Luận văn Chặng đường 6 năm của Thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng và Giải pháp

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU. 1

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀTHỊTRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 5

1.1 Tổng quan vềthịtrường chứng khoán . 5

1.1.1 Tính tất yếu và sựra đời của thịtrường chứng khoán trên thếgiới . 5

1.1.2 Các chủthểtham gia thịtrường. 7

1.1.3 Vai trò của thịtrường chứng khoán . 9

1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của TTCK . 13

1.2 Giới thiệu thịtrường chứng khoán Việt Nam. 14

1.2.1 Hoàn cảnh ra đời. 14

1.2.2 Cơcấu tổchức . 16

1.2.2.1 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. HồChí Minh . 16

1.2.2.2 Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. 18

1.2.3 Khung pháp lý của TTCK Việt Nam . 21

1.3 Kinh nghiệm phát triển TTCK của một sốquốc gia trong khu vực . 24

1.3.1 Thịtrường chứng khoán Trung Quốc . 24

1.3.2 Thịtruờng chứng khoán Hàn Quốc . 25

1.3.3 Thịtrường chứng khoán Thái Lan. 26

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA THỊTRƯỜNG CHỨNG

KHOÁN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 29

2.1 Bối cảnh chung của nền kinh tếViệt Nam trong tiến trình hội nhập . 29

2.1.1 Tình hình kinh tế- xã hội Việt Nam trong những năm qua (từnăm 1990 đến nay) . 29

2.1.2 Tác động của hội nhập kinh tếquốc tế đối với nền kinh tếvà sựphát triển

của TTCK Việt Nam . 33

2.2 Kết quảhoạt động của TTCK Việt Nam trong những năm qua (7/2000 – 7/2006). 37

2.2.1 Tình hình hoạt động của TTGDCK TP. HồChí Minh . 37

2.2.2 Tình hình hoạt động tại TTGDCK Hà Nội . 55

2.3 Đánh giá các mặt còn tồn tại và phân tích nguyên nhân . 63

2.3.1 Quy mô hàng hoá trên thịtrường còn hạn chế. 63

2.3.2 Những tồn tại trong hoạt động của TTGDCK TP.HồChí Minh . 68

2.3.3 Những tồn tại trong hoạt động của TTGDCK Hà Nội . 69

2.3.4 Một sốtồn tại trong hoạt động của các định chếtài chính trung gian . 70

CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN THỊTRƯỜNG

CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ

KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ. 72

3.1 Định hướng phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian sắp tới . 72

