MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG 7
1.1. Đấu thầu xây dựng và cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng 7
1.2. Những nhân tố tác động đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp 21
1.3. Một số kinh nghiệm giành thắng lợi trong cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng 30
Chương 2: THỰC TRẠNG CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ HÀ NỘI 33
2.1. Tổng quan về Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị 33
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị 35
2.3. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội 48
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH ĐẤU THẦU XÂY DỰNG CỦA TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ HÀ NỘI 57
3.1. Định hướng phát triển và nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu của Tổng Công ty 57
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị 61
3.3. Một số kiến nghị đối với Nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh đấu thầu xây dựng cơ bản 73
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC 82
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2381 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng lực marketing.
2.2.1.1. Năng lực thiết bị kỹ thuật và công nghệ
Do đặc tính của sản phẩm cũng như quá trình sản xuất sản phẩm quy định, khả năng về trang thiết bị công nghệ là nhân tố quan trọng cho việc thực hiện những giải pháp kỹ thuật để tham gia vào đấu thầu xây dựng.
Nếu như các điều kiện về kỹ thuật của công trình không được thỏa mãn, chủ đầu tư sẽ không đánh giá được tiêu chuẩn khác, dẫn đến sự thất bại trong đấu thầu. Do đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng luôn chú trọng tới việc mở rộng quy mô đầu tư thiết bị cả về số lượng và chất lượng, chủng loại để có thể thi công các gói thầu xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao. Điều này tạo thế cạnh tranh cho doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu, nâng cao giá trị sản lượng và doanh thu xây lắp v.v...
Số lượng máy móc thiết bị kỹ thuật của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị được thể hiện trong phần phụ lục của luận văn.
Qua bảng số liệu về máy móc thiết bị của Tổng Công ty chúng ta thấy:
Việc đầu tư trang thiết bị thi công, các dây chuyền công nghệ trong những năm qua của Tổng Công ty tương đối lớn. Hầu hết các máy móc phục vụ cho lĩnh vực xây lắp của Tổng Công ty đều đang trong tình trạng tốt, có tính đồng bộ, hiện đại. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng tác động lớn đến việc đánh giá năng lực kỹ thuật, tiềm lực tài chính và cũng chính là lợi thế của Tổng Công ty trong cạnh tranh đấu thầu xây dựng.
2.2.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển và khả năng cạnh tranh của Tổng Công ty trên thị trường. Chất lượng nguồn nhân lực của Tổng Công ty được đánh giá qua trình độ cán bộ công nhân viên, kinh nghiệm làm việc, độ tuổi người lao động v.v...
Trong quá trình hình thành và phát triển, Tổng Công ty luôn quan tâm đến công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật. Đối với đội ngũ công nhân, Tổng Công ty luôn tạo điều kiện học tập, nâng cao trình độ tay nghề. Thực trạng nguồn nhân lực của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị được phản ảnh qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.1: Bảng tổng hợp về nguồn nhân lực của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
TT
Nội dung
Số lượng
Tỷ lệ (%)
1
Trên đại học
26
3,76
2
Đại học
1.539
22,28
3
Cao đẳng
168
2,43
4
Trung cấp
477
6,91
5
Công nhân
4.729
64,62
Tổng số CBCNV toàn Tổng Công ty
Trong đó: + Nam
+ Nữ
6.909
4.962
1.947
Nguồn: Phòng Tổ chức- Quản trị hành chính, năm 2006
Qua biểu tổng hợp về nhân lực của Phòng Tổ chức - Quản trị hành chính Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị, năm 2006, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
- Số lượng cán bộ có trình độ trên đại học là 26 và đại học của toàn Tổng Công ty là 1539, chiếm 26,04% lực lượng lao động. Đây là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, có khả năng nghiên cứu và đưa vào ứng dụng các biện pháp thi công tiên tiến và hiện đại. Đây được coi là nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng tạo ra những bước phát triển mang tính đột phá cho Tổng Công ty.
