MỞ ĐẦU . 4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU. 7
1.1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CHẤM LƯỢNG TỬ . 7
1.1.1 Chấm lượng tử là gì? . 7
1.1.2. Một số hiệu ứng đặc biệt của chấm lượng tử . 8
1.1.2.1. Hiệu ứng bề mặt. 8
1.1.2.2. Hiệu ứng giam giữ lượng tử (hiệu ứng kích thước). 9
1.1.2.3. Hiệu ứng thụ động hóa bề mặt và dịch chuyển Stark . 12
1.1.3. Tính chất quang của chấm lượng tử . 12
1.1.4. Truyền năng lượng và truyền điện tích giữa các chấm lượng tử bán
dẫn. 16
1.1.5. Hiệu ứng truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang.17
1.1.6. Tiềm năng ứng dụng của chấm lượng tử. 18
1.1.6.1. LED chấm lượng tử (QLED). 18
1.1.6.2. Đánh dấu sinh học . 19
1.1.6.3. Đóng ngắt quang học. 21
1.1.6.4. Màn hình sống động nhờ chấm lượng tử . 21
1.1.6.5. Các linh kiện chuyển đổi năng lượng mặt trời . 21
1.2. TỔNG QUAN VỀ HẠT NANO LaF3:Ce3+ VÀ CHẤM LƯỢNG TỬ
CdSeS. 22
1.2.1. Vật liệu phát quang. 22
1.2.1.1. Vật liệu phát quang là gì?. 22
1.2.1.2. Cơ chế phát quang của vật liệu phát quang . 22
1.2.2. Vật liệu LaF3. 24
89 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 793 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chấm lượng tử (quantum dots) tổng hợp, khảo sát một số tính chất vật lý và tiềm năng ứng dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LaF3: a) Cấu trúc nhóm đối xứng
3
6P /mmc; b) Góc nhìn ngang; c) Góc nhìn từ trên xuống [24].
Bảng 1.2 thể hiện hằng số mạng và tọa độ tinh thể của LaF3 nhóm đối
xứng 3 1P c [24].
Bảng 1.2. Hằng số mạng và tọa độ tinh thể của LaF3 nhóm đối xứng 3 1P c
Hằng số mạng a = b = 7,187 Å; c = 7,350 Å
Tọa độ tinh thể X Y Z
La 0,6598 0 1/4
F(1) 0,3659 0,0536 0,0813
F(2) 1/3 2/3 0,1859
F(3) 0 0 1/4
LaF3 là vật liệu có nhiều tính chất đặc biệt như: Ít tan trong nước, độ ổn
định nhiệt độ cao, không độc hại,... Một số tính chất lý hóa của LaF3 được liệt
kê trong bảng 1.3.
26
Bảng 1.3. Một số tính chất lý hóa của LaF3 [24].
Cấu trúc tinh thể Lục giác
Khối lượng phân tử 159,9 g/mol
Độ rộng vùng cấm ~ 10,1 eV
Năng lượng dao động phonon ~ 350 cm-1
Khối lượng riêng 5900 kg/m3
Nhiệt độ nóng chảy 14930C
Miền truyền qua 130 nm đến 10 m
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, vật liệu nano LaF3 khi pha tạp các ion
RE3+ phát quang mạnh tại nhiệt độ phòng, phổ kích thích huỳnh quang và
huỳnh quang gồm các dải hấp thụ và bức xạ hẹp và trải rộng từ vùng tử ngoại
đến hồng ngoại. Vật liệu LaF3 có thể được tạo thành với các hình thái học
khác nhau như dạng hạt nano, hạt nano cấu trúc vỏ, dây nano, tấm nano,...
phụ thuộc vào các phương pháp chế tạo và điều kiện chế tạo khác nhau [24].
1.2.3. Ion Ce3+
1.2.3.1. Cấu hình điện tử của ion Ce3+
Bảng 1.4. Cấu hình điện tử của ion Ce3+.
Số hiệu
nguyên
tử
Ion Nguyên
tố
tương
ứng
Điện
tử 4f
S L J Trạng
thái cơ
bản
Bán kính
nguyên tử
(Å)
58 Ce3+ Xe 4f1 1/2 3 5/2 2F5/2 1,034
27
Xeri là nguyên tố đất hiếm thuộc nhóm lanthanides có cấu hình điện tử
giống như của nguyên tố Xenon (Xe: 1s22s22p63s23p63d104s24p64d0) nhưng có
thêm hai lớp 5s25p6 .
