Thực tế qua hơn 20 năm phát triển theo mô hình KTTT định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, đời sống nhân dân được cải thiện về cơ bản. Nhờ kinh tế phát triển, chúng ta có điều kiện để giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo; thực hiện chính sách đối với những người có công với cách mạng; tăng đầu tư cho văn hoá, giáo dục, dạy nghề v.v.Cũng nhờ kinh tế phát triển bền vững, tăng trưởng liên tục trong nhiều năm, kể cả vào thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế như hiện nay mà tình hình chính trị - xã hội đã luôn giữ được ổn định, niềm tin của nhân dân vào CNXH ngày càng được củng cố, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao hơn.
203 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1988 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cái phổ biến và cái đặc thù về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính trị đối ngoại của Nhà nước ta. Với những bước tiến trong tư duy và hoạt động thực tiễn, chiến lược và chính sách đối ngoại đổi mới đã góp phần hình thành phong cách ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh: vừa giữ vững các nguyên tắc, vừa linh hoạt sáng tạo trong từng trường hợp cụ thể; vừa kế thừa thành tựu của quá khứ, vừa chủ động bổ sung, phát triển; vừa tiếp tục thực hiện mục tiêu giai cấp, vừa nhấn mạnh mục tiêu, lợi ích dân tộc chân chính. Chiến lược và chính sách đối ngoại đổi mới, vì vậy, cũng góp phần làm cho con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Năm nội dung chủ yếu nêu trên, mặc dù chưa bao quát hết quá trình vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, đã thể hiện sự kết hợp giữa cái phổ biến và cái đặc thù về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Chúng phản ánh một số vấn đề và đặc điểm nổi bật của quá trình đổi mới tư duy lý luận và vận dụng lý luận vào thực tiễn mà những người cộng sản và nhân dân Việt Nam thực hiện dưới ánh sáng của phép biện chứng duy vật và thế giới quan cách mạng. Những gì đã đạt được là thật sự to lớn và rất đáng trận trọng, nhưng vẫn chưa đáp ứng hết đòi hỏi của cuộc sống đang thay đổi nhanh chóng hiện nay. Điều quan trọng nhất là chúng ta đã biết cách bảo vệ, kiên định và trung thành một cách sáng tạo với chủ rnghĩa Mác-Lênin bằng cách bổ sung vào học thuyết này những nội dung mới như sự phát triển tất yếu, logíc của nó trong thời đại ngày nay. Với sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước và thế giới trong gần 25 năm đổi mới vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong vai trò lãnh đạo nhân dân khắc phục khủng hoảng, duy trì ổn định chính trị xã hội, tăng trưởng kinh tế khá cao, quốc phòng-an ninh vững chắc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những thành tựu này có được trước hết là nhờ bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, trong đó có bản lĩnh kiên định và năng lực sáng tạo đối với chủ nghĩa Mác-Lênin biểu hiện ra như sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.
2.2. MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CỦA VIỆC VẬN DỤNG CÁI PHỔ BIẾN VÀ ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM
Xét về bản chất, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam chính là con đường mà Mác, Ăngghen, Lênin và Hồ Chí Minh đã chỉ ra, được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Con đường đi lên CNXH của Việt Nam hiện nay chính là sự tìm tòi, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt gần 25 năm đổi mới. Con đường này có sự kế thừa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và phát triển sáng tạo những nội dung mới mà Mác, Ăngghen, Lênin chưa đề cập đến. Có thể xem đây là những đóng góp mới về mặt lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để có được bức tranh tổng thể về quá trình hình thành, phát triển của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam như là sản phẩm tất yếu của sự vận dụng, kết hợp giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong xây dựng CNXH, đề tài sẽ tập trung làm rõ một số nội dung chính, thành tựu và hạn chế chủ yếu của việc vận dụng và kết hợp đó trong xây dựng CNXH ở Việt Nam về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại.
2.2.1 Về kinh tế
Khi nói đến những vấn đề mang tính phổ biến và đặc thù của con đường đi lên CNXH ở nước ta, trước hết phải đề cập chúng trong lĩnh vực kinh tế. Bởi kinh tế chính là vấn đề có vai trò nền tảng, “cái quyết định cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới” như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra. Nói đến kinh tế với tính chất là một yếu tố quyết định cho thắng lợi của xã hội mới - xã hội XHCN, thì KTTT định hướng XHCN trở thành vấn đề cốt lõi. Đây được coi là mô hình kinh tế của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Tại Đại hội X, Đảng ta coi đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H., 2006, tr. 69.