- Số lượng cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp của toàn Tổng Công ty là 645 người, chiếm 9,34% lực lượng lao động. Đây là đội ngũ cán bộ đã được đào tạo cơ bản, có khả năng trực tiếp thi công các công trình đòi hỏi chất lượng cao, ở những địa hình phức tạp.
- Số lượng công nhân viên của toàn Tổng Công ty là 4.729 người, chiếm 64,62% lực lượng lao động. Đội ngũ công nhân của toàn Tổng Công ty đã được đào tạo cơ bản, rèn luyện qua nhiều công trình phức tạp, say mê, nhiệt tình làm việc. Đây được coi là lực lượng tiên phong của Tổng Công ty, do đó, Tổng Công ty luôn coi trọng công tác đào tạo lại đội ngũ công nhân, tạo mọi điều kiện cho họ có cơ hội học tập nâng cao tay nghề kỹ thuật.
- Nhìn vào bảng tổng hợp về nhân sự, chúng ta thấy rằng tỷ lệ nhân lực về trình độ chuyên môn, là kỹ sư: 1.539/ Cán bộ kỹ thuật (Cao đẳng, Trung cấp) 645; / công nhân lành nghề 4.729. Đây là một tỷ lệ có phần chưa hợp lý- kỹ sư trở lên cao hơn cán bộ kỹ thuật; kỹ sư /công nhân kỹ thuật là 1/3. Trong khi đó theo kinh nghiệm thế giới một tỷ lệ kỹ sư, cán bộ và kỹ thuật trong một doanh nghiệp sản xuất thường là 1-4-10..
Như vậy, nguồn nhân lực hiện nay của Tổng Công ty với trên 4.700 công nhân, 1.539 kỹ sư, 26 người có trình độ trên đại học là một lợi thế rất lớn đối với quá trình cạnh tranh và phát triển trong giai đoạn hiện nay, nhưng cũng còn những bất cập nhất định về cơ cấu trình độ chuyên môn, kỹ thuật.
2.2.1.3. Năng lực marketing
Năng lực marketing là một nhóm nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Marketing, theo nghĩa chung nhất, là làm việc với thị trường để thực hiện những vụ trao đổi với mục đích thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Như vậy, hoạt động marketing của doanh nghiệp là một tập hợp các hoạt động từ xác định thị trường tiềm năng của doanh nghiệp; xây dựng chiến lược tiếp cận khách hàng và xây dựng chiến lược cạnh tranh với các đối thủ khác nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Hoạt động marketing ngày nay, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong quản trị doanh nghiệp. Bởi lẽ, hoạt động marketing giúp cho doanh nghiệp tạo dựng được uy tín, khẳng định được thị phần và xây dựng được một chiến lược phù hợp cho sự phát triển của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn.
Đội ngũ marketing của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị đã được xây dựng và bố trí tương đối hợp lý tại các doanh nghiệp thành viên. Tuy nhiên, công tác marketing tìm kiếm và phát triển thị trường vẫn còn những hạn chế và chưa được coi trọng tương xứng với vị trí quan trọng của nó. Trình độ nắm bắt thông tin thị trường của Tổng Công ty còn nhiều hạn chế, chi phí cho các hoạt động marketing chưa cao; khả năng dự báo trong trung hạn và dài hạn còn nhiều hạn chế. Chính từ những lý do trên, Tổng Công ty sẽ gặp khó khăn và bị động trong việc xây dựng chiến lược cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường.
Ngoài ra, hoạt động quảng bá và xây dựng thương hiệu chưa được coi trọng đúng mức. Việc quảng cáo và xây dựng thương hiệu cho Tổng Công ty chỉ đơn thuần qua hồ sơ năng lực để tham dự thầu, chứ không mang tính chiến lược dài hạn. Thực tế này đã gây ra hiệu ứng bất lợi cho Tổng Công ty trong việc tạo dựng hình ảnh của mình đối với khách hàng tiềm năng, đặc biệt khi Tổng Công ty tham gia đấu thầu quốc tế.