1.2.3.2. Đặc điểm của mức năng lượng 4f
Ion Ce3+ có lớp điện tử 4f chưa được lấp đầy nằm sâu bên trong so với
các lớp 5s, 5p đã được lấp đầy và bị che chắn bởi các lớp này nên điện tử lớp
4f của ion Ce3+ đất hiếm tương tác yếu với mạng tinh thể (phần năng lượng
đóng góp do tương tác này chỉ vào khoảng 0,01 eV), ít bị ảnh hưởng bởi môi
trường nhưng chúng tương tác khá mạnh với nhau. Mặc dù nguyên tố Xeri đã
nằm tại các nút mạng tinh thể nhưng nó vẫn có mức năng lượng xác định đặc
trưng riêng. Ion Ce3+ được sử dụng như các tâm phát quang trong các chất
phát quang. Các mức này ít chịu ảnh hưởng của trường tinh thể. Khi có sự
chuyển dời của các điện tử giữa các mức năng lượng của lớp 4f sẽ cho bức xạ
nội tâm. Đặc điểm này hoàn toàn ngược lại với các ion kim loại chuyển tiếp,
các điện tử lớp 3d nằm ở quỹ đạo ngoài cùng nên chịu ảnh hưởng bởi môi
trường và trường tinh thể [5, 22].
1.2.3.3. Các chuyển dời điện tích của trạng thái 4f
Các tương tác spin - spin và spin - quỹ đạo giữa các điện tử của vỏ 4f
xác định các mức năng lượng, do hiệu ứng bao bọc của các lớp vỏ bên
ngoài - lớp 5s và 5p, điện trường gây ra bởi các nguyên tử bên cạnh tác dụng
lên hàm sóng của điện tử ở lớp 4f gây ra tách mức năng lượng suy biến do
hiệu ứng Stark. Cơ chế tách vạch Stark kết hợp với sự mở rộng vạch đồng đều
và không đồng đều, xác định bề rộng năng lượng của các dịch chuyển quang
học giữa các mức năng lượng. Trạng thái kích thích 5d1 bị ảnh hưởng bởi
trường tinh thể và phân chia thành 2 đến 5 trạng thái tùy thuộc vào sự đối
xứng của tinh thể. Sự phát xạ của Ce3+ bắt nguồn từ trạng thái 5d thấp nhất và
sự phân tách trạng thái cơ bản 2000 cm-1 giữa mức 2F5/2 và 2F7/2 (Hình 1.14)
dẫn đến dải phát xạ đỉnh kép đặc trưng cho Ce3+ với tuổi thọ 20 - 70 ns [5].
28
Hình 1.14. Các mức năng lượng của các ion Ce3+ trong một mạng nền. Năng
lượng của quá trình chuyển đổi f-d bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng nephelauxetic,
tách trường tinh thể và dịch chuyển Stokes [5].
1.2.4. Các đặc điểm huỳnh quang của tinh thể LaF3 pha tạp ion
Ce3+
Các vật liệu quang học họ florua, đặc biệt là các tinh thể LaF3 pha tạp
các ion Ce3+ là một trong những vật liệu được nghiên cứu nhiều do chúng có
các ưu điểm vượt trội so với vật liệu khác như:
Vùng cấm rộng: Tinh thể LaF3 có vùng cấm khoảng 10,1 eV [4], trong
khi ở các thủy tinh oxit khoảng từ 2,5 đến 4,5 eV. Độ rộng vùng cấm lớn cho
phép vật liệu phát ra các bức xạ có mức năng lượng cao, ví dụ đối với vật liệu
LaF3 chứa ion Ce3+ người ta quan sát thấy phát xạ xung quanh bước sóng
310 nm trong vùng tử ngoại ứng với chuyển dời 5d → 4f [25, 26].
Thời gian sống của các mức ndn và 4f dài: Thời gian sống dài thuận
lợi cho quá trình “chuyển đổi ngược - upconversion” và phát xạ laser [25, 26].
Năng lượng phonon thấp: Trong tinh thể LaF3, năng lượng dao động
phonon thấp 350 cm-1, trường tinh thể ở mức độ trung bình, do đó quá trình
phục hồi đa phonon của trạng thái kích thích trong ion Ce3+ có xác suất nhỏ
nhất, dẫn đến việc làm giảm tốc độ chuyển dời không bức xạ và làm tăng hiệu
suất lượng tử huỳnh quang, thời gian sống kéo dài [25, 26].
