LỜI CAM ĐOAN.i
LỜI CẢM ƠN.ii
MỤC LỤC .iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.iv
DANH MỤC KÊNH HÌNH .v
DANH MỤC KÊNH SỐ .v
MỞ ĐẦU.1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của đề tài.2
3. Tổng quan lịch sử nghiên cứu .2
4. Quan điểm nghiên cứu.4
5. Phương pháp nghiên cứu .5
6. Đóng góp của đề tài .6
7. Kết cấu luận văn .6
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .7
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CMCN 4.0 .7
1.1. Cơ sở lí luận.7
1.1.1. Nhận thức chung.7
1.1.2. Cách mạng công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của một
quốc gia.10
1.2. Cơ sở thực tiễn.13
1.2.1. CMCN 4.0 trong một thế giới thay đổi .13
1.2.2. Nhận diện các tiên đề vật chất để tiếp cận CMCN 4.0 ở Việt Nam.22
Tiểu kết Chương 1 .26
Chương 2. TÌNH HÌNH CMCN 4.0 MỘT SỐ NƯỚC VÀ KHU VỰC
TRÊN THẾ GIỚI .27
2.1. Châu Âu và cuộc CMCN 4.0.27
2.2. Một số nước đi tiên phong trong CMCN 4.0 .31
2.2.1. Hoa kì .31
2.2.2. Đức.33
2.2.3. Trung quốc.36
111 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 752 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cách mạng công nghiệp 4.0 cơ hội và thách thức với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pore, với ưu đãi về thu nhập,
nhằm phát triển nền kinh tế tri thức của Singapore.
Ở Singapore, doanh nghiệp được tham gia vào các nghiên cứu từ khâu
đầu tiên và theo sát trong quá trình nghiên cứu, nhất là phần đánh giá, nghiệm
thu kết quả. Có như thế, họ mới đủ tin tưởng để triển khai các kết quả này ra
thực tiễn kinh doanh. Nổi bật nhất là phát triển các nghiên cứu về xử lý nước.
Ngày nay, công nghệ xử lý nước của Singapore được coi là dẫn đầu thế giới.
Cũng vì thế, năng lực đổi mới sáng tạo của Singapore đạt mức rất cao trong
bảng xếp hạng toàn cầu, luôn duy trì ở trong top 10 quốc gia dẫn đầu.
2.4. Sự sẵn sàng của các nước ASEAN đối với cuộc CMCN 4.0
2.4.1. Cộng đồng ASEAN
Trước sự tác động lan tỏa của CMCN 4.0, các nước ASEAN nhận thấy
sự cần thiết phải sẵn sàng đón nhận cơ hội và thách thức trước tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp mới này đến các nước phát triển, đặc biệt từ Đức
và Hàn Quốc. Ngày 24/4/2017 các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí đồng thuận
chỉ đạo các nước thành viên thực hiện với kì vọng CMCN 4.0 đem lại những cơ
hội cho cả cộng đồng ASEAN nhờ những yếu tố nền tảng như IoT. AI /
BigData, BigChain, in 3D, robot, điện toán đám mây.
Trên thực tế, một bộ phận của CMCN 4.0 đã bắt đầu tác động đến
ASEAN tại Malayxia, Philippin, Thái Lan. Nổi bật nhất là Singapo với Chiến
lược xây dựng quốc đảo thông minh và kết nối trực tiếp với Mĩ, một nước có
nền kinh tế sáng tạo và đang đẩy mạnh trong CMCN 4.0.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
Bảng 2.1: Xếp hạng GII 2017 của các nước ASEAN được xếp hạng
STT Các nước ASEAN được xếp hạng 2014 2015 2016 2017
1 Singapo 7 7 6 7
2 Malaixia 33 32 35 37
3 Việt Nam 71 52 59 47
4 Thái Lan 48 55 52 51
5 Philippin 100 83 74 73
6 Indonesia 87 97 88 87
7 Campuchia 106 91 95 101
Nguồn: GCI 2014, 2015, 2016, 2017, WIPO
ASEAN phải làm gì để tận dụng lợi thế của cuộc CMCN 4.0?