2.2.1.4. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính có tầm quan trọng quyết định đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và đặc biệt đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng. Trong đấu thầu, năng lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến những quyết định về kỹ thuật, phương pháp tổ chức thi công, đầu tư công nghệ, tiến độ công trình và phương án lựa chọn giá dự thầu.
Để đánh giá năng lực tài chính của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị trên thị trường cạnh tranh, chúng ta có thể so sánh thực trạng nguồn vốn của một số đối thủ cạnh tranh như Tổng Công ty VINACONEX, Tổng Công ty Công trình Giao thông 1 (CIENCO 1).
Bảng 2.2: So sánh năng lực tài chính giữa Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị với VINACONEX và CIENCO 1
Đơn vị: triệu đồng
TT
Chỉ tiêu
Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị
VINACONEX
CIENCO 1
1
Tổng nguồn vốn
2.067.144
3.431.819
3.105.723
2
Vốn chủ sở hữu
518.063
286.042
470.576
3
Tổng nợ
1.509.606
3.145.777
3.035.542
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của các Tổng Công ty, năm 2005.
Như vậy, xét về quy mô, nguồn vốn của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị nhỏ hơn hai Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nêu trên. Nhưng vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị lại chiếm một tỷ tương đối lớn trong tổng nguồn vốn. Hơn nữa, tổng nợ của Tổng Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị lại nhỏ hơn rất nhiều so với tổng nguồn vốn, điều đó, chứng tỏ năng lực tài chính tương đối tốt. Do đó, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị có khả năng tài chính vững đảm bảo đáp ứng vốn cho các công trình, và tạo uy tín đối với các nhà cung cấp tài chính. Đây mới chỉ là sự đánh giá sơ khai, để hiểu rõ hơn về khả năng tài chính của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị chúng ta sẽ tìm hiểu qua một số thông tin về Tổng Công ty trong bảng dưới đây.
Bảng 2.3: Một vài chỉ tiêu tài chính của Tổng Công ty giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: nghìn đồng
TT
Tài sản
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
1
Doanh thu
811.765.186
1.175.140.801
1.482.301.955
1.582.000.000
2
Lợi nhuận
88.256.637
132.919.282
137.768.957
48.023.676
3
Nộp ngân sách
33.030.134
53.484.889
54.602.557
61.830.000
4
Nguồn vốn chủ sở hữu
310.264.429
420.682.126
518.063.583
496.191.214
5
Tổng tài sản hiện có
1.396.226.123
1.652.249.755
2.067.144.457
2.026.638.833
6
Tài sản lưu động có
1.111.233.982
1.269.791.702
1.599.373.434
1.525.538.317
7
Tài sản nợ
653.018.790
1.090.217.688
1.509.606.481
1.530.368.204
8
Tài sản lưu động bằng tiền
388.117.431
506.997.000
87.232.967
276.188.205
9
Lợi nhuận sau thuế
55.831.203
86.521.887
38.229.945
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 của Tổng Công ty.
Qua bảng số liệu chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, doanh thu của Tổng Công ty tăng đều đặn qua các năm trong điều kiện thị trường xây dựng cơ bản cạnh tranh rất khốc liệt. Điều này chứng tỏ thị phần trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của Tổng Công ty ngày càng lớn. Thương hiệu của Tổng Công ty trên thương trường từng bước được nâng cao.
Hai là, cùng với sự tăng lên của doanh thu thì các khoản nộp ngân sách cũng ngày một tăng trong ba năm liên tục. Điều đó chứng tỏ Tổng Công ty luôn phấn đấu hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.
Ba là, nguồn vốn chủ sở hữu không ngừng tăng lên qua các năm, năm 2003 là trên 310 tỷ đồng; năm 2004 trên 420 tỷ đồng; năm 2005 trên 518 tỷ đồng. Như vậy, ngoài việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước, Tổng Công ty luôn cố gắng tích lũy nhằm nâng cao hơn nữa nguồn vốn chủ sở hữu để có thể đứng vững, và cạnh tranh trên thị trường đầy rủi ro và sôi động.