.
KTTT được hình thành và phát triển mạnh mẽ trong CNTB và nó được coi như một động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, một giai đoạn tất yếu phải trải qua đối với mọi quốc gia trên thế giới chính là nền KTTT. Phát triển KTTT trở thành vấn đề mang tính phổ biến, cái chung của tất cả các nước trên con đường phát triển cũng như đối với Việt Nam nói riêng trong quá trình xây dựng CNXH.
Vấn đề mang tính phổ biến với sự phát triển logic khách quan của KTTT được lý giải cả trên cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử. Về mặt lý luận, KTTT - thực chất là tên gọi khác của kinh tế hàng hoá khi đã phát triển ở trình độ cao - được xác định không phải chỉ là sản phẩm của xã hội có chế độ tư hữu mà nó gắn với xã hội có cả hình thức sở hữu mang tính cộng đồng. C.Mác viết rằng,“…sự trao đổi các sản phẩm phát sinh ở những điểm tiếp xúc giữa các gia tộc, thị tộc, cộng đồng khác nhau, vì ở thời kỳ đầu của nền văn minh thì không phải là những cá nhân riêng biệt mà là các gia tộc, thị tộc, v..v..mới tiếp xúc với nhau như những đơn vị độc lập” C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Sđd, tr. 510-511.
và “…sự chuyển hoá sản phẩm thành hàng hoá là kết quả của sự trao đổi giữa các công xã khác nhau, chứ không phải giữa những thành viên của cùng một công xã” C. Mác và Ph. Ăngghen, Sđd, Tập 25, Phần I, tr. 270.
. Vấn đề có tính phổ biến của KTTT không chỉ được các nhà kinh điển Mác-Lênin chỉ ra mà nhiều nhà kinh tế - chính trị trên thế giới cũng đã khẳng định như vậy. Nhà hoạt động chính trị Khả Tri Chính, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Nhật bản cho rằng, “con đường “thông qua kinh tế thị trường đi tới chủ nghĩa xã hội” là có tính phổ biến trong phạm vi thế giới” . Ông khẳng định rằng: “quá trình đi tới chủ nghĩa xã hội chính là quá trình thành phần xã hội chủ nghĩa từng bước ra đời trong kinh tế thị trường, tính hợp lý và ưu thế của nó được kiểm nghiệm trong kinh tế thị trường” Phát triển và sáng tạo: Chủ nghĩa xã hội thế giới ở đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 4/2006, tr. 53-54.
. Về mặt thực tiễn, cho đến nay trên thế giới chưa có nước nào trong quá trình phát triển của mình mà lại không thực hiện phát triển KTTT. Một nhà nghiên cứu kinh tế - chính trị người Đức, ông Buri, sau khi đúc kết từ thực tiễn đã khẳng định rằng, “bất cứ một xã hội nào cũng đều tồn tại thị trường, không có xã hội không tồn tại thị trường” . Thực tiễn rất rõ là ở các nước XHCN trước đổi mới, cải cách đã cho thấy không có KTTT thì sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước đều rơi vào trì trệ, thiếu động lực, không thể đáp ứng đầy đủ cơ sở vật chất cho một xã hội mới - xã hội XHCN, cũng như không hoà nhập được với tiến trình phát triển chung của thế giới.
Đặc trưng chung thể hiện trong vấn đề mang tính phổ biến của KTTT đối với mọi quốc gia bao gồm các mặt cơ bản sau: Thứ nhất, đây là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Tức là, trong nền kinh tế diễn ra quá trình trao đổi mua bán hàng hoá và bị chi phối bởi các quy luật của KTTT như quy luật giá trị, cung cầu, giá cả hàng hoá trong xã hội, không chỉ ở phạm vi một quốc gia mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu; trong nền kinh tế đó các chủ thể kinh tế được tự do hoạt động kinh doanh, tự do cạnh tranh theo pháp luật; cạnh tranh là môi trường và động lực phát triển kinh tế; các chủ thể tham gia thị trường chịu sự tác động, chi phối của nhà nước. Thứ hai, KTTT có sự quản lý, điều tiết của nhà nước được coi là nét đặc trưng chung, mang tính phổ biến đối với mọi quốc gia trên thế giới hiện nay. KTTT có sự quản lý, điều tiết của nhà nước là nền kinh tế có sự kết hợp giữa KTTT tự do cạnh tranh - xuất phát từ quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển - với sự quản lý điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế ở mỗi quốc gia, vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế là không giống nhau, phụ thuộc vào đặc điểm, bản chất của mỗi nhà nước.
