MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.1.1. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất đai
1.1.2. Khái niệm chế độ quản lý nhà nước về đất đai
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai
1.1.4. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
1.2. Một số vấn đề lý luận về việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai
1.2.1. Khái quát về phân cấp - phân quyền trong quản lý hành chính nhà nước
1.2.2. Cơ sở lý luận của việc xác lập mối quan hệ quyền lực nhà nước giữa chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương
1.2.3. Phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai
Chương II: VẤN ĐỀ PHÂN QUYỀN MẠNH CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Sự phân quyền trong hoạt động quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
2.2. Sự phân quyền trong hoạt động giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
2.2.1. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Chính phủ
2.2.2. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
2.2.3. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
2.2.4. Thẩm quyền cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
2.3. Sự phân quyền trong hoạt động thu hồi đất
56 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4313 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các vấn đề pháp lý về phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ai nhưng phân cấp rõ chức năng quản lý đất đai mang tính vi mô cho các địa phương. Điều này tạo cho chính quyền địa phương tính chủ động sáng tạo, ứng phó với những biến động về đất đai và kịp thời đưa ra các giải pháp nhằm xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình quản lý. Ví dụ: ở thành phố Hà Nội nơi có mật độ dân cư đông, tập trung nhiều khu công nghiệp thì diện tích đất nông nghiệp bị chuyển sang sử dụng vào mục đích khác ngày càng gia tăng. Vì vậy,Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phải nắm việc giao đất nông nghiệp, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác.
Một ví dụ khác cho thấy được lợi ích của việc phân cấp mạnh thẩm quyền giao đất cho Uỷ ban nhân dân các địa phương. Dự án đường Hồ Chí Minh đi qua địa phận tỉnh nào thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đó có thẩm quyền giao đất và chịu trách nhiệm thực hiện việc giải toả, bồi thường, bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư. Kết qủa thực hiện cho thấy, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đường Hồ Chí Minh đi qua đã tích cực, chủ động thực hiện việc giao đất khẩn trương tiến hành việc giải toả, bồi thường thiệt hại dứt điểm cho dân và nhanh chóng bàn giao mặt bằng cho các đơn vị thi công theo đúng tiến độ. kế hoạch đề ra, tiết kiệm đáng kể thời gian, công sức và tiền của cho nhà nước cũng như cho người dân.
Mặt khác, phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương đảm bảo được sự quản lý vĩ mô của cấp Trung ương. Bởi lẽ, một trong các nguyên tắc hoạt động cơ bản của bộ máy nhà nước ta là nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc phân quyền mạnh cho các cấp chính quyền địa phương không có nghĩa là các cơ quan Trung ương buông lỏng công tác quản lý tập trung thống nhất hay quan liêu xa rời cơ sở. Trái lại. dựa trên nguyên tắc quản lý tập trung thống nhất mà phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan Trung ương và các cơ quan địa phương. Các cơ quan Trung ương không làm thay các cơ quan địa phương. Qua đó, sẽ giúp các cơ quan quản lý ở Trung ương giành thời gian cho công tác chỉ đạo, điều hành mang tầm vĩ mô.
Hơn nữa, phân quyền mạnh về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho các cấp chính quyền địa phươg sẽ nâng cao ý thức trách nhiệm của các cơ quan này. Chính quyền địa phương là cấp gần dân, trực tiếp giải quyết mọi yêu cầu của dân trong lĩnh vực đất đai. Đây cũng là cơ quan trực tiếp lắng nghe mọi ý kiến, nguyện vọng và đề xuất của nhân dân về chế độ, chính sách, pháp luật đất đai của nhà nước. Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về đất đai góp phần vào công cuộc cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai vì nếu chính quyền địa phương có đủ thẩm quyền thì họ sẽ giải quyết các vấn đề phát sinh tại cơ sở. Người dân sẽ không phải mất nhiều thời gian đi “gõ cửa” các cơ quan cấp trên yêu cầu giải quyết.
Tóm lại, việc phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương góp phần đưa lại những hiệu quả thiết thực, phù hợp với yêu cầu quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, phân quyền cho chính quyền địa phương trong quản lý đất đai phải dựa trên sự bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, không có sự tách rời, sự “ly khai” trong quản lý của các cơ quan địa phương với Trung ương mà sự hoạt động của chính quyền địa phương phải luôn luôn đặt dưới sự quản lý, điều hành thống nhất của Trung ương. Phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương tức là phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan quản lý đất đai ở địa phương giúp các cơ quan này chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta./.