Có thể nói, trong khi các Tổng Công ty lớn về xây dựng cơ bản đang đứng trước những khoản nợ rất lớn, thậm chí nhiều Tổng Công ty có số nợ lớn hơn vài lần tổng nguồn vốn, thì Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị lại có được tiềm lực tài chính rất mạnh. Điều đó nói lên rằng Tổng Công ty có được năng lực tài chính vượt trội so với đối thủ cạnh tranh trên thương trường, tạo được niềm tin đối với chủ đầu tư và các tổ chức tín dụng.
2.2.2. Các yếu tố khách quan
2.2.2.1. Môi trường kinh tế, pháp lý
Môi trường kinh tế, pháp lý của nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế của nước ta tuy cao, nhưng nền kinh tế bắt đầu có những dấu hiệu bão hòa về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, hay chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa thực sự bền vững. Từ những khó khăn của nền kinh tế kéo theo những khó khăn về vốn cho lĩnh vực xây dựng cơ bản, thị trường bó hẹp dẫn đến tình trạng cạnh tranh giữa các nhà đầu tư khốc liệt hơn. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy định về đầu tư quản lý xây dựng cơ bản thay đổi nhiều lần, từ Nghị định số 42/CP đến Nghị định số 52/CP, sửa đổi số 12/CP và hiện nay là Nghị định sửa đổi số 07/CP. Quy chế đấu thầu thay đổi từ Nghị định số 43/CP đến Nghị định số 88/CP, Nghị định sửa đổi số 14/CP và trong thời gian tới sẽ tiếp tục được bổ sung. Luật Đấu thầu đã được ban hành và có hiệu lực từ 1/4/2006 nhưng chậm ban hành những văn bản dưới luật.
Do thường xuyên có sự thay đổi về khung pháp lý cho lĩnh vực xây dựng cơ bản đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đôi khi còn dẫn đến nhiều bó buộc cho các đơn vị trong đấu thầu.
Các chính sách khác như giải phóng mặt bằng, huy động vốn, thanh quyết toán công trình của Nhà nước cũng còn nhiều vấn đề bất cập, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ, các công trình xây dựng cơ bản thường có giá trị lớn, thời gian thi công dài trong khi nguồn vốn của các chủ đầu tư hay rộng hơn là của toàn nền kinh tế luôn bị hạn hẹp nên đã gây ra nhiều tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của các Tổng Công ty.
Đứng trước những khó khăn trên, để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tránh những thất thoát, lãng phí, Nhà nước cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý về cơ chế đấu thầu, tạo dựng một sân chơi thực sự bình đẳng cho các doanh nghiệp.
2.2.2.2. Chủ đầu tư
Chủ đầu tư là cơ quan được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và thực hiện dự án. Chủ đầu tư có trách nhiệm về quá trình lựa chọn nhà thầu. Trong trường hợp chủ đầu tư có đủ năng lực thì tự thực hiện mời thầu, tổ chức đấu thầu, nếu không đủ năng lực thì sử dụng một tổ chức chuyên môn đủ tư cách và năng lực thay mình làm bên mời thầu, nhưng chủ đầu tư vẫn phải chịu trách nhiệm về quá trình lựa chọn nhà thầu. Do vậy, chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới các doanh nghiệp tham gia đấu thầu.
Với nhóm khách hàng là những nhà đầu tư trong nước tập trung chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung, trong những năm qua, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị luôn khẳng định được vị thế và năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, vai trò của chủ đầu tư có tác động rất lớn đến quá trình tuyển thầu của các Tổng Công ty. Bởi lẽ, chỉ cần một cán bộ của chủ đầu tư không có đủ năng lực, tha hóa, nhận hối lộ, có những đánh giá thiên lệch, hoặc tiết lộ thông tin của các nhà thầu thì sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của Tổng Công ty trên thị trường.