Cường độ của trường tinh thể trung bình và hiệu ứng nephelauxetic
yếu: Do F- là ion có độ âm điện cao nhất trong số các anion (≈ 4, theo thang
29
Pauling) nên liên kết Ce3+-F- mang tính ion mạnh, tức là hiệu ứng
nephelauxetic yếu hơn so với liên kết Ce3+-O-. Điều này sẽ giảm thiểu quá
trình đa phonon, dẫn đến hiệu suất lượng tử trong vật liệu LaF3 thường lớn
hơn so với các vật liệu oxit. Ảnh hưởng của trường tinh thể trong tinh thể
LaF3 yếu và do đó sự tách mức Stark trong tinh thể LaF3 yếu hơn trong oxit
nhưng mạnh hơn so với các halogen khác [25, 26].
Hình 1.15. Cấu hình mức năng lượng bên trong của ion Ce3+
và ion Ce3+ pha tạp vào mạng nền LaF3 [4].
Trong suốt trong một miền phổ rộng: Dải phổ truyền qua tốt đối với
LaF3 là từ 130 nm đến 10 m . Ngoài ra, LaF3 còn có độ bền khá cao với nhiệt
độ môi trường. Vì vậy, hợp chất LaF3 được cho là vật liệu nền lý tưởng để
pha tạp ion Ce3+ có khả năng phát quang mạnh trong một miền phổ rộng từ tử
ngoại đến hồng ngoại [25].
Vật liệu LaF3:Ce3+ được nhiều nhóm tác giả đã và đang nghiên cứu ở
kích thước cỡ nano để tạo ra các vật liệu phát quang có màu sắc khác nhau
[26 - 33]. Một trong các ưu điểm của vật liệu LaF3:Ce3+ đã được ứng dụng
trong y sinh, vật liệu phát quang. Vật liệu LaF3:Ce3+ được chế tạo ở nhiệt độ
thường, tần số dao động phonon thấp, độ bền cơ học cao, đặc biệt thân thiện
với cơ thể con người và môi trường.
Trên thế giới, chúng ta có thể điểm qua một vài thí dụ điển hình như
năm 2006, Wang và cộng sự là nhóm đầu tiên tổng hợp thành công LaF3 pha
30
tạp Eu3+, Ce3+, Tb3+ và Nd3+ hòa tan trong nước ở nhiệt độ thấp bằng kỹ thuật
đồng kết tủa [27]. Các tinh thể nano La0,4F3:Ce0,45,Tb0,15 mà nhóm tổng hợp
có dạng gần như hình cầu và kích thước trung bình khoảng 30 nm. Chúng bao
gồm các pha lục giác kết tinh tốt. Hiệu suất lượng tử phát quang khoảng 16%
trong dung dịch nước. Tinh thể nano LaF3 pha tạp với các ion lanthanide khác
nhau (Eu3+, Ce3+, Tb3+ và Nd3+) được tổng hợp cho thấy sự phát quang mạnh ở
vùng phổ nhìn thấy (VIS) và cận hồng ngoại (NIR). Năm 2008, phát quang tia
X của các hạt nano LaF3:Ce3+,Tb3+ và LaF3:Tb3+ hòa tan trong nước đã được
Liu và cộng sự công bố, và tiềm năng của nó để ứng dụng phát hiện bức xạ
trong nước đã được nghiên cứu. Các hạt nano LaF3:Ce3+,Tb3+ chế tạo được có
dạng gần hình cầu và kính thước khoảng 20 nm. Riêng hạt nano LaF3:Tb3+ có
dạng hình cầu và kính thước từ 10 đến 15 nm (Hình 1.16) [28].
Hình 1.16. Ảnh TEM của hạt nano: a) LaF3:Ce3+, Tb3+; b) LaF3:Tb3+ [28].
Tiếp đến, năm 2012, Srinivasan và cộng sự đã tổng hợp các hạt nano
LaF3:Ce
3+ bằng phương pháp đồng kết tủa [29]. Sau đó, họ nhúng hạt nano
vừa tổng hợp vào gel hydro-polyacrylamide (PAM) để nghiên cứu tính chất
quang. Cùng năm đó, Lisha Zhang và cộng sự đã tổng hợp các hạt nano
LaF3:Ce, Tb có kích thước 6 nm có độ phân tán cao trong nước thể hiện sự
phát xạ màu xanh lá cây mạnh với năng suất lượng tử cao 50% dưới kích
thích 254 nm [30].
Năm 2016, José M. Vargas và cộng sự đã chế tạo các NC LaF3:Ce3+
pha tạp nồng độ ion Ce3+ 2% có đường kính 4,5 nm và LaF3:CeYbGd có
đường kính 7,2 nm bằng cách kết tủa keo linh hoạt. Các NC này được ứng
31
dụng cho phát hiện neutron và quang phổ gamma [31]. Các giá trị hình thái và
cấu trúc của mẫu NC LaF3:CeYbGd và LaF3:Ce3+ được tóm tắt trong bảng
1.5.