3.1.1 Mục tiêu . 72

3.1.2 Quan điểm và nguyên tắc phát triển thịtrường chứng khoán . 72

3.1.3 Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 . 73

3.2 Các giải pháp hoàn thiện và phát triển TTCK Việt Nam trong quá trình hội nhập

kinh tếkhu vực và quốc tế. 76

3.2.1 Giải pháp vĩmô . 76

3.2.2 Các giải pháp trực tiếp đối với TTCK . 77

3.2.2.1 Hoàn thiện khung pháp lý . 77

3.2.2.2 Phát triển cung - cầu hàng hóa cho TTCK. 79

3.2.2.3 Phát triển thịtrường giao dịch thứcấp. 86

3.2.2.4 Hoàn thiện công tác công bốthông tin . 93

3.2.2.5 Phát triển hoạt động của các định chếtài chính trung gian . 96

3.2.2.6 Các giải pháp hỗtrợ. 102

KẾT LUẬN. 105

pdf117 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2258 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chặng đường 6 năm của Thị trường chứng khoán Việt Nam - Thực trạng và Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về các tổ chức niêm yết, kinh doanh chứng khoán. - Thông tin về các hoạt động đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ. - Thông tin về quản lý thị trường. Việc tổ chức công bố và cung cấp thông tin trên thị trường được thực hiện từng bước trên cơ sở các quy định hiện hành cùng nhu cầu thực tế của thị trường. Để có thể thực hiện được, TTGDCK đã từng bước hình thành các cơ sở dữ liệu liên quan nhằm thu thập, xử lý các thông tin dữ liệu thị trường : cơ sở dữ liệu về các tổ chức niêm yết; cơ sở dữ liệu về hoạt động giao dịch; cơ sở dữ liệu về các tổ chức kinh doanh chứng khoán; các dữ liệu khác. Các dữ liệu được lưu trữ và xử lý một cách có hệ thống, phân loại theo chứng khoán, tổ chức kinh doanh, thời gian. 54 Kể từ sau khi Nghị định 144/NĐ-CP và Thông tư 57/TT-BTC ra đời, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã hướng dẫn các thủ tục liên quan đến việc chuyển các thông tin công bố ra thị trường bằng file đồng thời với các báo cáo bằng giấy. Nhờ đó, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức cập nhật, lưu trữ, xử lý và cung cấp thông tin ra thị trường một cách nhanh chóng và tiện lợi. Song song đó, mới đây TTGDCK TP. Hồ Chí Minh cũng đã giới thiệu thêm một kênh chuyển thông tin qua mạng máy tính tới các công ty chứng khoán, nhằm tuân thủ thực hiện đúng quy định hiện hành, cũng như góp phần đưa thông tin đến công chúng kịp thời. Các kênh thông tin khác như Bản tin TTCK, trang web đã được cải tiến nâng cấp, đảm bảo tính mềm dẻo, đa dạng và đa ngôn ngữ trong các hình thức công bố và cung cấp thông tin. Bên cạnh đó, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh luôn cố gắng tối đa trong việc tìm hiểu nhu cầu được cung cấp thông tin của các cá nhân, tổ chức trên thị trường, trong cũng như ngoài nước, sử dụng phương tiện thư điện tử để trao đổi và thực hiện các hợp đồng dịch vụ. 2.2.1.5 Hoạt động đăng ký - lưu ký - thanh toán bù trừ Tình hình đăng ký chứng khoán : Mặc dù số lượng hàng hóa được thực hiện tại Trung tâm chưa nhiều và giá trị không cao nhưng công tác đăng ký lưu ký chứng khoán, dăng ký mã số kinh doanh cho người đầu tư nước ngoài, thực hiện quyền cho các chứng khoán niêm yết…tại trung tâm bước đầu đã đạt được những yêu cầu đề ra. TTGDCK đã đảm bảo thực hiện an toàn, chính xác và đúng tiến độ thời gian theo yêu cầu và nhận được sự tín nhiệm, đánh giá cao từ các tổ chức phát hành. - Trung tâm đã thực hiện đăng ký lưu ký mới, bổ sung thanh toán cổ tức bằng cổ phiếu cho 28 loại cổ phiếu với số lượng là 146.966.305 cổ phiếu (giá trị đăng ký lưu ký là 1.469 tỷ đồng), một chứng chỉ quỹ đầu tư với số lượng là 30.000.000 chứng chỉ (giá trị 300 tỷ đồng) và hơn 220 loại trái phiếu Chính phủ và trái phiếu đô thị với số lượng khoảng 279.740.380 trái phiếu (tương đương 27.974 tỷ đồng). 