Vấn đề mang tính phổ biến của KTTT ở các quốc gia khác nhau luôn có sự song hành với những vấn đề mang tính đặc thù, xuất phát từ đặc điểm xã hội, hoàn cảnh khách quan, bản chất của nhà nước ở mỗi quốc gia. Tức là ở mỗi nước, và ngay trong các thời điểm khác nhau cũng có những nét đặc trưng riêng, biểu hiện tính đặc thù của KTTT trong quá trình phát triển đi lên của mình. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng có nhiều mô hình KTTT với những nét đặc trưng riêng, mang nét đặc thù của mỗi nước phụ thuộc vào đặc điểm, bản chất của nhà nước hay các hoàn cảnh khách quan nhất định. Dưới đây là một số mô hình tiêu biểu hiện nay:
Một là, mô hình KTTT tự do mới (điển hình là Mỹ). Mô hình này đề cao vai trò của thị trường, thị trường vẫn được coi là chính thống, thị trường không chỉ điều tiết các hoạt động kinh tế mà còn chủ yếu điều tiết thu nhập; vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề bảo đảm công bằng xã hội tuy có điều chỉnh tăng cường hơn nhưng còn bị xem nhẹ.
Hai là, mô hình KTTT xã hội kiểu KTTT đặc trưng của Cộng hoà Liên bang Đức. Lý thuyết về nền KTTT xã hội này ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và được Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức vận dụng vào việc hoạch định các chính sách kinh tế. Quan điểm của những người theo mô hình này cho rằng, có hai vấn đề không thể tách rời, biệt lập nhau, đó là: phát triển KTTT mang lại hiệu quả cao và thực hiện chính sách phúc lợi xã hội; mỗi biện pháp nâng cao phúc lợi xã hội không được gây trở ngại cho cơ chế thị trường mà ngược lại, phải tạo điều kiện cho cơ chế thị trường phát huy tác dụng tích cực đạt hiệu quả cao.
Ba là, mô hình KTTT phúc lợi xã hội, kiểu đặc trưng của Thuỵ Điển diễn ra chủ yếu vào khoảng giữa thế kỷ XX. Đặc trưng của mô hình này là có sự kết hợp giữa KTTT tự do cạnh tranh và mở rộng phúc lợi xã hội, thực hiện an sinh xã hội của nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội dựa vào nguồn thu thuế thu nhập luỹ tiến rất cao. Với mô hình này, Thuỵ Điển được coi là nước có nền kinh tế với những chính sách phúc lợi xã hội rất cao vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX.
Bốn là, mô hình nền KTTT hiệp đồng, kiểu KTTT đặc trưng cho một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc. Mô hình này giống các mô hình khác là đều có vai trò của nhà nước và thị trường, nhưng nó có đặc trưng là coi trọng sự hiệp đồng, hài hoà các quan hệ kinh tế - xã hội, đặc biệt là quan hệ giữa nhà nước - các doanh nghiệp - người tiêu dùng và quan hệ giữa nhà quản lý và người lao động nhằm tạo nên sự nỗ lực chung mang tính công đồng giữa các chủ thể của nền kinh tế, bảo đảm vừa phát huy tác dụng của thị trường vừa có sự phối hợp, ràng buộc lẫn nhau của các chủ thể vào thể chế kinh tế vĩ mô.