ASEAN với dân số 630 triệu người và độ tuổi trung bình chỉ 25 tuổi
có lực lượng lao động trẻ. Trong Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về
ASEAN (WEF ASEAN 2018) vừa được tổ chức tại Hà Nội, các nhà lãnh đạo
của khu vực đã tuyên bố: "CMCN 4.0 là cơ hội và động lực để ASEAN trở
thành khu vực kinh tế lớn thứ tư trên thế giới vào năm 2030, chỉ sau Mỹ,
Trung Quốc và EU.
Vậy, ASEAN nên làm gì để có được những lợi thế vượt trội do CMCN
4.0 mang lại? Để hiện thực hóa tuyên bố của các nhà lãnh đạo, ban đầu, các
quốc gia thành viên ASEAN nên kết nối với nhau trên tinh thần của những
người làm việc cùng nhau, cùng nhau phát triển".
Đầu tiên, CMCN 4.0 là cuộc cách mạng Internet với sự bùng nổ của các
sản phẩm xuyên biên giới. ASEAN cần phát triển một cơ chế chung cho phép
việc áp dụng chính sách sandbox (thử nghiệm để tự phát triển trong phạm vi
không gian và thời gian nhất định) cho các sản phẩm 4.0 và các mô hình kinh
doanh mới. Châu Âu có một mô hình tương tự. Đó là Nền tảng Sáng kiến Quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
gia Châu Âu, Trong đó, mỗi sản phẩm 4.0 sẽ được thử nghiệm trong các môi
trường chính sách khác nhau, ở các quốc gia khác nhau dưới dạng sandbox.
Thứ hai, ASEAN cần tạo ra một thị trường chung dựa trên sự tương đồng
về văn hóa và kết nối địa lý để đưa các sản phẩm 4.0 vào thực tiễn. Ví dụ, các
quốc gia trong khu vực sông Mê Kông, nơi có nhiều cảnh quan đẹp, vùng đất
màu mỡ, người dân thông minh, chăm chỉ và kết nối giao thông tốt, có thể cùng
nhau tạo ra một khu vực Mekong 4.0.
Trong khu vực này, chính phủ sẽ tập trung phát triển các công nghệ mới
để áp dụng trong ngành nông nghiệp, du lịch, hậu cần và CNTT. Đây là những
ngành mà các nước khu vực sông Mê Kông có lợi thế.
Thứ ba, ASEAN phải có một số doanh nghiệp lớn, dẫn đầu về CMCN
4.0 trong khu vực. Những doanh nghiệp này cần được cung cấp với điều kiện
thuận lợi để phát triển ở cấp khu vực. Một số nước ASEAN đã có thể phát triển
các giải pháp và sản phẩm công nghiệp 4.0 và đạt được thành công tại quốc gia
của họ. Và từ đây, họ phải mở rộng kinh doanh tại thị trường khu vực, các
doanh nghiệp ASEAN này sẽ phát triển lớn hơn. Grab là một ví dụ điển hình.
Cuối cùng, để tận dụng cơ hội tuyệt vời này, các nước ASEAN phải
chung tay với tinh thần "cùng làm việc, cùng phát triển" để tạo ra một ASEAN
kỹ thuật số: Một thị trường chung ASEAN, Một khung chính sách ASEAN cho
CMCN 4.0, Một ASEAN roaming chung giá cước, Một trường đại học ICT
ASEAN, Một trung tâm đổi mới ASEAN, Một trung tâm an ninh mạng
ASEAN, v.v. [25 (iii)}.
2.4.2. Sự sẵn sàng bứt phá của Việt Nam trước CMCN 4.0
Rất lấy làm tiếc tại Báo cáo của WEF, Việt Nam đứng ở mức thấp nhất
theo các chỉ số tiếp cận CMCN 4.0. Qua đó người ta có thể nghĩ rằng Việt Nam
chưa thật sẵn sàng CMCN 4.0. (Bảng 2.1 / 2.2). Tại Bảng 2.1 là thứ hạng trên
100 quốc gia, thứ hạng càng thấp thì ngôi vị càng cao và ngược lại. Bảng dưới
đây trích ra vài số liệu (thứ hạng tính trên 100 quốc gia) liên quan đến giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
và khoa học. Về phẩm chất đại học, Việt Nam đứng hạng 75/100 (thực ra, điểm
là 0), trong khi đó Malaysia và Indonesia, thậm chí Philippines cũng hơn Việt
Nam về điểm này.