Đứng trước những đòi hỏi khách quan hiện nay, các doanh nghiệp xây dựng cơ bản nói chung và Tổng Công ty nói riêng phải xác định được các yêu cầu cần đáp ứng đó là: chất lượng, kỹ thuật, thời gian và giá cả hợp lý. Đồng thời, chủ đầu tư của các dự án phải thể hiện được tính công khai, minh bạch trong quá trình mời thầu và tuyển thầu. Có như vậy, nguồn vốn đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả và các Tổng Công ty mới có được sự bình đẳng với nhau trong cạnh tranh đấu thầu. Đây là điều kiện quan trọng cho việc ra đời những công trình xây dựng đảm bảo chất lượng, kỹ thuật và tiến độ thi công nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
2.2.2.3. Cơ quan tư vấn giám sát
Cơ quan tư vấn, giám sát có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh đấu thầu và tạo dựng uy thế trên thị trường của các doanh nghiệp xây dựng. Từ các khâu tư vấn, lập dự án, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, đến tư vấn giám sát chất lượng công trình v.v… đều là những bộ phận không thể tách rời để tạo ra những sản phẩm xây dựng có chất lượng cao. Việc hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng dân dụng thì công tác tư vấn lại tác động hết sức quan trọng đến hiệu quả sản xuất của các Tổng Công ty. Một thực tiễn cho thấy, khi một công trình nào đó, với công tác tư vấn đầy đủ, đảm bảo về: thiết kế dự toán chính xác, hồ sơ mời thầu chặt chẽ, công bằng, công tác giám sát thi công đáp ứng được các đòi hỏi về chất lượng kỹ thuật, sẽ tạo được điều kiện cho các Tổng Công ty từ khâu dự thầu đến thi công công trình. Khi thực hiện tốt được điều này chính là ngày một nâng cao được vị thế và uy tín của doanh nghiệp đó trên thị trường xây dựng. Tuy nhiên, nhiều dự án các chủ đầu tư và các bên tham gia tư vấn chưa ý thức được vai trò và trọng trách của mình nên công tác tư vấn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế về chất lượng. Nhiều cơ quan tư vấn hời hợt trong công tác xây dựng hồ sơ mời thầu, giám sát thiếu chặt chẽ các khâu của quá trình thực hiện đầu tư đã dẫn đến dung túng cho các doanh nghiệp xây dựng làm sai thiết kế kỹ thuật.
Đứng trước thực tế trên đòi hỏi các chủ đầu tư, cơ quan tư vấn giám sát phải xác định rõ vai trò quan trọng của mình, đồng thời, các đơn vị xây lắp không vì các mục tiêu lợi nhuận trước mắt mà đánh mất đi uy tín của riêng mình, cũng như uy tín chung của toàn Tổng Công ty trên thị trường.
2.2.2.4. Các đối thủ cạnh tranh
* Các đối thủ cạnh tranh trực tiếp
Lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng là một trong những lĩnh vực rất năng động, ngày càng thu hút nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Đối thủ cạnh tranh của Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị được phân thành hai nhóm là: các doanh nghiệp xây dựng trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài.
- Cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước
Đối thủ cạnh tranh của Tổng Công ty trong nước là các Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng ở Việt Nam. Các Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực này là các Tổng Công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản như Tổng Công ty VINACONEX, Tổng Công ty đầu tư phát triển nhà Hà Nội; Tổng Công ty Sông Đà; các Tổng Công ty thuộc Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng. Những Tổng Công ty này tạo ra một sự cạnh tranh quyết liệt và phức tạp trên thị trường xây dựng ở Việt Nam.
- Cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài
Theo thống kê của Bộ Xây dựng, tính đến đầu năm 1998 đã có 121 công ty nước ngoài của 16 quốc gia hoạt động trên thị trường xây dựng ở Việt Nam. Nhưng đến nay, số doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào thị trường xây dựng đã tăng lên rất nhiều, ước đoán trong giai đoạn hiện nay có trên 500 nhà thầu đến từ nhiều quốc gia trên thế giới [11, tr. 23].