Năm là, mô hình KTTT XHCN của Trung Quốc. Mô hình này tuy có thừa nhận sở hữu tư nhân nhưng đặc biệt coi trọng việc thực hiện “chế độ công hữu làm chủ thể”, kinh tế nhiều loại hình sở hữu cùng phát triển; coi trọng phân phối theo lao động làm chủ thể trong chế độ phân phối với nhiều hình thức cùng tồn tại; hệ thống bảo đảm xã hội bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, chăm sóc người có công,…
Từ một số mô hình KTTT với những nét đặc trưng nêu trên cho thấy mô hình KTTT nào cũng có nét đặc trưng chung, đó là sự vận hành của nền KTTT nào cũng trước hết và chủ yếu do các quy luật thị trường quyết định, đồng thời nhà nước dù ít hoặc nhiều đều có thực hiện điều tiết đối với nền kinh tế trong quá trình định hướng sự phát triển. Bên cạnh đó KTTT có những nét đặc trưng riêng, biểu hiện tính đặc thù trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Những nét đặc thù chính là tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác. Trong các tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác bao giờ cũng phải nói đến sự định hướng chính trị - xã hội. Sự định hướng này chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế. Ở Việt Nam, Đảng ta xác định phát triển KTTT phải theo định hướng XHCN. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đây được coi là một kiểu KTTT mới trong lịch sử phát triển của KTTT, thể hiện “cái đặc thù” về mặt kinh tế của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Cái đặc thù của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thể hiện rõ nét ở sự định hướng XHCN đối với nền kinh tế. KTTT định hướng XHCN tức là nền kinh tế đó đang hướng tới xã hội XHCN. Điều đó cũng có nghĩa đây không phải là KTTT tự do hay KTTT có sự điều tiết của nhà nước TBCN, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là KTTT XHCN, bởi Việt Nam đang ở thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH.
KTTT định hướng XHCN chứa đựng các yếu tố cốt lõi: Những tư tưởng về phát triển kinh tế XHCN dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; các mục tiêu, nguyên tắc và nhiệm vụ cơ bản trong phát triển nền kinh tế gắn với mục tiêu và đặc trưng của CNXH. Các yếu tố này biểu hiện cụ thể ở những nội dung chủ yếu và được Đảng ta xác định trong Văn kiện Đại hội X như sau: Một là, KTTT định hướng XHCN ở nước ta nhằm thực hiện mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân”. Hai là, trong lĩnh vực sở hữu, KTTT định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ba là, trong lĩnh vực quản lý, KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu như nêu ở trên; Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách…tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tổ chức, cá nhân trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian tham gia vào các quá trình của sản xuất, phát triển kinh tế. Bốn là, trong lĩnh vực phân phối, KTTT định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Như vậy, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là sự biểu hiện của sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù về mặt kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Sự kết hợp này đã được Đảng ta khẳng định tại Văn kiện Hội nghị Trung ương 6 (khoá X): “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa” Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương khóa X, Nxb CTQG, H. 2008, tr. 140.
.
Thực tế qua hơn 20 năm phát triển theo mô hình KTTT định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã tăng trưởng liên tục với tốc độ cao, đời sống nhân dân được cải thiện về cơ bản. Nhờ kinh tế phát triển, chúng ta có điều kiện để giải quyết có hiệu quả một số vấn đề xã hội như xoá đói, giảm nghèo; thực hiện chính sách đối với những người có công với cách mạng; tăng đầu tư cho văn hoá, giáo dục, dạy nghề v..v..Cũng nhờ kinh tế phát triển bền vững, tăng trưởng liên tục trong nhiều năm, kể cả vào thời điểm khó khăn nhất do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế như hiện nay mà tình hình chính trị - xã hội đã luôn giữ được ổn định, niềm tin của nhân dân vào CNXH ngày càng được củng cố, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được, phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn khá nhiều những bất cập bắt nguồn cả từ những hạn chế trong việc vận dụng cái phổ biến và đặc thù về mặt kinh tế của con đường đi lên CNXH:
Thứ nhất, KTTT ở nước ta còn mới ở bước đầu tiên của sự phát triển, trình độ còn quá thấp, thậm chí nhiều nước hiện còn chưa công nhận ta là nước có nền KTTT. Điều này thể hiện rõ sự chậm trễ, chưa bắt kịp những đòi hỏi mang tính phổ biến của KTTT vào công cuộc xây dựng CNXH. Trong những năm gần đây, tuy có nhiều chuyển biến nhưng thực tế các yếu tố thị trường và hầu hết các loại thị trường ở nước ta vẫn còn đang trong giai đoạn tạo lập, phát triển sơ khai, chậm trễ, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt; quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập, một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm. Tại Hội nghị Trung ương chín (khoá X), Đảng ta nhận định: “Quản lý thị trường nội địa bị buông lỏng. Việc ngăn chặn buôn lậu, hàng giả hàng kém chất lượng đạt kết quả thấp. Quản lý đất đai, nhất là đất sản xuất nông nghiệp, đất đô thị lỏng lẻo, sử dụng đất lãng phí. Chính sách đất đai (nhất là chính sách tài chính) chậm đổi mới gây khó khăn cho việc chuyển đất đai thành nguồn lực phát triển kinh tế” Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 29.
