chủ biên – Tr 15, 16 SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 25  Sự lừa dối phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận. “Lừa dối là hành vi cố ý... nhằm là cho bên kia hiểu sai... nên đã xác lập giao dịch...”. Một người đồng ý mua một chiếc xe máy, nhân viên công ty nói dối về những ưu điểm không tồn tại của xe máy để người mua chấp nhận trả giá cao hơn: luật của Pháp nói rằng người bán trong trường hợp này cũng đã lừa dối, nhưng không phải để dẫn dụ người mua đi đến chỗ giao kết hợp đồng mà chỉ để tìm cách đưa vào hợp đồng, mà nội dung đã được thống nhất về cơ bản, một điều khoản có lợi cho mình; người mua trong trường hợp này chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không thể xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Có vẻ như đây không phải là giải pháp được xây dựng trong luật Việt Nam: sự ưng thuận của người kết ước trong luật Việt Nam, dù chỉ không hoàn hảo ở một vài điểm thuộc nội dung chủ yếu của hợp đồng, cũng là sự ưng thuận không hoàn hảo đối với toàn bộ hợp đồng. Tóm lại, để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây:  Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên.  Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó.  Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một bên đưa ra mà giao kết hợp đồng. Và bốn là, phải có thiệt hại xảy ra. 2.2.5.2 Hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa  Sự đe dọa Ðịnh nghĩa. Theo BLDS Ðiều 132: “Đe dọa trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. So với qui định của Bộ luật dân sự Việt Nam 1995: “Đe doạ trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên làm cho bên kia sợ hãi mà phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của những người thân thích”. Bộ luật dân sự hiện hành đã dự liệu thêm hành vi đe doạ của người thứ ba buộc bên kia phải giao kết hợp đồng, nhưng đã cụ thể hơn những người thân thích thành cha, mẹ, vợ, chồng, con. Thực tế mà nói, tình cảm của người dành cho người chưa hẳn đã là thân thích hay ruột thịt mới có. Luật Việt Nam hiện hành có qui định cụ thể những điều cấm công dân làm, vậy theo tinh thần của luật, những điều luật không cấm, tức không qui định thì công dân có thể thực hiện. Nếu A buộc B phải tiến hành giao kết hợp đồng với mình bằng cách đe doạ đến tính mạng của C, mà C là người mà B rất yêu thương nhưng không phải là cha, mẹ, vợ, chồng, con. Trong trường hợp này phải xét theo tinh thần của của Điều 132 mà bảo vệ cho B và C, hợp đồng được xác lập trong trường hợp này không xuất phát từ sự tự nguyện, tự do ý chí của B nên sẽ bị tuyên là vô hiệu. SV: Nguyễn Như Dạ Ngọc GVHD: Nguyễn Mai Hân Luận văn tốt nghiệp Đại học 26 Luật dùng từ “thực hiện”, nhưng ta có thể nghĩ đến việc “xác lập”: một giao dịch xác lập không phải dưới sự đe dọa không thể bị tuyên bố vô hiệu vì lý do người xác lập bị đe dọa phải thực hiện. Ví dụ: một hợp đồng mua bán tài sản được giao kết một cách tự nguyện; người mua trì hoãn việc trả tiền; người bán dọa sẽ giết người mua, nếu người mua vẫn không trả tiền; người bán sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người, nhưng người mua không thể xin tuyên bố hợp đồng mua bán vô hiệu vì lý do có sự đe dọa của người bán nhằm đốc thúc người mua thực hiện nghĩa vụ trả tiền, một nghĩa vụ được xác lập đúng luật trong khuôn khổ hợp đồng. Người mua cũng không thể xin miễn thực hiện nghĩa vụ trả tiền do đã bị đe doạ (một cách không chính đáng). Ðiều kiện của sự đe dọa (1)  Sự tiềm ẩn của hiểm hoạ. Nếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đã thực hiện các biện pháp nhằm gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,... hoặc nhằm đưa nạn nhân vào tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mình (say ma túy, say rượu…) để nạn nhân chấp nhận giao kết hợp đồng, thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuận không hoàn hảo mà do hoàn toàn không có sự ưng thuận. “Ðe dọa”, trong khung cảnh của Ðiều 132, được hình dung như một hành vi có tác dụng dẫn dắt ý chí của người bị đe dọa đi theo ý chí của người đe dọa, mà, người bị đe dọa, dù không muốn, không thể (hoặc không dám) cưỡng lại. Nói rõ hơn, đe dọa, ở góc nhìn của người bị đe dọa, hình thành từ hai yếu tố: một yếu tố khách quan - mối nguy hiểm bủa vây - và yếu tố chủ quan - nỗi sợ. Chính dưới sự đe dọa đó mà ý chí được bày tỏ của người bị đe dọa không thể phản ánh trung thực ý chí nội tâm của người này (Điều 132 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005)  Người đe doạ. Luật nói rằng “Ðe dọa... là hành vi cố ý của một bên”. Thoạt trông, điều đó có nghĩa rằng, cũng như việc lừa dối, việc đe dọa phải xuất phát từ bên kết ước hoặc xuất phát từ sự đe dọa của người thứ ba. Song, có thể tin rằng “một bên” và “bên kia”, nói trong định nghĩa về đe dọa tại Ðiều 132 là các bên trong quan hệ đe dọa chứ không phải các bên trong giao dịch dân sự xác lập dưới sự đe dọa. Với cách hiểu đó, thì đe dọa có thể là hành vi của bất kỳ người nào, không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người bị đe dọa.  Tính chất của sự đe doạ. Sự đe dọa phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận (miễn cưỡng) của người bị đe dọa, nghĩa là người

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCamp193C TR4317900NG H7906P Vamp212 HI7878U C7910A H7906P 2727890NG THamp.PDF