Chương II
Vấn đề phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.1 Sự phân quyền trong hoạt động quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Quy hoạch đất đai là sự tính toán, phân bổ đất đai cụ thể về số lượng, chất lượng, vị trí không gian cho phù hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kì trên cơ sở khoa học và thực tế bảo đảm cho việc sử dụng đất phù hợp với các điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và từng ngành sản xuất.
Kế hoạch đất đai là việc xác định các biện pháp, thời gian để sử dụng đất theo quy hoạch. Cho nên quy hoạch đất đai bao giờ cũng gắn với kế hoạch đất đai. Nó đảm bảo cho việc sử dụng đất đai hợp lí, tiết kiệm, tạo điều kiện để Nhà nước theo dõi, giám sát quá trình sử dụng đất.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động quy hoạch và kế hoạch đất đai ở chỗ quy định trách nhiệm của mỗi cơ quan Nhà nước, mỗi ngành, mỗi đơn vị trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đồng thời đảm bảo cho các quy hoạch, kế hoạch đó có hiệu lực pháp luật trong thực tế.
Nhằm đảm bảo cho quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai được xác lập và thực hiện thống nhất trong cả nước, luật đất đai 1993 đã đề cập một cơ chế trong việc lập, phê chuẩn và xét duyệt quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất (Điều 18, luật đất đai 1993 quy định về thẩm quyền xét duyệt quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đai). Tuy nhiên, quy định này mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, chưa đề cập cụ thể việc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Chính phủ và Quốc hội trong từng thời kỳ, chưa gắn kế hoạch phát triển kinh tế xã hội với kế hoạch sử dụng đất đai. Luật sửa đổi bổ sung 2001 ra đời quy định cụ thể hơn về thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Quốc hội và Chính phủ. Mặc dù vậy, nó vẫn không đề cập cụ thể thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân các cấp trong lĩnh vực này mà chỉ xác định rất khái quát là: “Uỷ ban nhân dân cấp trên xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của Uỷ ban nhân dân cấp dưới trực tiếp”.Điều này không tạo điều kiện cho Uỷ ban nhân dân các cấp chủ động trong việc quy hoạch đất đai nhằm phục vụ phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Khắc phục những bất cập trên, Điều 25 Luật đất đai 2003 đề cập đến việc lập quy hoạch, kế hoạch quy định:
1. Chính phủ tổ chức việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của cả nước.
2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.
3. Uỷ ban nhân dân huyện thuộc tỉnh tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của thị trấn thuộc huyện.
Uỷ ban nhân dân huyện, quận thuộc thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban nhân dân thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các đơn vị hành chính cấp dưới, trừ trường hợp quy định tại khoản 4.
4. Uỷ ban nhân dân xã không thuộc khu vực quy hoạch phát triển đô thị trong kỳ quy hoạch sử dụng đất tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.
5. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của xã, phường, thị trấn được lập chi tiết gắn với thửa đất (gọi là quy hoạch, sử dụng đất chi tiết); trong quá trình lập quy hoạch sử dụng đất chi tiết, cơ quan tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch sử dụng đất phải lấy ý kiến đóng góp của nhân dân.
Kế hoạch sử dụng của xã, phường, thị trấn được lập chi tiết gắn với thửa đất (gọi là kế hoạch sử dụng đất chi tiết).
6. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trước khi trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
7. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải được trình đồng thời với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, lần đầu tiên luật đất đai 2003 đã phân định rõ quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều này thể hiện một quan điểm mới của Nhà nước ta trong quản lý đất đai là quan tâm hướng về cơ sở, tạo điều kiện cho Uỷ ban nhân dân các địa phương có đủ quyền hạn để quản lý tốt quỹ đất đai phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hơn nữa, quy định cụ thể thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân các cấp đã xác định rõ hơn thẩm quyền xét duyệt quy hoạch đất đai, khắc phục tình trạng chồng chéo thẩm quyền trong lĩnh vực này ở địa phương. Bên cạnh đó, còn xác lập được sự phối hợp đồng bộ, thống nhất dựa trên sự phân cấp, phân quyền giữa các cấp chính quyền trong quản lý Nhà nước về đất đai. Các cấp chính quyền địa phương sẽ nhận thức rõ nhiệm vụ của mình, từ đó sẽ tích cực, chủ động và sáng tạo trong xây dựng, quyết định xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Với cơ chế được luật đất đai 2003 xác lập thì quá trình xây dựng, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai vừa đảm bảo sự tập trung thống nhất, vừa quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ giữa Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác lập, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai.