.
Thứ hai, chậm làm rõ những yếu tố có tính đặc thù về KTTT định hướng XHCN. Phải sau 20 năm đổi mới, tại Đại hội X Đảng ta mới xác định nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH và mới bước đầu làm rõ những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này. Điều đó làm cho việc xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN mặc dù là công việc rất cấp bách trong giai đoạn phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, nhưng đến nay cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Tại Hội nghị Trung ương chín (khoá X), Đảng ta đã nhận định: “Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa xác định rõ và tạo được sự thống nhất cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” . Một trong những cái phổ biến của KTTT hiện nay là đều có nhà nước điều tiết nền kinh tế, còn một trong những cái đặc thù của KTTT định hướng XHCN là Nhà nước ta thực hiện điều tiết nền kinh tế định hướng lên CNXH. Tuy nhiên, hiện nay chức năng điều tiết của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN còn nhiều nội dung cũng chưa được xác định rõ như Đảng ta đã nhận định trong Văn kiện Hội nghị Trung ương chín (khoá X).
Thứ ba, những yếu tố bảo đảm cho sự định hướng XHCN trong KTTT còn chưa chắc chắn, nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn còn. Điều đó thể hiện rằng, chúng ta chưa vận dụng và phát huy tốt các yếu tố thể hiện cái đặc thù của KTTT định hướng XHCN trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Thực tế này thể hiện ở chỗ, hiện nay một số yếu tố đảm bảo định hướng XHCN được khẳng định như vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN, hay vấn đề thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển đang có những bất cập. Tại Hội nghị Trung ương chín (khoá X), Đảng ta nhận định: “phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể còn nhiều hạn chế, chưa củng cố, tăng cường được vị trí chủ đạo và vai trò nền tảng của các thành phần này trong nền kinh tế”. Trong thực tế, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể tăng trưởng chậm hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác, hiệu quả thấp, chiếm tỷ trọng ngày càng giảm đi trong tổng sản phẩm nội địa (GDP). Hơn nữa, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên nhiều mặt còn thấp. Chẳng hạn, về kinh tế, “Chất lượng công tác xây dựng quy hoạch, quản lý thực hiện quy hoạch phát triển các ngành, các vùng còn thấp. Hệ thống phân phối yếu, chậm được củng cố trước yêu cầu hội nhập, có nguy cơ các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài chiếm lĩnh thị trường bán lẻ trong nước. Quản lý thị trường nội địa bị buông lỏng; việc ngăn chặn buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng đạt kết quả thấp. Quản lý đất đai, nhất là đất sản xuất nông nghiệp, đất đô thị lỏng lẻo, sử dụng đất lãng phí…”; về xã hội, “việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trên nhiều lĩnh vực đạt kết quả thấp so với yêu cầu, tạo nên bức súc xã hội ở một số lĩnh vực (giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân), chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng, miền; tội phạm, tệ nạn xã hội gia tăng…”1. Đảng Cộng sản Việt nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Sđd, tr. 30
.