Bảng 1.5. Các giá trị và thông số chính thu được từ các mẫu nghiên cứu của
NC lanthanum fluoride pha tạp và mẫu đối chứng [31].
Mẫu Nồng độ
dung dịch
(wt%=g/ml)
Kích
thước
trung
bình (nm)
SD
(nm)
Kích
thước
trung bình
(nm)
/E E
(%FWHM)
LaF3:Ce 0,66 7,3 2,2 4,5 ----
LaF3:CeYbGd 0,70 8,6 2,3 7,2 9,9
Sau đó, đến năm 2017, Elena Lukinova và cộng sự đã pha tạp các ion
Ce3+ nồng độ 12% vào các hạt nano LaF3 bằng phương pháp đồng kết tủa và
sau đó điều chỉnh các hạt nano vừa tổng hợp bằng cách sử dụng phương pháp
thủy nhiệt kết hợp xử lý vi sóng. Mục đích của việc này là nghiên cứu tính
chất phân rã phát quang của các ion Ce3+ trong hạt nano LaF3 sau khi xử lý
thủy nhiệt bằng lò vi sóng [32].
Cùng với nghiên cứu về vật liệu nano thì vấn đề tăng hiệu suất phát
quang cũng được quan tâm. Các nhà khoa học đã thử nghiệm tổng hợp cấu
trúc lõi - vỏ và cho kết quả rất khả quan. Lõi là mạng nền có chất pha tạp. Vỏ
có thể cùng vật liệu nền hoặc bất kỳ oxit kim loại nào. Cấu trúc vỏ đóng vai
trò như một bộ khuếch đại ánh sáng bằng cách giảm sự truyền bức xạ và đồng
thời tham gia vào quá trình truyền năng lượng đến lõi. Thực nghiệm cho thấy,
cấu trúc lõi – vỏ đã góp phần tăng hiệu suất phát quang. Chính vì thế, năm
2009, Meng-Yin Xie và cộng sự đã tổng hợp các tinh thể nano LaF3:Ce,Tb/
LaF3 và LaF3:Nd/LaF3 có cấu trúc lõi - vỏ bằng phương pháp đồng kết tủa
dựa trên dung dịch đơn giản. Các NC lõi - vỏ thể hiện cường độ phát xạ và
năng suất lượng tử tăng so với các NC LaF3:Ce,Tb (Hình 1.17) [33].
32
Hình 1.17. a) Phổ hấp thụ và kích thích của NC lõi - vỏ LaF3:Ce3+,Tb3+/ LaF3;
b)Phổ phát xạ của LaF3:Ce3+,Tb3+ (I) và NC lõi - vỏ LaF3:Ce3+,Tb3+/ LaF3 (II);
Hình nhỏ: Hình ảnh huỳnh quang màu xanh lá cây từ hai mẫu này [33].
Tiếp đến năm 2017, Navadeep Shrivastava đã chế tạo các hạt nano
LaF3:xCe
3+,xGd3+,yEu3+ bằng phương pháp tổng hợp polyol. Nhóm đã kết
hợp các hạt nano oxit sắt/ZnS bằng phương pháp đồng kết tủa để tạo thành
hạt nano Fe3O4/ZnS@LaF3:xCe3+,xGd3+,yTb3+ với chức năng quang học và từ
tính hiệu quả cho tiềm năng ứng dụng trong phát hiện bức xạ [26].
Tại Việt Nam, một số nhóm nghiên cứu về tính chất quang của các ion
RE3+ pha tạp vào mạng nền thủy tinh hoặc tinh thể như: Nhóm nghiên cứu
của GS. Vũ Xuân Quang tại Viện khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm khoa học
Việt Nam, nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Duy Tân, nhóm nghiên cứu
tại Viện nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Nha Trang [25]. Năm 2019,
nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia
Hà Nội đã chế tạo thành công các hệ vật liệu có cấu trúc NC LaF3 pha tạp các
ion RE3+(Sm3+, Ho3+, Eu3+) bằng phương pháp thủy nhiệt [24]. Kích thước các
hạt tinh thể nano này có giá trị từ 16 - 34 nm đáp ứng tốt cho các nghiên cứu
về quang phổ. Mặc dù, việc áp dụng và nghiên cứu đối với mạng nền là các
NC ở nước ta đã có những thành công bước đầu nhưng theo tìm hiểu của
chúng tôi thì chưa có nghiên cứu nào trong nước đề cập đến mạng nền là NC
lanthanum fluoride LaF3 pha tạp ion đất hiếm Ce3+. Vì thế, trong luận văn này,
chúng tôi sử dụng phương pháp hóa học ướt để chế tạo NC LaF3:Ce3+ đồng
33
thời khảo sát tính chất quang của tinh thể vừa tổng hợp để có định hướng ứng
dụng trong tương lai.