55 Bảng 2.11 : Tình hình đăng ký chứng khoán Năm Cổ phiếu Chứng chỉ QĐT Trái phiếu Số đợt Số lượng Số đợt Số lượng Số đợt Số lượng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 5 7 11 5 11 3 32.117.840 18.893.880 48.951.620 12.037.740 21.585.311 13.379.914 1 30.000.000 4 14 23 62 105 25 11.830.700 17.062.680 13.820.000 76.330.000 120.317.000 40.380.000 Tổng cộng 42 146.966.305 1 30.000.000 224 279.740.380 Nguồn : TTGDCK TP.Hồ Chí Minh – Tính đến tháng 4/2005 - TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã cấp 279 mã số cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có 31 nhà đầu tư tổ chức và 248 cá nhân. - Trung tâm đã hỗ trợ các tổ chức phát hành thực hiện hơn 474 đợt thực hiện quyền với 139 đợt thực hiện thanh toán cổ tức bằng tiền (với giá trị thanh toán khoảng 357 tỷ đồng), thanh toán 4 đợt cổ tức bằng cổ phiếu với số lượng hơn 4.450.000 cổ phiếu, thực hiện 8 đợt phát hành thêm với số lượng 18.085.000 cổ phiếu; 97 đợt lập danh sách họp đại hội cổ đông, và hơn 270 đợt thanh toán vốn gốc và lãi trái phiếu (với giá trị là 2.137 tỷ đồng). Trung tâm đã thực hiện xác nhận chuyển nhượng 10 đợt với số lượng 225.865 cổ phiếu phát sinh do tặng cho và thừa kế theo quy định của luật dân sự. Về tình hình lưu ký chứng khoán : Tính đến 30/4/2005, TTGDCK, tỷ lệ cổ phiếu đã lưu ký là 73,69% với tổng giá trị hơn 1.000 tỷ đồng và tỷ lệ trái phiếu đã lưu ký là 99% với tổng giá trị hơn 276,95 tỷ đồng. Trong 5 năm qua, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã đăng ký và kết nạp 18 thành viên lưu ký là các công ty chứng khoán, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giao dịch trái phiếu Chính phủ, TTGDCK cũng đã thực hiện đăng 56 ký thành viên và mở tài khoản lưu ký cho các tổ chức tài chính đặc biệt như Ngân hàng Nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn Manulife Việt Nam. Thời gian qua, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện đăng ký lưu ký cho 28 cổ phiếu, hơn 230 trái phiếu và 1 chứng chỉ quỹ đầu tư nhưng đa số được phát hành và đăng ký lưu ký theo hình thức ghi sổ (chiếm 80%), số chứng khoán phát hành theo hình thức chứng chỉ chứng khoán chiếm một tỷ lệ rất ít. Tuy vậy, Trung tâm đã xây dựng và duy trì kho lưu giữ chứng khoán, đảm bảo bảo quản an toàn, quản lý chứng chỉ chứng khoán ngăn nắp, có khoa học, chống được mối mọt, không xảy ra mất mát hư hỏng. Tuân thủ nghiêm ngặt quy chế ra vào kho theo quy định. Định kỳ kiểm kê đối chiếu số liệu thực tế trong kho với sổ sách kế toán. Nhìn chung, với thời gian 5 năm đi vào hoạt động chưa phải là dài nhưng hoạt động lưu ký chứng khoán tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Giá trị chứng khoán lưu ký tại Trung tâm tăng dần qua các năm. Các lý do làm cho giá trị lưu ký tăng một phần do nhà đầu tư ngày càng nhận thấy được những lợi ích của việc lưu ký chứng khoán tại các thành viên lưu ký, TTGDCK và các tổ chức phát hành nhận thức được tính ưu việt khi tiến hành chuyển đổi tờ chứng chỉ chứng