2.2. Sự phân quyền trong hoạt động giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Giao đất, cho thuê đất là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm để chuyển giao trên thực tế đất và quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
Chuyển mục đích sử dụng là quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng đất xin thay đổi mục đích sử dụng đất so với bản đăng ký sử dụng đất ban đầu cho phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh.
Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất là một nội dung quan trọng nhằm thực hiện quyền định đoạt đất đai của Nhà nước - đại diện chủ sở hữu. Trên thực tế, vốn đất đai của quốc gia thì có hạn nhưng nhu cầu sử dụng đất của xã hội lại ngày càng lớn. Để giải quyết mâu thuẫn này và đáp ứng các nhu cầu về đất đai của xã hội, Nhà nước phải thực hiện việc bố trí lại đất đai đảm bảo sự hợp lý và công bằng. Các quy định về giao đất, cho thuê đất được đề cập đến trong luật đất đai 1993 và luôn được sửa đổi bổ sung, hoàn thiện để đảm bảo sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, đồng thời giảm thiểu các thủ tục hành chính rắc rối, phiền hà trong lĩnh vực này.
2.2.1 Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Chính phủ.
Luật đất đai 1993 quy định thẩm quyền giao đất tập trung chủ yếu ở Chính phủ, dẫn đến tình trạng trên thực tế Chính phủ phải giải quyết nhiều công việc mang tính chất sự vụ mà không có điều kiện để tập trung vào việc chỉ đạo, điều hành công tác quản lý đất đai thống nhất trong cả nước. Cụ thể, Điều 23 luật đất đai 1993 quy định Chính phủ có thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mọi mục đích trong trường hợp cần thiết. Quy định này làm nảy sinh những bất hợp lý sau đây:
Thứ nhất, Chính phủ vừa là người xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vừa là người có thẩm quyền giao đất. Điều này dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”. Hơn nữa, Chính phủ sẽ mất nhiều lần xem xét việc quyết định giao đất.
Thứ hai, pháp luật đất đai không có quy định cụ thể hoá “giao đất trong trường hợp cần thiết” là những trường hợp cụ thể nào. Với quy định này, người đọc sẽ có thể hiểu là Chính phủ sẽ giao đất trong mọi trường hợp mà không có cơ sở phân định rõ ràng nếu chỉ dựa vào sự cần thiết. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự tuỳ tiện trong việc giao đất của Chính phủ. Hơn nữa, quy định kiểu này làm cho các chủ thể sử dụng đất khó khăn khi làm thủ tục xin giao đất, thuê đất.
Nhận thức được sự bất cập này, đồng thời thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về cải cách thủ tục hành chính trong việc giao đất, cho thuê đất, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai năm 2001 đã phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho Uỷ ban nhân dân các địa phương trong quản lý Nhà nước về đất đai. Vì vậy, Điều 23 đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích không phải sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối thì thẩm quyền giao đất của Chính phủ được quy định như sau:
- Giao đất có thu tiền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án.
- Giao đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh.
Ngoài ra, Chính phủ sẽ quyết định cho thuê đất đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất để thực hiện các dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng từ 5 ha trở lên đối với đất đô thị và từ 50 ha trở lên đối với các loại đất khác.
Như vậy, khi xác định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Chính phủ đối với các tổ chức, cá nhân trong nước, luật đất đai sửa đổi 2001 không đưa ra mức đất khống chế cụ thể cho từng dự án, từng công trình. Và trước đây, nếu mọi trường hợp giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài đều tập trung vào Chính phủ thì hiện nay thẩm quyền này đã được giao bớt cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (điều 80, luật đất đai sửa đổi 2001). Đây là một cải cách lớn trong việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất. Mặt khác, từ việc quy định cho Chính phủ có thẩm quyền giao đất vào mọi mục đích trong trường hợp cần thiết của luật đất đai 1993 đến việc thu hẹp bớt thẩm quyền giao đất của Chính phủ xuống chỉ còn giao đất trong ba trường hợp được xác định trong luật đất đai 2001 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Nhà nước ta trong việc phân cấp mạnh thẩm quyền giao đất cho Uỷ ban nhân dân các địa phương, góp phần cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai.