Nguyên nhân của những hạn chế trong việc vận dụng nêu trên là do: Một là, xuất phát từ căn bệnh nóng vội, chủ quan trong tư duy về xây dựng CNXH. Chính việc áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá, tập trung cao độ khi bước vào xây dựng CNXH đã xuất phát từ căn bệnh này. Hai là, do chúng ta chậm làm sáng tỏ về mặt lý luận so với thực tiễn vấn đề KTTT định hướng XHCN và mối quan hệ giữa hai yếu tố là KTTT và định hướng XHCN, về sự kết hợp chúng một cách hữu cơ để tạo thành một phương thức mới giải quyết sự phát triển ở Việt Nam. Hiện nay chúng ta cũng chưa có sự thống nhất trong nhận thức về KTTT định hướng XHCN và thể chế KTTT định hướng XHCN. Điều đó chứng tỏ chúng ta còn nhiều bất cập trong nhận thức và vận dụng cái phổ biến và đặc thù của KTTT định hướng XHCN trong xây dựng CNXH. Ba là, chưa thực hiện có hiệu quả các giải pháp tăng cường sức mạnh của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể trong điều kiện phát triển KTTT. Qua hơn 20 năm đổi mới, chuyển sang KTTT, chúng ta đã có nhiều giải pháp đổi mới nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước làm cơ sở để giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chẳng hạn như thực hiện cổ phần hoá, bán khoán, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước, tuy nhiên hiệu quả của việc cổ phần hoá lại không cao, có nhiều bất cập. Tại Hội nghị Trung ương chín khoá X, Đảng ta đã nhận định: “Chính sách bán cổ phần ưu đãi cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp để tạo được sự gắn kết người lao động với doanh nghiệp khi cổ phần hoá còn nhiều lúng túng. Ở nhiều nơi đã diễn ra việc mua gom, tập trung cổ phần vào một số người (nhất là diện doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi phối) làm cho cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở những doanh nghiệp này trở thành tư nhân hoá. Các doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hoá, nhất là doanh nghiệp nhà nước không nắm cổ phần chi phối, hoạt động của tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên gặp khó khăn nhiều hơn trước, vai trò bị mờ nhạt dần” Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Sđd, tr. 26-27.
. Bốn là, chưa làm tốt khâu dự báo mô hình kinh tế mà chúng ta tiến hành xây dựng. Vào thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã không có nghiên cứu dự báo mô hình tương lai của nền kinh tế. Kết quả là nền kinh tế phát triển không đúng hướng. Hiện nay, nếu chúng ta không có sự nghiên cứu, dự báo mô hình KTTT định hướng XHCN trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, chắc chắn chúng ta sẽ khó có hiệu quả trong việc vận dụng cái phổ biến và đặc thù, thực hiện đúng định hướng XHCN trong nền KTTT vào những năm tới.
2.2.2 Về chính trị
* Về vấn đề Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt nam
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ thời kỳ cổ đại, được phát triển, bổ sung qua các thời kỳ trung, cận đại. Đặc biệt đến thời kỳ chuẩn bị cho cách mạng tư sản, tư tưởng nhà nước pháp quyền đã được các nhà lý luận tư sản phát triển, hệ thống hóa thành các học thuyết và đã trở thành hiện thực ở nhiều nước phương Tây. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau thì xuất hiện những mô hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Vậy các giá trị chung của nhà nước pháp quyền là gì? Các giá trị này được thể hiện ở các mô hình nhà nước pháp quyền như thế nào? Đặc điểm của mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN ra sao? Việc vận dụng cái phổ biến và đặc thù về vấn đề này trong xây dựng CNXH ở Việt Nam như thế nào? Đây là những vấn đề sẽ được tập trung làm rõ ở mục này.
Cái phổ biến của nhà nước pháp quyền
Tư tưởng nhà nước pháp quyền là một giá trị tiến bộ của nhân loại, đã được thử nghiệm, chọn lọc qua nhiều thế kỷ. Ngày nay nhà nước pháp quyền đã trở thành hiện thực ở nhiều nơi trên thế giới với sự thể hiện hết sức đa dạng. Về tổng thể, tư tưởng nhà nước pháp quyền mang những giá trị phổ biến sau:
Thứ nhất, khẳng định “cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân”. Tư tưởng này đã trở thành khẩu hiệu tiên phong trong việc tập hợp lực lượng để chống lại các nhà nước chuyên chế phong kiến. Nội dung xuyên suốt của tư tưởng này giải thích rằng nhà nước xuất hiện là do sự ủy quyền của người dân, do vậy bản thân sự tồn tại của nhà nước là phải phục vụ nhân dân chứ nhà nước không được đứng trên nhân dân để cai trị nhân dân như các nhà nước chuyên chế. Khi n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tong quan.doc
- Trang bia.doc