1.2.5. Chấm lượng tử CdSeS
Các cấu trúc nano CdSeS không chiều có ưu điểm: Hiệu suất phát
quang cao, màu đơn sắc và khả năng điều chỉnh năng lượng vùng cấm trong
vùng ánh sáng khả kiến để tạo ra điốt phát sáng (LED) [34] dùng thay thế cho
các đèn LED vô cơ hoặc hữu cơ thông thường và dùng trong pin mặt trời
nhạy quang [35]. Ngoài ra, QDs CdSeS còn có độ sáng cao, độ hấp thụ rộng
và phổ phát xạ sắc nét, có thể điều chỉnh cực đại phát xạ và thời gian phát
quang dài, được sử dụng cho ghi nhãn huỳnh quang [36], hình ảnh in vivo
[37, 38], quang điện [39] và các ứng dụng khác [40, 41].
Đối với các QDs hoặc các NC CdSeS, độ rộng vùng cấm có thể điều
chỉnh thông qua kích thước, thành phần cấu tạo và các cấu trúc bên trong (như
đồng nhất hoặc gradient) của chúng [42]. Chấm lượng tử CdSeS đồng nhất có
cấu trúc bên trong đồng nhất, các thành phần giống nhau ở mọi nơi trên một
chấm lượng tử đơn. Chấm lượng tử CdSeS gradient có các thành phần hợp
kim được thay đổi hoàn toàn; cụ thể là tỷ lệ của S và Se thay đổi dần dần từ
lõi đến bề mặt. Tuy nhiên, ở cấu trúc bên trong gradient không có ranh giới rõ
ràng giữa lõi giàu Se và vỏ giàu S như các cấu trúc lõi - vỏ truyền thống. Có
thể mô tả ba cấu trúc điển hình của QDs CdSeS như trong Hình 1.18 [43].
Hình 1.18. Các QDs CdSeS điển hình: a) Cấu trúc bên trong Gradient;
b) Cấu trúc bên trong đồng nhất; c) Cấu trúc lõi - vỏ
34
Các NC hợp kim gradient có các tính chất quang học khác biệt so với
các hợp kim đồng nhất [44]. Để đạt được hợp kim đồng nhất, tốc độ tăng
trưởng của hai vật liệu cấu thành phải bằng nhau [3, 44] và các điều kiện cần
thiết cho sự tăng trưởng của thành phần này không thể cản trở sự tăng trưởng
của thành phần kia [45]. Các QDs CdSeS có cấu trúc bên trong khác nhau có
thể được điều chế thông qua các phương pháp tổng hợp tương tự bằng cách sử
dụng tiền chất selen và lưu huỳnh [43]. Năng lượng vùng cấm có thể điều
chỉnh được bằng cách điều chỉnh kích thước, cấu trúc hình học, thành phần
cấu tạo hoặc cấu trúc bên trong. Vì thế, tính chất quang của các QDs hoặc NC
CdSeS có thể điều chỉnh được ngay cả khi kích thước của nó không đổi (Hình
1.19). Điều này cho phép các ứng dụng đầy hứa hẹn trong nhiều lĩnh vực đặc
biệt. Ví dụ, trong hình ảnh in vivo, các chấm lượng tử CdSeS rất nhỏ với kích
thước nhất định, có thể đạt được các màu phát quang như yêu cầu.
Hình 1.19. a) Phổ hấp thụ và b) phổ phát xạ của các QDs CdSe1-xSx với
x = 0,35, x = 0,5 và x = 0,65 [46].
Các loại QDs hoặc các NC CdSeS khác nhau đã được điều chế thành
công bằng các phương pháp tổng hợp khác nhau. Ngay từ năm 2001, Elbaum
và cộng sự đã chế tạo ra các tinh thể CdSe1-xSx (0<x<1) với sự phân bố kích
thước thay đổi trong khoảng từ 5 đến 10 nm bằng phương pháp kết tủa [47].
Tuy nhiên, phương pháp này thường dẫn đến các tinh thể có tính chất bề mặt
có thể thay đổi đáng kể. Nhưng đối với các NC bán dẫn có tỷ lệ bề mặt so với
35
thể tích rất lớn, tính chất của chúng thường rất nhạy cảm với các bề mặt [48].