Cũng không có gì đáng ngạc nhiên ngay cả về phẩm chất giáo dục khoa
học và toán học Việt Nam cũng đứng hạng 68/100 (điểm chỉ 3.7), thấp hơn tất
cả các nước cùng trình độ trong vùng như Thái Lan (hạng 66/100), Malaysia
(16), Indonesia (35) và Philippines (60)
Bảng 2.2: So sánh thứ hạng các tiểu chỉ số ĐMST của Việt Nam qua các
năm 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017
2013 2014 2015 2016 2017
(vị trí từng tiểu chỉ số/141
nước và vùng lãnh thổ)
(vị trí từng tiểu
chỉ số/128 nước
và vùng lãnh thổ)
(vị trí từng tiểu
chỉ số/127 nước
và vùng lãnh thổ)
Nhóm tiểu chỉ số đầu
vào của ĐMST
89 100 78 79 71
1. Thể chế/Tổ chức 122 121 101 93 87
2. Nguồn nhân lực,
nghiên cứu
98 89 78 74 70
3. Cơ sở hạ tầng 80 99 88 90 77
4. Trình độ phát triển
của thị trường
73 92 67 64 34
5. Trình độ phát triển
kinh doanh
67 59 40 72 73
Nhóm tiểu chỉ số đầu
ra của ĐMST
54 47 39 42 38
6. Đầu ra công nghệ và
tri thức
51 49 28 39 28
7. Đầu ra sáng tạo 66 58 62 52 52
Tỷ lệ hiệu quả ĐMST 17 5 9 11 10
Chỉ số ĐMST 76 71 52 59 47
Nguồn: GCI 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017, WIPO
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
Về chỉ số sáng tạo công nghệ và giáo dục Việt Nam đứng thứ hạng thấp
9/10. Tình hình cũng như vậy với các chỉ số về Công nghệ và Đổi mới
(Technology & Innovation) / Công nghệ nền (Technology Platform) / Năng lực
sáng tạo / Nguồn lực con người, tính trên 100 tương ứng 90/ 92 / 77/ 70.
Phải chăng bức tranh ảm đạm nói trên cản trở những ý chí quyết tâm
không bỏ lỡ cơ hội cuộc cách mạng lần này. Còn đó nỗi đau lịch sử vì bỏ qua
cơ hội các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó. Mọi người đều kì vọng
CMCN 4.0 đến với Việt Nam bằng sự cuốn hút về IoT/AI/BigData, điện toán
đám mây hay BlockChain. Vẫn biết chúng ta kém hơn các nước trong vùng về
chỉ số bằng sáng chế. Riêng công bố khoa học tính trên dân số Việt Nam cao
hơn Indonesia và Philippin. Về tỉ số bằng sáng chế tính trên dân số Việt Nam
cao hơn Indonesia và Philippines.
Dường như người Việt Nam hiểu rõ sự tác động của CMCN 4.0. Trên
khía cạnh khác của vấn đề, trong nhóm thành viên mới của ASEAN, gồm Việt
Nam/Lào/Campuchia/Myanma - gọi tắt là CLMV - cũng bắt đầu chú trọng
nâng cao năng lực chuẩn bị cho CMCN 4.0.
Đến năm 2020, Việt Nam sẽ hoàn thành xong DA chuyển đổi băng thông
rộng làm cơ sở triển khai Chính phủ điện tử/Thương mại điện tử/Phòng chống
thiên tai. Theo đó, 95% lãnh thổ sẽ được phủ sóng 3G/4G cũng như kết nối
băng thông rộng cố định cho hơn 40% hộ gia đình và thuê bao cá nhân. Cục
phát triển thị trường và doanh nghiệp KHCN đã tổ chức TECHFEST để tập
hợp các nhà phát minh sáng chế, doanh nhân, các nhà đầu tư, chuyên gia công
nghệ truyền thông. Với hơn 47 triệu USD dành cho nghiên cứu các yếu tố nền
tảng AI / IoT / BigChain.