khoán sang chứng khoán ghi sổ khi niêm yết chứng khoán lên TTCK. Cùng với sự phát triển của TTGDCK TP. Hồ Chí Minh, các thành viên lưu ký cũng đã có những bước trưởng thành đáng kể và dần đạt được những vị thế và uy tín cao trên thị trường tài chính. Một số các nghiệp vụ mang tính chất định hướng như hoạt động tự doanh ngày càng được các thành viên lưu ký lưu tâm đến thể hiện qua việc giá trị chứng khoán tự doanh ngày càng cao. Tuy nhiên, cùng với những kết quả, đóng góp đáng kể của hoạt động lưu ký chứng khoán trên TTCK thì hoạt động này cũng còn những mặt hạn chế nhất định. Đó là: Hệ thống phần mềm lưu ký chứng khoán đã bộc lộ một số hạn chế làm cho hoạt động kém hậu quả. Ngoài ra, trong công tác quản lý kho, việc nghiệp vụ lưu trữ, quản lý chứng khoán chủ yếu bằng thủ công do vậy mất nhiều 57 thời gian trong việc kiểm điếm, truy tìm. Công nghệ lưu trữ, quản lý và bảo quản kho hiện nay còn thấp. Do vậy nguy cơ dễ bị sai sót trong quá trình kiểm tra. Bên cạnh đó, hệ thống chế độ kế toán và quản lý tài khoản tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn chưa nhận được hướng dẫn bổ sung từ UBCKNN và Bộ Tài chính. Hoạt động thanh toán bù trừ : Thời gian qua, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã thực hiện 286 trường hợp sửa lỗi sau giao dịch cho các thành viên lưu ký với số lượng 2.870.984 chứng khoán. Bên cạnh đó, Trung tâm cũng đã thực hiện thanh toán bù trừ cho tất cả các giao dịch trên thị trường một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Để góp phần từng bước phát triển TTCK và tăng tính thanh khoản của chứng khoán trên thị trường, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã nhiều lần thực hiện điều chỉnh kỹ thuật nghiệp vụ như giảm chu kỳ thanh toán bù trừ chứng khoán đa phương từ T+4 xuống còn T+3 và hiện nay đang áp dụng chu kỳ thanh toán T+1 đối với trái phiếu và T+3 đối với cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cho đến nay trên thị trường chưa xảy ra trường hợp mất khả năng thanh toán nào. Tuy nhiên, với những nhu cầu mới ngày càng cao và đa dạng của thị trường thì hệ thống thanh toán bù trừ của TTGDCK đã bộc lộ một số hạn chế và bất cập như: Hệ thống phần mềm thanh toán bù trừ bộc lộ một số hạn chế rất lớn làm cho hoạt động kém hiệu quả; Tốc độ thực hiện các bước thanh toán T+3 còn mất nhiều thời gian và làm ảnh hưởng đến tốc độ xử lý, làm giảm hiệu quả thực hiện chung của chương trình, chưa có hướng dẫn hạch toán và phân bổ thu nhập lãi tiền gửi Quỹ hỗ trợ thanh toán cho các thành viên lưu ký, chi phí quản lý… 2.2.2 Tình hình hoạt động tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Hoạt động giao dịch chứng khoán thứ cấp tại TTGDCK Hà Nội chính thức được bắt đầu từ ngày 14/7/2005. Theo Quyết định số 244/QĐ-BTC ngày 20/1/2005 của Bộ Tài chính, TTGDCK Hà Nội tổ chức giao dịch cho các loại cổ phiếu của doanh nghiệp chưa niêm yết có vốn điều lệ tối thiểu là 5 tỷ đồng, có 50 cổ đông và một năm làm ăn có lãi, đồng thời tổ chức giao dịch các loại trái 58 phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp chưa thực hiện niêm yết, hoạt động giao dịch được tổ chức theo phương thức thỏa thuận (áp dụng từ 14/7/2005) và giao dịch báo giá đồng thời với thỏa thuận (áp dụng từ 2/11/2005). 