Sau đó, vào năm 2003, Jang và cộng sự đã chế tạo các QDs CdSeS phát
quang cao thông qua phương pháp tổng hợp tiêm nóng nhanh, thu được các
QDs CdSeS có hiệu suất lượng tử lên tới 85% và FWHM khoảng 34 nm, thể
hiện các tính chất phát quang có thể điều chỉnh được từ vùng màu đỏ sang
màu xanh [3]. Trong khi đó, các tác giả cũng tuyên bố rằng thật khó để đánh
giá cấu trúc của các QDs của họ là lõi - vỏ hoặc gradient. Năm 2005, Qian và
cộng sự đã trình bày một cách tiếp cận thông qua mầm trung gian để tổng hợp
nhanh chóng các QDs hợp kim (CdSe-CdS) chất lượng cao trong pha nước
bằng phương pháp chiếu xạ vi sóng [49]. Mặc dù các QDs được chế tạo trong
pha nước có khả năng hòa tan trong nước tuyệt vời nhưng tính ổn định và khả
năng tương thích sinh học, năng suất lượng tử của chúng thường rất thấp do
các bẫy nghiêm trọng trên bề mặt của chúng. Năm 2006, Swafford và cộng sự
chế tạo các hợp chất hợp kim CdSe1-xSx với cấu trúc bên trong đồng nhất theo
mọi tỷ lệ bằng phương pháp tổng hợp nhiệt phân dựa trên phương pháp nóng
chảy nhanh và họ đã báo cáo rằng hình thái của các NC đã tổng hợp có thể
được thay đổi bằng cách thay đổi các điều kiện phản ứng, tạo ra các cấu trúc
khác nhau từ các NC hình cầu, đồng nhất đến các nanorod gradient một chiều
[45]. Nhưng các QDs này cũng cho thấy độ sâu của các bẫy phát xạ đáng kể,
làm giảm năng suất lượng tử và phương pháp này không phù hợp để sản xuất
quy mô lớn và không thân thiện vì nó sử dụng hợp chất hữu cơ chứa phốt
phát. Vào năm 2009, Ouyang và cộng sự đã dùng phương pháp one-pot,
không tiêm để chế tạo các NC CdSeS hợp kim đồng nhất [42]. Các QDs
CdSeS thu được dễ dàng điều chỉnh để phát ra các photon trong phạm vi
470 - 550 nm của phổ điện từ. Phương pháp này là một cách tiếp cận xanh với
việc tránh phốt phát, nhưng năng suất lượng tử dưới 5% và đáng chú ý là
2,2’-dithiobisbenzothiazole được sử dụng làm chất khởi tạo mầm trong quá
trình tổng hợp và chất khởi tạo mầm là chìa khóa để chế tạo thành công các
QDs chất lượng cao [50]. Để làm cho phương pháp xanh hơn, năm 2010, Zou
và cộng sự đã chế tạo các QDs hợp kim CdSe1-xSx với độ đơn sắc cao và phân
bố kích thước hẹp theo phương pháp không phun và không sử dụng chất khởi
tạo mầm [51]. Tuy nhiên, năng suất lượng tử vẫn còn khá thấp. Trong 2013,
36
Tosun và cộng sự đề xuất phương pháp nhiệt hai pha để điều chế các NC
ternary CdSe1-xSx mà không cần tiêm kết quả thu được các NC CdSe1-xSx phát
quang cao với năng suất lượng tử cao khoảng 90% ở nhiệt độ thấp, nhưng
trong phương pháp này, hợp chất hữu cơ chứa phốt phát cũng được sử dụng
[52].
Ở nước ta, năm 2016, nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học công
nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã chế tạo vật liệu CdSe/CdS cấu trúc nano
dạng tetrapod (TP) bằng phương pháp hóa học ướt [53]. Tác giả đã trình bày
tính chất quang phổ của TP CdSe, TP CdSe/CdSe1-xSx, TP-giếng lượng tử lõi
(ZB-CdSe)/nhánh(WZ-CdSe/CdSe1-xSx/CdSe1-ySy/CdSe1-zSz) có kích thước
khác nhau và sự phụ thuộc các đặc trưng phát xạ của chúng vào công suất
kích thích quang và nhiệt độ. Năm 2017, nhóm nghiên cứu của GS. Vũ Xuân
Quang tại Viện khoa học Vật liệu, Viện Hàn lâm khoa học và Công nghệ Việt
Nam, nhóm nghiên cứu tại trường Đại học Duy Tân đã chế tạo các chấm
lượng tử hợp kim Ternary CdSexS1-x (0<x<1) bằng phương pháp hóa học ướt
[54]. Các hình ảnh TEM của CdSe0,25S0,25 và CdSe0,75S0,25 với thời gian tăng
trưởng 7 giờ được hiển thị tương ứng trong Hình 1.20 a và b.