Trong khuôn khổ hợp tác với các nước Phần Lan, Đức, Australia,
UNICEF, WB đang tiến hành thí điểm các chương trình thúc đẩy đổi mới sáng
tạo công nghệ hướng trọng tâm các doanh nghiệp khởi nghiệp và các lĩnh vực
quan trọng như nông nghiệp, ICT...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
Giờ đây, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện các sáng kiến CMCN 4.0 và sẵn
sàng hợp tác với các nước thành viên khác trong khu vực.
Về hoạch định chính sách, Việt Nam đang hợp tác với Diễn đàn kinh tế
thế giới để thành lập Trung tâm liên kết 4.0 có trụ sở tại Việt Nam. Việt Nam
mong muốn sự tham gia của tất cả các nước thành viên ASEAN vào trung tâm.
Đó là nền tảng “Do-tank”, thay vì “think-tank”. Các nước thành viên
ASEAN cũng có thể cử đại diện sang làm việc và tiến hành nghiên cứu tại
Trung tâm để phát triển khung chính sách cho các mô hình kinh doanh hoặc
công nghệ mới như thanh toán di động, kinh tế chia sẻ hay dữ liệu mở.
Về cơ sở hạ tầng viễn thông, Việt Nam sẽ thử nghiệm 5G vào năm 2019
và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia khác trong việc phát triển
công nghệ 5G.
Trong chương trình Make in Vietnam, Việt Nam tập trung phát triển các
doanh nghiệp công nghệ và sản xuất các thiết bị IoT, thiết bị viễn thông,
Chipset 5G, camera giám sát,... Việt Nam sẵn lòng hợp tác với các nước trong
ASEAN để thành lập liên doanh và các nhà máy sản xuất sản phẩm CNTT-TT.
Đặc biệt, Việt Nam sẽ mở và chia sẻ tất cả các bí quyết công nghệ với
các quốc gia khác để tất cả các quốc gia thành viên ASEAN có thể làm chủ các
thiết bị đảm bảo an ninh mạng quốc gia.
Với chủ trương khi thế giới triển khai 5G thì Việt Nam cũng sẽ là một
trong những nước đầu tiên triển khai 5G, ngay từ đầu năm 2019, Bộ TT&TT đã
triển khai cấp phép tần số cho các doanh nghiệp để triển khai thử nghiệm 5G tại
Hà Nội và TPHCM. Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các nước thành viên
ASEAN khác, và các quốc gia đi tiên phong trong CMCN4.0, để triển khai 5G
và thúc đẩy chuyển đổi số. Khi cuộc Cách mạng Kỹ thuật số hay cuộc Cách
mạng Công nghiệp lần thứ 4 diễn ra, tương lai không cần phải nằm trên dòng
chảy của quá khứ. Với tư duy mới, phi truyền thống và không tuần tự, các nước
ASEAN sẽ có cơ hội. Cả chính phủ và doanh nghiệp đều cần một bước đột phá
về tư duy, trong hoạch định chính sách và phương pháp điều chỉnh [26 (iii)].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
Tiểu kết Chương 2
1. Với vai trò dẫn đầu CMCN 4.0, Liên minh Châu Âu có tham vọng lớn
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của toàn khối bằng việc đề ra
nhiều chương trình, DA đổi mới công nghệ hiện đại trên cơ sở và nguyên tắc
mới của nền công nghiệp AI / IoT. BigData. Đáng chú ý là Ba Lan, một thành
viên EU đã sớm nhận ra vai trò CMCN 4.0 bằng việc tập trung vào các ngành
có hàm lượng trí tuệ cao, đồng thời giảm dần sự phụ thuộc vào khai thác than,
sắt, muối khoáng và lao động với giá tương đối thấp.