* Các đối thủ cạnh tranh tiềm năng
Trên thực tế tồn tại nhiều đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có tham vọng thâm nhập vào thị trường xây dựng để cùng chia thị phần với Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị. Những đối thủ này chia thành hai nhóm chính là: các công ty nước ngoài mời vào hoạt động tại Việt Nam và các công ty trong nước mới tham gia vào lĩnh vực xây dựng cơ bản tại các địa phương
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các công ty nước ngoài. Những công ty nước ngoài thường có ý định thâm nhập thị trường bằng cách đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Hoặc họ có xu hướng hợp tác với các đối tác Việt Nam. Đề nghị hợp tác thường được phía Việt Nam chấp nhận vì họ có ưu thế về tài chính và công nghệ hiện đại. Từ đó, họ tiến tới thành lập các công ty liên doanh xây dựng.
- Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp trong nước.
Các công ty này thường hoạt động tại các địa phương nơi họ có trụ sở chính. Do đó, các công ty này thường có quan hệ rất tốt với các địa phương. Hơn nữa, các công trình tại các địa phương thường có quy mô nhỏ nên các Tổng Công ty lớn thường ít quan tâm đến hoặc bỏ ngỏ thị trường này.
2.2.2.5. Các nhà cung cấp
Chi phí trực tiếp của các công trình thi công gồm chi phí vật liệu, máy móc và nhân công. Trong đó chi phí vật liệu và máy chiếm tỷ lệ cao nhất. Do vậy, những nhà cung cấp có ảnh hưởng lớn đến việc cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty. Nhà cung cấp chủ yếu gồm: các nhà cung cấp tài chính và các nhà cung cấp nguyên vật liệu.
Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản do đặc thù của sản phẩm nên thời gian thi công thường kéo dài, giá trị sản phẩm lớn nên việc ứ đọng các nguồn vốn là một tất yếu khách quan chưa kể đến các nguyên nhân do chủ đầu tư bố trí các nguồn vốn chậm hoặc kế hoạch vốn thường kéo dài nhiều năm. Do đó, tài chính là nhân tố tác động hết sức lớn đến các nhà thầu. Để khắc phục khó khăn và đáp ứng những yêu cầu của một số dự án, trong thời gian qua, Tổng Công ty đã phải ký kết với các nhà cung cấp tài chính tín dụng nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp của Tổng Công ty hoàn thành các công trình đúng thời hạn. Bên cạnh đó, do cơ cấu tổ chức của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là mô hình công ty mẹ con, nên việc huy động và hỗ trợ về tài chính giữa công ty mẹ và công ty con là tương đối hiệu quả.
Tuy nhiên, trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều vấn đề về tài chính với những dự án lớn, mà nguyên nhân là các nhà cung cấp cũng không thể đáp ứng hoàn toàn yêu cầu về tài chính của doanh nghiệp cho các dự án có vốn đầu tư lớn, kéo dài về thời gian thi công. Chính điều này đã dẫn đến việc một số công trình bị đình trệ, không hoàn thành đúng tiến độ thi công.
Cũng như các nhà cung cấp tài chính, việc thi công những công trình ở các vùng giao thông kém phát triển, vùng sâu, vùng xa thì việc tìm được một nhà cung ứng xi măng, sắt thép có đủ năng lực cung ứng cho các công trình lớn là điều rất khó khăn. Không những thế, từ năng lực cung cấp yếu về nguyên vật liệu của các doanh nghiệp tại nơi thực hiện dự án đã có tác động tiêu cực đến giá cả đầu vào của các doanh nghiệp xây lắp. Do đó, những phương án sử dụng và giá cả nguyên vật liệu trong hồ sơ dự thầu sẽ khác xa so với thực tế triển khai trong quá trình thực thi dự án. Đây cũng chính là một yếu tố rủi ro đối với các doanh nghiệp mà trong những năm qua Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị gặp phải. Những yếu tố này đã tác động rất lớn đến các nhà thầu khi xây dựng phương án thi công và giá dự thầu, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là những thị trường mới thâm nhập và khai thác.