2.2.2.1 Tình hình giao dịch Tính đến ngày 21/6/2006, TTGDCK Hà Nội đã tổ chức được 147 phiên giao dịch an toàn. Tổng khối lượng cổ phiếu được giao dịch là 55.316.930 cổ phiếu, tương ứng với tổng giá trị giao dịch hơn 1161 tỷ đồng. Giao dịch chủ yếu tập trung vào các cổ phiếu ngành điện là cổ phiếu Vĩnh Sơn Sông Hinh (VSH), Điện lực Khánh Hòa (KHP) và Nhiệt điện Phả Lại (PPC). Giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân tăng từ mức 4 tỷ đồng/phiên. Năm 2005 lên 12 tỷ đồng/phiên 6 tháng đầu năm 2006. Khác với giao dịch cổ phiếu, giao dịch trái phiếu còn ở mức thấp với gần 800 tỷ đồng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng, trong đó, giao dịch tập trung chủ yếu vào trái phiếu kho bạc (chiếm 82%). Trong năm 2005 chỉ số HASTC-Index không có nhiều biến động, xu hướng giảm nhẹ dần xuống mức thấp nhất là 89,93 điểm vào ngày 21/12/2005. Tuy nhiên, từ đầu năm 2006, HASTC-Index biến động mạnh từ 1/3/2006 và đạt mức cao nhất 250,54 điểm vào 15/5/2006. Từ giữa tháng 5/2006, chỉ số này có xu hướng giảm và hiện ở mức 190 điểm. Nhìn chung, biến động của chỉ số HASTC-Index nằm trong xu hướng chung của TTCK Việt Nam. Tính đến thời điểm 21/6/2006, khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là 1.769.540 cổ phiếu (chiếm 3,2%), trong đó, giao dịch mua chiếm 59,2% và giao dịch bán chiếm 40,8%. Cổ phiếu được mua nhiều nhất là VSH (chiếm 68% tổng khối lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài). 2.2.2.2 Hệ thống giao dịch của TTGDCK Hà Nội được tổ chức khá linh hoạt với hai phương thức báo giá và thỏa thuận Phương thức giao dịch báo giá xét về bản chất là hệ thống khớp lệnh liên tục. Lệnh nhập vào hệ thống giao dịch có hiệu lực cho đến hết phiên hoặc cho 59 đến khi hủy trên hệ thống và được khớp liên tục theo nguyên tắc ưu tiên về giá và thời gian. Phương thức này mới được áp dụng từ tháng 11/2005 nhưng được các công ty chứng khoán và nhà đầu tư đánh giá rất cao do cơ chế linh hoạt, dễ thực hiện, chi phí giao dịch thấp và tạo được tính sôi động cho TTCK. Chỉ sau một thời gian ngắn đưa vào vận hành, phương thức này đã thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Phương thức giao dịch thỏa thuận được thực hiện theo 2 cách sau : - Thực hiện trên hệ thống: áp dụng cho các giao dịch khối lượng lớn, (đối với cổ phiếu, tối thiểu là 5.000 cổ phiếu và đối với trái phiếu là 100 triệu đồng tính theo mệnh giá). Nhà đầu tư có thể theo dõi thông tin tổng hợp về khối lượng và giá cả chào mua / chào bán. Các công ty chứng khoán thành viên có thông tin chi tiết về tất cả các lệnh để từ đó tìm đối tác thỏa thuận. Do tính thương lượng có thể thực hiện qua điện thoại hoặc qua màn hình và việc xác nhận giao dịch được thực hiện trên hệ thống. Hầu hết giao dịch, nhất là giao dịch lô lớn đều được thực hiện qua phương thức này, mặc dù quy trình giao dịch chưa thuận tiện, mất nhiều thời gian và chi phí giao dịch cao. - Thỏa thuận trực tiếp giữa khách hàng với công ty chứng khoán (put - through) Nhà đầu tư và các công ty chứng khoán thành viên thỏa thuận thực hiện lệnh tại công ty chứng khoán và báo kết quả vào hệ thống trong phiên giao dịch đó tổng hợp chung. Trên cùng một hệ thống giao dịch, 2 phương thức là thỏa thuận và báo giá được thực hiện song song là phù hợp do khắc phục được các khiếm khuyết khi tiến hành đơn lẻ từng phương thức giao dịch. Giao dịch theo phương thức thỏa thuận cho phép linh hoạt thay đổi giá và khối lượng của từng lệnh; còn