2. Trong số các nước đi tiên phong trong CMCN 4.0, Mĩ luôn ở vị trí dẫn
đầu trong nền kinh tế sáng tạo. CMCN 4.0 sẽ giữ cho họ ở vị trí dẫn đầu thế
giới. Đức là quê hương của Công nghiệp 4.0 với việc thiết kế lại các quy trình
công nghệ trên nền tảng AI/IoT/ Điện toán đám mây. Nổi bật sau hai nước nói
trên là Trung Quốc với tham vọng chuyển đổi một Trung Quốc công xưởng thế
giới sang Trung Quốc chế tạo/thiết kế tầm cỡ thế giới trên nền tảng mới.
3. Trong số các nước công nghiệp phát triển và mới nổi như Anh, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapo đi đầu trong công nghiệp sáng tạo. Các nước đang
phát tiển mới nổi như Ấn Độ, Braxin, Mehico, Thổ Nhĩ Kì... đều có bước tiến
lớn trong phát triển nguồn nhân lực có chất lượng và trình độ cao.
4. Đi đầu trong lĩnh vực CMCN 4.0 ở Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan
với nhiều DA công nghệ trên nền tảng CPS với tham vọng cạnh tranh với ngay
cả các nước lớn như Mĩ, Nhật, Úc... Ở ĐNA là Singapor với Chương trình xây
dựng quốc đảo này có nền kinh tế thông minh. Theo hướng này, Malaixia, Thái
Lan, Indonesia, Việt Nam đang triển khai DA chuyển đổi số với mạng 5G và
phát triển kinh tế số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CMCN 4.0 Ở VIỆT NAM
3.1. Những cơ hội và thách thức từ CMCN 4.0 đối với Việt Nam
3.1.1. Cơ hội và thách thức
Đối với Việt Nam, một số ngành nghề ở Việt Nam trong cuộc CMCN
4.0 có thể bị tác động tiêu cực, như nhóm ngành năng lượng, công nghiệp chế
tạo, dệt may, điện tử. Một số lĩnh vực cũng có cơ hội tăng trưởng nếu đi đúng
hướng và bắt được nhịp, như du lịch, thương mại nội địa, ICT, giáo dục, y tế,
xây dựng, chính phủ điện tử. Vấn đề là kế hoạch tái cơ cấu phải phù hợp và
khách quan và phù hợp với xu thế mới. Trong bài phát biểu tại Hội thảo quốc tế
tại Việt Nam hồi tháng 11/2016, một quan chức của FPT cho rằng, cuộc
CMCN 4.0 mang tên “Cách mạng số” khiến diện mạo, cách ứng xử và phong
cách lao động của con người thay đổi theo.
Và theo khảo sát mới đây của Mỹ về sự phát triển kinh tế số trong tương
lai thì Việt Nam cũng được xếp vào nhóm nước “đột phá” khi có cơ hội lớn để
trở nên nổi bật về nền kinh tế số. Trước những cơ hội và thách thức của cuộc
CMCN 4.0, Việt Nam cần thúc đẩy hoạt động công nghệ sáng tạo, khuyến
khích khởi nghiệp nhằm tạo ra những thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng
kinh tế số và triển khai rộng rãi 5G.
CMCN 4.0 mở ra nhiều cơ hội cho các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển để nâng cao năng suất và rút ngắn khoảng cách phát triển. Tại buổi
triển lãm “Vietnam Manufacturing Expo (VME) 2017” với nội dung “Công
nghiệp sản xuất Việt Nam - hành trình hướng tới ngành công nghiệp 4.0”,
Giám đốc điều hành công ti ReedTradex (Thái Lan), cho rằng nhờ triển khai
CMCN 4.0 Việt Nam sẽ kì vọng giảm 3,6% chi phí sản xuất và tăng hiệu suất
4,1% / năm cho các doanh nghiệp do sự nhạy bén của các doanh nhân, sự thông
minh và lành nghề của công nhân lao động. Cuộc CMCN 4.0 là xu hướng phát
triển dựa trên nền tảng số hóa và kết nối, tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
đời sống KTXH, quá trình hội nhập quốc tế; đặc biệt khi Việt Nam triển khai
hiệp định thương mại tự do quy mô lớn như CPTPP, các FTA với các nước
châu Âu, Liên minh kinh tế Á - Âu...thì việc bắt kịp xu hướng mới, giúp nâng
cao hiệu quả của việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.[16 (iii)].