2.3. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội
2.3.1. Kết quả cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty trong một số năm vừa qua (2001-2005)
Quy chế đấu thầu được ban hành đã tạo ra được hành lang pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu các công trình xây dựng có được sự bình đẳng, minh bạch và nhiều thuận lợi hơn. Thêm vào đó, từ khi có quy chế này, đã có sự tham gia nhiều hơn của các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, tạo ra sự sôi động thực sự trên thị trường xây dựng.
Những năm gần đây, Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đã không ngừng đầu tư, đổi mới thiết bị máy móc, dây chuyền công nghệ đồng bộ, tăng cường công tác điều hành quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề... tạo điều kiện cho Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị thắng thầu nhiều.
Tính đến cuối năm 2005, sau hơn một năm ra đời với tư cách là một Tổng Công ty, đơn vị đã được công luận và giới chuyên môn đánh giá là một trong 18 nhà kinh doanh hàng đầu hoạt động có hiệu quả và tiềm năng trên địa bàn Hà Nội. Tính đến cuối năm 2005, Tổng Công ty đã cạnh tranh và trúng thầu nhiều dự án mới và đang thực hiện 27 dự án đầu tư qui mô lớn gồm nhiều công trình kết cấu hạ tầng và đô thị lớn tại Hà Nội, như các khu đô thị Thăng Long, Yên Hòa, Trung Yên, Chèm - Cổ Nhuế, Hoàng Văn Thụ, Nam Hồng, Hạ Đình, Nghĩa Đô, Lộc Hạ v.v... Giá trị hợp đồng đạt 1.886 tỷ VNĐ, tăng 13,5% so với 2004 [12, tr. 26].
Những số liệu này cũng cho thấy, mặc dù trong những năm qua tình hình kinh tế đất nước có nhiều khó khăn, do đó, nhiều dự án, công trình xây dựng bị đình chỉ thi công do không có vốn, thị trường nhà đất bị đóng băng, nhưng số dự án mà Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị thắng thầu vẫn rất lớn, doanh thu tăng liên tục qua các năm. Hơn nữa, khi tham gia đấu thầu, Tổng Công ty luôn được các chủ đầu tư cho điểm và đánh giá rất cao về kinh nghiệm thi công và khả năng thực hiện các công trình đòi hỏi tiến độ và có tính chất phức tạp.
2.3.2. Thực trạng cạnh tranh đấu thầu và hoàn thành các gói thầu
2.3.2.1. Những đánh giá tổng quát về cạnh tranh đấu thầu và hoàn thành các gói thầu của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị
Kết quả cạnh tranh đấu thầu đã góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Mặc dù những năm gần đây tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, nhất là trong giai đoạn 1996-2000, tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn nền kinh tế chỉ đạt 6,7%/năm; giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt bình quân 7,5%/năm nhưng nhìn chung, từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ ở châu á (1997) nền kinh tế việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, sau năm 1997, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm qua các năm, điều này có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nhỏ bé có nguồn vốn chủ yếu dựa vào bên ngoài như Việt Nam. Thứ hai, nền kinh tế có những dấu hiệu cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế không vững chắc hay chất lượng tăng trưởng không cao - sự suy giảm về hiệu quả vốn đầu tư. Thứ ba, trong giai đoạn 2001-2005, giá cả hàng hóa ở Việt Nam trở nên phức tạp, hàng hóa cơ bản đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh liên tục tăng giá như xi măng, sắt thép, điện nước,... đã làm suy giảm khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế nói chung và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng cơ bản tuy lượng vốn được đầu tư tương đối lớn, nhưng do nền kinh tế gặp khó khăn nên lượng vốn được đầu tư vào khu vực này cũng suy giảm nhiều.
Trong bối cảnh đó, Tổng Công ty Đầu tư phát triển Hạ tầng Đô thị vẫn tham gia và thắng thầu được nhiều công trình xây dựng với giá trị và sản lượng lớn, giải quyết được công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động, nộp ngân sách hàng năm hàng chục tỷ đồng. Điều này thể hiện trong bảng số liệu tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh của toàn Tổng Công ty giai đoạn 2001- 2005.
Bảng 2.4