giao dịch theo phương thức báo giá cho phép chia nhỏ lệnh để thực hiện ngay theo mức giá tốt nhất hiện có trên thị trường. Với cơ chế linh hoạt, dễ thực hiện chi phí giao dịch thấp và tạo được tính sôi động cho thị trường, phương thức giao dịch báo giá đã thu hút được sự quan 60 tâm của nhà đầu tư. Tính từ thời điểm 2/11/2005 trở lại đây thì số lệnh đặt trên hệ thống báo giá cao hơn nhiều so với số lệnh đặt trên hệ thống thỏa thuận. Nhìn tổng thể, phương thức giao dịch hiện nay trên Trung tâm và các phương thức thanh toán sau giao dịch là phù hợp và có tính linh hoạt cao, đáp ứng được quy mô của thị trường hiện tại cũng như khi thị trường đi vào phát triển trong tương lai. 2.2.2.3 Hoạt động công bố thông tin Hoạt động công bố thông tin tại TTGDCK Hà Nội đã nhanh chóng đi vào nề nếp và góp phần cho thị trường được công khai minh bạch. Công bố thông tin qua Trung tâm : TTGDCK Hà Nội đã thực hiện cung cấp thông tin qua trang tin điện tử (www.hastc.org.vn) ngay từ ngày giao dịch đầu tiên. Thông tin cung cấp trên trang tin điện tử bao gồm : thông tin trực tuyến về chào mua, chào bán chứng khoán, kết quả giao dịch chứng khoán, số liệu thống kê theo các tiêu chí, thông tin về các tổ chức đăng ký giao dịch, thông tin về các công ty chứng khoán thành viên, các văn bản pháp quy trong ngành và các tin tức sự kiện trong nước và quốc tế có liên quan. Trang tin điện tử của TTGDCK Hà Nội tuy mới ra đời song đã nhanh chóng trở thành một trong số những trang tin chứng khoán được truy cập nhiều nhất nhờ tính tiện dụng và cập nhật, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư quan tâm. Trong thời gian tới, phiên bản tiếng Anh của trang tin sẽ được xây dựng nhằm phục vụ cho quảng bá thông tin cho nhà đầu tư nước ngoài. Từ ngày 13/9/2005, bản tin chứng khoán của Trung tâm chính thức được phát hành đều đặn theo phiên giao dịch. Hình thức phát hành cũng rất linh hoạt, có thể qua email hoặc gửi trực tiếp. Hầu hết bản tin phát hành được các công ty chứng khoán mua để cung cấp cho khách hàng. Mặc dù đã có nhiếu cố gắng nhưng số bản tin phát hành mỗi kỳ chưa nhiều (khoảng 400 bản/ngày phát hành) và việc phát hành trên địa bàn phía Nam còn rất hạn chế. Công bố thông tin của các công ty chứng khoán thành viên: thông thường, các công ty chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho nhà đầu tư tham 61 khảo thông tin về doanh nghiệp (như bản cáo bạch, báo cáo tài chính…) và bảng giao dịch trực tuyến tại trụ sở của mình. Tuy nhiên, hoạt động này cho đến nay vẫn còn hạn chế. Hầu hết các công ty không có bản thông tin riêng dành cho các chứng khoán đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội. Tại khu vực phía Nam, rất ít thành viên thực hiện việc công bố thông tin về doanh nghiệp đăng ký giao dịch. Tuy đã nhiều lần được đề nghị cải tiến công bố thông tin nhưng nhìn chung mức độ đáp ứng của các thành viên còn chậm do các công ty chứng khoán thiếu mặt bằng và chưa chuẩn bị thật tốt ngay từ đầu để tham gia vào giao dịch chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội. 2.2.2.4 Hoạt động đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán Từ khi khai trương đến trước khi Trung tâm Lưu ký Chứng khoán tách ra hoạt động độc lập (tháng 4/2006), việc đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký đối với các chứng khoán đăng ký giao dịch