Tuy vậy, ở Việt Nam, CMCN 4.0 vẫn còn nằm ở dạng khái niệm, và
chính phủ, các doanh nghiệp hay người lao động vẫn chưa định hình chính xác
được sự tồn tại của cuộc cách mạng này trong quá trình phát triển của đất nước.
Và điều kiện cần để một quốc gia sẵn sàng đón nhận lực do sự lan tỏa của
CMCN 4.0 trong chiến lược tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên, khi chúng ta vẫn
chưa thực sự đi vào giai đoạn chín muồi của cuộc CMCN 4.0 thì việc chủ động
thay đổi chính sách phát triển cần nhiều thời gian để thích ứng. Ngoài ra, đối mặt
với CMCN 4.0 sẽ là vô vàn thách thức cho Việt Nam khi những yếu tố mà chúng
ta đang tự coi là ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không
còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa nghiêm trọng. Trong tương lai, ngành
nước ta có lợi thế về lao động như dệt may, sản xuất thực phẩm chế biến vốn là
nhưng ngành và lĩnh vực sản xuất sử dụng lao động, phù hợp với lợi thế tài
nguyên và lao đông, được thay thế bởi những lĩnh vực mà trí tuệ nhân tạo có thể
tác động tới. Không chỉ việc làm ở trong các ngành sản xuất bị ảnh hưởng ngay
cả với các công việc cần trí tuệ của con người như giáo dục, y tế, dịch vụ. Việt
Nam có lợi thế lớn về nguồn nhân lực cho tăng trưởng, nhưng chất lượng chưa
tương xứng với tốc độ tăng về quy mô, về mức độ hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Tuy nhiên, lao động chủ yếu ở khu vực nông thôn chưa được đào tạo
nghề và chuyên môn kĩ thuật. Bức tranh không mấy sáng sủa, nếu không nói là,
tiềm ẩn nhiều rủi ro do nhiều tiêu chí đang ở mức độ thấp lao động phổ thông
không có chuyên môn kĩ thuật/ lao động đã qua đào tạo nghề / lao động có trình
độ trung cấp chuyên nghiệp / lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên,
tương ứng 82,28 % / 4,84 % / 3.61 % / 8,26%. Đến năm 2016, con số này chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
giảm khoảng 3% tương ứng với số lao động không có CMKT chiếm đến 78,6%
lực lượng lao động, trong đó có đến hơn 37 triệu lao động ở nông thôn và hơn
17,5 triệu lao động ở thành thị. Cả nước chỉ có khoảng 10,9 triệu người có việc
làm, tương ứng với 20,6%, đã được đào tạo. Có sự chênh lệch đáng kể về tỉ lệ
lao động đang làm việc đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn, mức chênh
lệch này là 24,4% (thành thị là 37,2% và nông thôn là 12,8%). Tương tự như
vây, trong giai đoạn 2005-2015, mặc dù lao động làm việc trong lĩnh vực nông
nghiệp có giảm, nhưng vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất, nông nghiệp giảm từ 55,09%
năm 2005, xuống 45,19% năm 2015; lần lượt công nghiệp tăng từ 17,59% lên
21,78%; dịch vụ tăng từ 27,32% lên 33,03%. Điều này sẽ gây khó khăn cho Việt
Nam trước sự lan tỏa của CMCN 4.0.
3.1.2. Phương châm hành động: Bây giờ hoặc không bao giờ
Cần có phương châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”, vì cơ
hội chỉ đến một lần và không bao giờ quay lại. Đây là ý kiến của Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng tại Diễn đàn Cấp cao về Công nghệ
thông tin Việt Nam - VietNam ICT Summit 2018.[26(iii)].
Cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra nhanh chóng, tác động sâu rộng đến mọi
mặt của đời sống kinh tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới,
khiến tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ, phương thức kinh doanh đến cách
thức tiêu dùng, cách thức giao tiếp biến đổi mạnh mẽ, kể cả cách ứng xử của
con người. CMCN 4.0 hình thành và phát triển trong quá trình tích hợp của
hàng loạt công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, dữ liệu lớn, điện
toán đám mây... Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc tạo ra bước phát
triển nhảy vọt của nhân loại, xóa bỏ dần các giới hạn truyền thống về khan
hiếm nguồn lực, làm thay đổi không gian kinh tế - xã hội theo hướng hòa trộn
giữa không gian vật lý và không gian số.
Có thể nói, cơ hội là rất rõ ràng. Theo nghiên cứu sơ bộ của Công ty tư
vấn BCG cho thấy, CMCN 4.0 có thể giúp GDP của Việt Nam tăng thêm từ 8-
18 tỷ USD mỗi năm, là động lực để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng cũng như thúc đẩy các nỗ lực cải cách
hiện nay mà Chính phủ đang thực hiện một cách mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, cơ hội không tự nhiên đến với một quốc gia thụ động chờ đợi, thụ
động tiếp nhận những thay đổi do cuộc cách mạng đem lại.
Ngược lại, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi chúng ta phải chủ
động, tích cực, quyết liệt đổi mới, sáng tạo, thực hiện hàng loạt chương trình
cải cách trên 4 yếu tố nền tảng và 4 trụ cột chuyển đổi. Chúng ta không chỉ tiếp
nhận, tận dụng cơ hội mà còn phải tạo ra cơ hội mới với tư duy và phương
châm hành động là “bây giờ hoặc không bao giờ”. Vì cơ hội chỉ đến một lần
và không bao giờ quay lại. Bốn (04) yếu tố nền tảng gồm: Đột phá về thể chế;
phát triển và nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin; xây dựng cơ sở dữ liệu
quốc gia; phát triển nguồn nhân lực. Cơ sở dữ liệu quốc gia cần phải được
nhanh chóng xây dựng và phát triển một cách thống nhất, phù hợp với thông lệ
quốc tế về lưu trữ, phân tích, kết nối, lưu chuyển, tiếp cận và khai thác sử dụng
thông tin. Phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4, đi đôi với chuyển đổi cơ cấu lao động phù hợp và thích
ứng với yêu cầu của thị trường lao động trong thời đại 4.0 theo hướng đào tạo
kỹ năng đa ngành. Người lao động phải được trang bị nhiều loại kỹ năng đa
dạng để thích ứng với môi trường thời đại 4.0 và dễ dàng dịch chuyển công
việc phù hợp với nhu cầu của thị trường. Trên cơ sở 4 yếu tố nền tảng trên,
chúng ta cần thúc đẩy chuyển đổi quản trị và sản xuất theo 04 trụ cột sau đây:
Thứ nhất, chuyển đổi nền quản trị quốc gia, trước hết là xây dựng Chính
phủ điện tử, dần tiến tới Chính phủ số và phát triển thành phố thông minh; nâng
cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế bằng các công nghệ hiện đại; giảm
thiểu chi phí tuân thủ và tạo cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế mới.
Thứ hai, chuyển đổi phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo
hướng thông minh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và năng lực cạnh tranh cao
hơn; áp dụng phổ biến các phương thức kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
dịch vụ ship hàng online door - to - door... Thu hút các tập đoàn công nghệ
hàng đầu thế giới kết hợp với khuyến khích và hỗ trợ phát triển các công ty
công nghệ trong nước; hỗ trợ nâng cao kỹ năng của doanh nghiệp nhỏ và vừa
trong tiếp cận, áp dụng các công nghệ, các mô hình quản lý và kinh doanh phổ
biến trong thời đại 4.0 để họ tiếp cận được thị trường toàn cầu.