Quá trình cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai nhằm giảm bớt các công việc mang tính chất sự vụ của Chính phủ, đồng thời phân quyền mạnh hơn nữa cho các cấp chính quyền địa phương được tiếp tục thực hiện trong luật đất đai 2003. Theo điều 37 luật đất đai 2003, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất được giao hết cho Uỷ ban nhân dân các cấp và Chính phủ không đảm nhiệm các chức năng này nữa.
Sự ra đời của luật đất đai 2003 cơ bản đã hoàn thành quá trình phân cấp về thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho Uỷ ban nhân dân các cấp. Chính phủ không còn phải thực hiện những công việc giao đất mang tính sự vụ mà tập trung vào việc quản lý, điều hành công tác quản lý đất đai ở tầm vĩ mô. Công tác giao đất, cho thuê đất sẽ được thực hiện nhanh chóng hơn đáp ứng nhu cầu sử dụng đất cho sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư, giảm bớt các thủ tục hành chính đất đai không cần thiết. Đồng thời, đề cao trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc quản lý đất đai ở địa phương. Chính phủ vẫn có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân các cấp thông qua công tác xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, công tác thanh tra, kiểm tra đất đai.
2.2.2. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan quản lý đất đai giữ vị trí và vai trò quan trọng ở địa phương, có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trong phạm vi địa phương mình quản lý.
Luật đất đai 1993 căn cứ vào quy mô, diện tích để xác định thẩm quyền giao đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong các trường hợp giao đất để sử dụng vào mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Quy định này đã hạn chế rất nhiều đến thẩm quyền giao đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được quyền giao đất với diện tích nhỏ không đáp ứng được nhu cầu của các dự án đầu tư đòi hỏi sử dụng diện tích đất lớn hơn đang triển khai tại địa phương. Điều này đã làm ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư của các dự án hoặc bỏ lỡ các cơ hội thu hút đầu tư của các địa phương. Khắc phục hạn chế này, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã tăng cường thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Theo khoản 2, điều 23 - Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất không phải là sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp cho các đối tượng sau:
- Tổ chức sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nội thành và nội thị xã.
Theo Khoản 1, Điều 24: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối cho các tổ chức kinh tế sử dụng đất.
Như vậy, căn cứ để xác định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là đối tượng sử dụng đất chứ không phải diện tích đất được giao. Việc xác định căn cứ giao đất như vậy là phù hợp với thực tế quản lý và sử dụng đất đai.
Đặc biệt, theo điều 80 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 2001 thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sẽ còn có thẩm quyền quyết định cho thuê đất cho các trường hợp sau:
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác có chức năng ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.
- Cơ quan đại diện các tổ chức của Liên hợp quốc; cơ quan, tổ chức liên Chính phủ; cơ quan đại diện của tổ chức liên Chính phủ tại Việt Nam.
Quy định trên đã hợp pháp hoá thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất mà trước đó thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Một trong những vấn đề lần đầu tiên được luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đề cập là quy định thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Quy định này ra đời dựa trên nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nhằm chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để hình thành một nền sản xuất hàng hoá ở nước ta. Vấn đề này được quy định như sau:
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất cho các hộ gia đình, tổ chức kinh tế, cá nhân sử dụng đất ở nội thành, nội thị xã chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất làm muối, đất ở, đất chuyên dùng sang sử dụng vào mục đích khác.
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất cho các tổ chức kinh tế sử dụng đất chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp trồng lúa nước sang nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm hoặc chuyển từ đất trồng cây lâu năm sang trồng cây hàng năm.
Mặc dù luật đất đai sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã có những quy định mới nhằm phân quyền cho Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất song mới chỉ dừng lại ở việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất ở một số nhóm đối tượng sử dụng đất là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân. Vấn đề này tiếp tục được thực hiện mạnh mẽ trong luật đất đai 2003. Theo đó, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không chỉ có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà còn có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt nam định cư ở nước ngoài. Cụ thể tại Điều 37 Luật đất đai 2003: “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất đối với các cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất, đối với người Việt nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài”. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ động thực hiện việc giao đất, phục vụ kịp thời cho việc triển khai các dự án đầu tư trên phạm vi lãnh thổ mình quản lý. Thời gian qua, Nhà nước đã thử nghiệm trao thẩm quyền giao đất, đền bù giải phóng mặt bằng cho việc thực hiện dự án trọng điểm quốc gia xây dựng đường Hồ Chí Minh cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh địa phương thực hiện đem lại hiệu quả tốt đã chứng minh tính đúng đắn của chủ trương này.