Hình 1.20. Ảnh TEM điển hình của các QDs hợp kim:
a) CdSe0,25S0,25 và b) CdSe0,75S0,25 [54].
Có thể thấy rằng các hạt nano có hình dạng hình cầu với độ đơn sắc tốt
và được phân bố đồng đều. Kích thước hạt trung bình được tính toán là 7 nm
37
khi x = 0,25 và 7,5 nm khi x = 0,75, chứng tỏ kích thước hạt trung bình tăng
theo hàm lượng Se [54].
Về đặc tính quang học, các nhóm này cũng chỉ tập trung nghiên cứu
quang phổ hấp thụ của QDs hợp kim Ternary CdSexS1-x dưới tác dụng của UV
và quang phổ phát quang dưới bước sóng kích thích 400 nm chứ chưa nghiên
cứu cường độ phát xạ của QDs CdSeS khi bị kích thích bởi tia X. Vì thế,
trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp hóa học ướt để chế tạo
QDs hợp kim CdSeS đồng thời khảo sát quang phổ phát xạ theo thời gian
tổng hợp, nghiên cứu cường độ phát xạ của QDs CdSeS khi bị kích thích bởi
tia X, thử nghiệm kết hợp với NC LaF3:Ce3+ đã tổng hợp để có định hướng
ứng dụng trong tương lai.
38
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. HÓA CHẤT, NGUYÊN VẬT LIỆU
2.1.1. Hoá chất
Các hóa chất sử dụng trong luận văn được liệt kê ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Các hóa chất sử dụng
STT Tên hóa chất Công thức Hãng sản
xuất
Thành
phần
1 Lantan(III) nitrat La(NO3)3 Aldrich 99,999%
2 Xeri nitrat Ce(NO3)3 Alfa 99,99%
3 Amoni fluorua NH4F Alfa 99,99%
4 Polyetylen glycol PEG Aldrich
5 Dimethyl sulfoxide DMSO Aldrich 99,5%
6 Cadmium oxide CdO Aldrich 99,99%
7 Axit Oleic C18H34O2 Aldrich 90%
8 1-Octadecene C18H36 Aldrich 90%
9 Selen Se Aldrich 99,99%
10 Lưu huỳnh S Aldrich 99,998%
11 Tri-n-octylphosphine TOP Alfa 90%
12 Ethanol C2H6O hoặc
C2H5OH
Aldrich 90%
13 Hexane C6H14 Junsei 96%
39
14 Methyl methacrylate MMA
15 Polymethyl methacrylate PMMA
16 Azobisisobutyronitrile AIBN
17 Nước cất
18 Nước khử ion
( Nước D.I)
19 Khí argon Ar
2.1.2. Dụng cụ thực nghiệm
Các dụng cụ được sử dụng trong quá trình chế tạo mẫu bao gồm:
- Ống pipét: loại 1 ml, 2 ml, 10 ml.
- Cốc thuỷ tinh chịu nhiệt: 10 ml, 50 ml.
- Khuấy từ, thanh teflon,
- Các bình thủy tinh, đũa thủy tinh,...
Các dụng cụ thực nghiệm được rửa sạch bằng nước cất và sấy khô
trong tủ sấy ở nhiệt độ 90oC trong thời gian 1 giờ.
2.1.3. Các thiết bị để tạo ra các phản ứng hóa học
Các thiết bị sử dụng chế tạo mẫu bao gồm:
- Máy rung siêu âm
- Máy khuấy từ
- Bếp nung và giữ nhiệt
- Máy quay li tâm
40
Hình 2.1. Một số thiết bị dùng trong quá trình chế tạo vật liệu: a) Bình cầu ba
cổ; b) Bếp nung và giữ nhiệt c) Máy khuấy từ gia nhiệt; d) Máy quay li tâm
và e) Tủ sấy.
2.2. PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP VẬT LIỆU NANO LaF3:Ce3+/CdSeS
2.2.1. Phương pháp chế tạo vật liệu nano
Trong những năm qua, việc chế tạo NC có kích thước từ 1 đến 100 nm
đã phát triển mạnh mẽ trên cả lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng. Những tính chất điện, quang, từ và cả tính chất hóa học đặc biệt của vật
liệu nano phụ thuộc rất nhiều vào kích thước hạt.
Có hai phương pháp để tổng hợp vật liệu nano: Phương pháp từ trên
xuống (top–down) và phương pháp từ dưới lên (bottom–up).
Phương pháp từ trên xuống (top–down) thường là các phương pháp vật
lý được thực hiện bằng cách nghiền vật liệu khối thành các tinh thể có cấu
trúc nano. Phương pháp này có ưu điểm là tổng hợp được lượng lớn các hạt
nano, nhưng sự đồng đều kích thước hạt không cao do khó điểu khiển được
kích thước hạt.