Thứ ba, áp dụng các công nghệ và phương thức tổ chức kinh doanh của
CMCN 4.0 để nhanh chóng chuyển đổi sản xuất trong các ngành có lợi thế, có
tiềm năng phát triển, có thể đóng góp lớn vào phát triển đất nước, ví dụ như:
Sản xuất nông nghiệp, công nghệ thông tin, dịch vụ hậu cần - Logistics, dịch vụ
tài chính, dịch vụ y tế, giáo dục...
Thứ tư, xây dựng hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp để phát
triển các công nghệ tiên tiến, giúp Việt Nam vượt lên ở một số lĩnh vực của
công nghệ 4.0. đặc biệt là nghiên cứu triển khai trí tuệ nhân tạo, chế tạo thông
minh, an ninh mạng... Hệ sinh thái phải được xây dựng theo chuẩn mực quốc
tế, trong đó, hạt nhân là chuỗi các Trung tâm đổi mới sáng tạo theo các mô hình
tốt nhất thế giới. Các trung tâm đổi mới sáng tạo với hệ sinh thái như đã đề cập
phải là nơi sống, làm việc tốt, đủ sức cạnh tranh quốc tế để thu hút các tài năng
công nghệ 4.0. Đó sẽ là nơi kiến tạo và phát triển năng lực công nghệ quốc gia,
tạo ra những sản phẩm công nghệ “Made in Việt Nam” và “Made by Việt
Nam”. Đó cũng là cách để chúng ta vươn lên hàng đầu trong các ngành, lĩnh
vực công nghệ mà Việt Nam có tiềm năng, lợi thế.
3.2. Định hướng và một số giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực then
chốt của Việt Nam trong CMCN 4.0
3.2.1. Tổng quan về định hướng tái cơ cấu nền kinh tế trong CMCN 4.0
Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội lớn để hưởng lợi từ cuộc CMCN
4.0. Tuy nhiên, để tận dụng được thời cơ cho phát triển bền vững, Việt Nam
cần có những định hướng phù hợp để tái cơ cấu nền kinh tế gắn với cuộc cách
mạng này. Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần định hướng tái cơ cấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
`
trên một số lĩnh vực chủ đạo như: chuyển dịch cơ cấu lao động; thu hút đầu tư
FDI; sự sẵn sàng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; đổi mới sáng tạo và
nâng cao năng suất ngành, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và
nền kinh tế
Đối với cơ cấu lao động, một số ngành nghề và lĩnh vực của Việt Nam
dự báo có nguy cơ bị robot thay thế là lao động trong lĩnh vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản; công nghiệp chế biến, chế tạo; vận tải kho bãi; giáo dục
đào tạo và y tế Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao
động thuộc các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31
triệu lao động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu
về tay nghề/kỹ năng.
Trong lĩnh vực công thương, Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách
công thương, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam chưa đạt được nhiều mục
tiêu khi thu hút FDI, đơn cử như: tỷ lệ nội địa hóa, việc nâng cao trình độ quản
lí, tay nghề cho đội ngũ lao động; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như
không cải thiện được nhiều năng lực cạnh tranh nội tại của các ngành sản xuất
công nghiệp trong nước Bên cạnh đó, với xu hướng siêu tự động hóa và sự
tham gia của các robot thông minh, thế hệ mới, có khả năng tùy chỉnh cao,
CMCN 4.0 sẽ có những tác động lớn trong việc thay đổi mô hình tổ chức sản
xuất của các ngành công nghiệp chính của Việt Nam trong thời gian tới.
Theo dự báo, đến năm 2025, có khoảng 42,8 triệu người lao động thuộc
các lĩnh vực bị ảnh hưởng mạnh bởi CMCN 4.0 và sẽ có khoảng 31 triệu lao
động cần được đào tạo mới hoặc đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu về tay
nghề/kỹ năng. Hệ lụy tất yếu sẽ diễn ra là năng lực đầu tư, đổi mới hoạt động
sản xuất và khả năng thích ứng nhanh chóng với những thay đổi công nghệ và
thị trường của các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là DN nhỏ.
Trong bối cảnh CMCN 4.0, Việt Nam cần phải có chiến lược thu h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_cach_mang_cong_nghiep_4_0_co_hoi_va_thach_thuc_voi.pdf