trên TTGDCK Hà Nội được thực hiện tại bộ phận đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán thuộc TTGDCK Hà Nội. - Hoạt động thanh toán : Theo quy định hiện hành, giao dịch chứng khoán trên TTGDCK Hà Nội được thanh toán theo chu kỳ T+3 (bù trừ đa phương) và từ T+1 đến T+3 (bù trừ trực tiếp) và T+2 (bù trừ song phương), việc khắc phục rủi ro mất khả năng thanh toán tạm thời của thành viên thực hiện theo cơ chế hỗ trợ tiền vay của ngân hàng chỉ định thanh toán. Trong thời gian qua, hoạt động thanh toán giao dịch đã được thực hiện an toàn, đúng thời gian quy định. Hầu hết các giao dịch được thanh toán theo kết quả bù trừ đa phương T+3, các giao dịch lô lớn cổ phiếu và các giao dịch trái phiếu thực hiện thanh toán trực tiếp, còn hình thức thanh toán song phương chưa được các bên lựa chọn thực hiện. Sự phối hợp giữa TTGDCK Hà Nội với các thành viên lưu ký và ngân hàng chỉ định thanh toán đã đi vào nề nếp. - Hoạt động lưu ký : Hoạt động đăng ký, lưu ký chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội ngay từ đầu đã có sự chủ động phối hợp chặt chẽ với đơn vị tư vấn và doanh nghiệp đăng ký giao dịch kịp thời để giải quyết các vướng mắc 62 phát sinh. Tất cả các chứng khoán đưa vào lưu ký tại TTGDCK Hà Nội đều dưới hình thức ghi sổ, do vậy, đã góp phần làm đơn giản hóa thủ tục lưu ký cho người đầu tư, tăng chính xác và độ an toàn cho các bên nhận lưu ký. Trong quá trình thực hiện, Trung tâm đã phối hợp với doanh nghiệp hướng dẫn và xử lý một số vấn đề phát sinh khi thực hiện quyền, thanh toán cổ tức… Hệ thống phần mềm đăng ký - thanh toán bù trừ - lưu ký chứng khoán đến nay hoạt động khá ổn định. Nhờ khả năng tích hợp giữa hệ thống này với các hệ thống giao dịch, giám sát và thông tin thị trường, các thông tin tích hợp trong hệ thống luôn được kịp thời và chính xác, giúp giảm thiểu số lượng công việc và nâng cao độ an toàn trong hoạt động. Kể từ tháng 4/2006, công tác đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán được chuyển sang thị trường lưu ký chứng khoán độc lập. Việc xây dựng và đưa vào hoạt động ổn định hệ thống đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán tại TTGDCK Hà Nội góp phần quan trọng giúp cho công tác chuyển giao diễn ra tốt đẹp, đảm bảo tính liên tục cho hoạt động của thị trường. 2.2.2.5 Hoạt động giám sát giao dịch Hoạt động giám sát giao dịch được triển khai khá đồng bộ và tập trung vào hai phương thức chủ yếu là giám sát trực tuyến và phân tích số liệu lịch sử (giám sát nhiều ngày). Phần mềm giám sát đã hoạt động tốt và tích hợp được với hệ thống giao dịch, góp phần quan trọng vào hiệu quả giám sát. Đối với giám sát trực tuyến trong ngày, hệ thống ghi nhận và hiển thị toàn bộ quá trình nhập lệnh và hiện lệnh trên hệ thống giao dịch của từng tài khoản, bao gồm thời gian lệnh nhập vào hệ thống, khối lượng, giá cả, đối tác giao dịch và diễn biến giá cả thị trường. Một số tiêu chí cảnh báo trực tuyến đã được áp dụng để hổ trợ phát hiện các giao dịch có dấu hiệu bất thường như giao dịch khối lượng nhỏ ở mức giá trần, giá sàn hoặc các giao dịch khối lượng lớn. Kết quả giám sát từng ngày được tổng hợp vào cơ sở dữ liệu giám sát để phân tích đối chiếu. 