Phương pháp từ dưới lên (bottom–up) thường là các phương pháp hóa
học, người ta lắp ghép những hạt có kích thước cỡ nguyên tử, phân tử hoặc cỡ
nano mét để tạo ra các vật liệu có cấu trúc nano và tính chất mong muốn.
Phương pháp từ dưới lên có thể là phương pháp vật lý, hóa học hoặc kết
hợp cả hai phương pháp hóa - lý.
41
- Phương pháp vật lý: Gồm các phương pháp: Bốc bay nhiệt (đốt, phún
xạ, phóng điện hồ quang,...) hay phương pháp chuyển pha.
- Phương pháp hóa học: Gồm có hai loại:
* Hình thành vật liệu nano từ pha lỏng (còn được gọi là phương pháp
hóa học ướt): Phương pháp sol–gel (sol–gel method), phương pháp thủy nhiệt
(hydrothermal method), phương pháp đồng kết tủa, phương pháp phun nóng
sử dụng dung môi hữu cơ có nhiệt độ sôi cao (hot-injection method),...
* Hình thành vật liệu nano từ pha khí: Nhiệt phân,....
- Phương pháp kết hợp hoá-lý: Là phương pháp tạo vật liệu nano dựa
trên các nguyên tắc vật lý và hóa học như: Điện phân, ngưng tụ từ pha khí,...
Các phương pháp vật lý từ dưới lên có ưu điểm là dễ tạo ra các màng
mỏng cấu trúc nano có độ sạch và chất lượng tinh thể cao. Tuy nhiên, các
phương pháp vật lý này thường yêu cầu thiết bị phức tạp, cần có sự đầu tư
lớn, không phù hợp với hoàn cảnh thực tế của một nước đang phát triển.
Trong khi đó, các phương pháp hoá học với đầu tư trang thiết bị không lớn,
dễ triển khai, có thể cho sản phẩm với giá thành hạ, thích hợp trong điều kiện
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở Việt Nam. Hơn nữa, tổng hợp
hoá học cho phép thực hiện được ở mức độ phân tử để chế tạo các vật liệu, là
cơ sở của kỹ thuật đi từ dưới lên trong công nghệ nano. Việc khống chế hình
dạng, kích thước hạt và sự phân bố kích thước có thể được thực hiện ngay
trong quá trình chế tạo. Thực tế đã chứng tỏ rằng có thể chế tạo được những
vật liệu có cấu trúc nano/chấm lượng tử bán dẫn chất lượng cao bằng phương
pháp hoá học. Vì thế, trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi chọn phương
pháp hóa học ướt – Phương pháp từ dưới lên để chế tạo hạt nano LaF3:Ce3+
trong dung dịch DMSO, chấm lượng tử CdSeS và vật liệu nano
LaF3:Ce
3+/CdSeS.
Sau đây chúng tôi giới thiệu ba phương pháp thuộc nhóm hóa học ướt
tiêu biểu: Phun nóng sử dụng dung môi hữu cơ có nhiệt độ sôi cao, đồng kết
tủa, thủy nhiệt.
42
2.2.2. Phương pháp phun nóng sử dụng dung môi hữu cơ có nhiệt
độ sôi cao để chế tạo vật liệu có cấu trúc nano và chấm lượng tử bán dẫn
Theo tài liệu [5, 54 - 64], phương pháp phun nóng tổng hợp hạt nano
CdSeS được mô tả bởi các quá trình như sau:
- Quá trình tạo mầm vi tinh thể: Trong quá trình này, chúng tôi chuẩn
bị sẵn hai dung dịch. Dung dịch thứ nhất gọi là dung dịch A là hỗn hợp của
các tiền chất và chất hoạt động bề mặt, được nâng đến nhiệt độ cao. Dung
dịch thứ hai gọi là dung dịch B gồm có tiền chất Selen và Lưu huỳnh được
giữ ở nhiệt độ phòng. Dung dịch B sau đó được phun vào dung dịch A tạo
phản ứng. Lúc này, quá trình tạo thành các mầm vi tinh thể diễn ra trong bình
phản ứng với nồng độ của các tiền chất đều quá bão hòa. Các mầm vi tinh thể
được sinh ra đồng thời trong môi trường quá bão hòa nên có hình thái và tính
chất khá đồng nhất.
- Quá trình phát triển tinh thể nano: Ngay khi các mầm vi tinh thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_cham_luong_tu_quantum_dots_tong_hop_khao_sat_mot_so.pdf