2.2.3. Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Không chỉ Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh mà Uỷ ban nhân dân cấp huyện cũng được Nhà nước trao thẩm quyền thực hiện quyền định đoạt đất đai của chủ sở hữu thông qua việc giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Khoản 2 - Điều 24 luật đất đai 1993 quy định về thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp của cấp huyện. Theo đó, “Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất cho hộ gia đình.”. Như vậy, Uỷ ban nhân dân cấp huyện chỉ giới hạn giao đất cho cá nhân hộ gia đình sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp. Sự phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất được tiến hành mạnh mẽ khi luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 ra đời.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 đã phân định cụ thể thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Theo đó, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không chỉ bó hẹp ở trường hợp cho hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp mà được mở rộng cho các trường hợp hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng vào mục đích khác.
Một điểm cần chú ý, trong các quy định của luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 là quy định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân quận. Trước đây, theo quy định của luật đất đai 1993, Uỷ ban nhân dân quận không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất. Đến khi luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 ra đời đã bổ sung quy định cho phép Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông lâm nghiệp, làm muối. Sở dĩ pháp luật đất đai bổ sung thẩm quyền giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích nông nghiệp của Uỷ ban nhân dân quận là xuất phát từ tình hình thực tế quá trình “đô thị hoá” đang diễn ra nhanh chóng tại các đô thị lớn ở nước ta. Nhiều quận mới được hình thành từ những khu vực vùng ven của những thành phố lớn. Do đó, ở các quận mới được hình thành vẫn còn tồn tại một bộ phận lớn người sản xuất nông nghiệp và còn nhiều diện tích đất nông nghiệp. Việc chuyển đổi mục đích sản xuất này phải diễn ra trong nhiều năm phụ thuộc vào quá trình phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, nếu không quy định cho Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì sẽ gây xáo trộn đến việc sản xuất của người dân và gây ách tắc trong quản lý đất đai.
Không chỉ quy định cho Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 còn cho phép Uỷ ban nhân dân quận có thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp trồng lúa nước sang nuôi trồng thuỷ sản, trồng cây lâu năm hoặc chuyển từ đất nông nghiệp trồng cây lâu năm sang trồng cây hàng năm.
Tuy vậy, thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân quận chưa triệt để, chỉ ở mức độ nhất định. Mặc dù quận là cấp hành chính tương đương huyện nhưng do tính chất là đơn vị hành chính trong đô thị nên phần lớn thẩm quyền thuộc về Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Việc phân cấp thẩm quyền giao đất, cho thuê đất tiếp tục được hoàn thiện bằng quy định của luật đất đai 2003: “Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân, giao đất đối với cộng đồng dân cư” (Khoản2, Điều 37).
2.2.4. Thẩm quyền cho thuê đất của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở trực tiếp quản lý đất đai. Do đó, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn là người nắm rõ hiện trạng sử dụng đất và những biến động đất đai của địa phương mình. Mặc dù là một cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai nhưng Uỷ ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất.
Luật đất đai 1993 không quy định cho Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất. Tuy nhiên, khi Nghị định 64/CP được ban hành quy định cho mỗi xã được để lại một tỷ lệ đất không quá 5% tổng diện tích đất nông nghiệp của toàn xã để sử dụng cho mục đích công ích của địa phương thì nảy sinh một vấn đề là nếu địa phương chưa có nhu cầu sử dụng diện tích đất này vào mục đích công ích thì hộ gia đình, cá nhân có được phép thuê để sản xuất nông nghiệp không? Để trả lời câu hỏi này, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai 2001 và luật đất đai 2003 đã hợp pháp hoá quyền cho thuê đất công ích của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Như vậy, chúng ta thấy rằng, sự phân cấp thẩm quyền cho thuê đất công ích của Uỷ ban nhân dân cấp xã được thực hiện thông qua một quá trình phát triển xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn. Từ chỗ, Uỷ ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất trong luật đất đai 1993 đến việc quy định cho Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cho thuê đất công ích để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp của luật đất đai 2003.
Như vậy, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung luật đất đai thì vấn đề giao đất, cho thuê đất được quan tâm và là trọng điểm của các lần sửa đổi, bổ sung. Mỗi lần sửa đổi là một bước tăng cường phân cấp mạnh cho Uỷ ban nhân dân các cấp địa phương trong việc giao đất, cho thuê đất để địa phương chủ động triển khai các dự án đầu tư, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất. Cho đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (121).DOC