63 2.2.2.6 Công tác tạo hàng và quản lý doanh nghiệp đăng ký giao dịch Ngay từ khi khai trương hoạt động, Bộ Tài chính và UBCKNN đã có chủ trương hạ thấp tiêu chuẩn đăng ký giao dịch để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào TTGDCK Hà Nội, UBCKNN đã chỉ đạo TTGDCK Hà Nội triển khai hoạt động tạo hàng một cách đồng bộ, do vậy, kết quả công tác tạo hàng trong thời gian qua đã đạt được mục tiêu đề ra. Tại thời điểm khai trương, Trung tâm có 6 doanh nghiệp đăng ký giao dịch và sau một năm hoạt động, đã có 12 doanh nghiệp với tổng giá trị đăng ký giao dịch tính theo vốn điều lệ là gần 5.000 tỷ đồng, ngành nghề tương đối đa dạng. Doanh nghiệp có giá trị đăng ký giao dịch nhỏ nhất là các công ty cổ phần. Phát triển cơ sở hạ tầng (vốn điều lệ 5,4 tỷ đồng), doanh nghiệp lớn nhất là Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại (vốn điều lệ 3.071 tỷ đồng). Hình 2.6 : Tỷ trọng các công ty đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội (Tính theo giá trị vốn hóa thị trường) 83.44% 10.64% 2.47% 3.45% PPC VNR KHP Còn lại Nguồn : TTGDCK TP.Hồ chí Minh – HSBC Research Report Tình hình sản xuất kinh doanh đăng ký giao dịch trong năm 2005 và 6 tháng đầu năm 2006 về cơ bản là tốt. Năm 2003, có 8 doanh nghiệp vượt chỉ tiêu lãi dự kiến. Việc các doanh nghiệp đăng ký giao dịch làm ăn hiệu quả, minh bạch, nâng cao được uy tín đã bước đầu thu hút sự quan tâm của nhiều doanh 64 nghiệp, nhất là doanh nghiệp cổ phần hóa lên đăng ký giao dịch, là điều kiện thuận tiện để có thể phát triển hàng hóa và quy mô cho TTGDCK Hà Nội. Sau khi đăng ký giao dịch, nhìn chung, các doanh nghiệp đều thực hiện khá nghiêm túc nghĩa vụ công bố thông tin, nộp đầy đủ báo cáo quý. Một số công ty trong thời gian đầu nộp báo cáo chậm, đã được nhắc nhở và có tiến bộ. Việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin bất thường cũng đã thực hiện khá tốt, như việc chuyển nhượng cổ phiếu của thành viên Hội Đồng Quản Trị, Ban Giám Đốc, việc chốt danh sách cổ đông để thực hiện quyền. Quy trình thực hiện công bố thông tin của các tổ chức đăng ký giao dịch ra công chúng qua phương tiện thông tin của TTGDCK Hà Nội đã đi vào nề nếp. 2.2.2.7 Hoạt động của các công ty chứng khoán thành viên Hiện tại, có 13 trong tổng số 14 công ty chứng khoán là thành viên của TTGDCK Hà Nội. Trong đó, 12 công ty đã triển khai hoạt động. Riêng Công ty Chứng khoán Ngân Hàng Đông Á, tuy đã được chấp thuận làm thành viên từ 13/11/2005 nhưng đến nay vẫn chưa có đại diện giao dịch tại sàn Hà Nội. Một số thành viên đã tích cực tư vấn và đưa doanh nghiệp ra đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội như Công ty Chứng khoán Hải Phòng, Công ty Chứng khoán Bảo Việt, Công ty Chứng khoán Ngân Hàng Công Thương, Công ty Chứng khoán Sài Gòn. Nhìn chung, các công ty chứng khoán đã thực hiện tư vấn đưa doanh nghiệp lên đăng ký giao dịch có hoạt động giao dịch nhiều hơn và đều hơn. 2.3 ĐÁNH GIÁ CÁC MẶT TỒN TẠI VÀ PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN 2.3.1 Quy mô hàng hoá trên thị trường còn hạn chế Thị trường giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư còn nhiều hạn chế. Cụ thể, thị trường giao dịch cổ phiếu mặc dù được mở rộng nhưng tốc độ gia tăng về quy mô của thị trường còn chậm, không như kỳ vọng của nhà đầu tư và của phía cơ quan quản lý. Điều này thể hiện ở chỗ: số lượng công ty niêm yết và số lượng tài khoản nhà đầu tư tăng chậm, tỷ lệ tài khoản tham gia giao dịch trong tổng số tài khoản còn rất thấp. Bên cạnh đó, sự gia tăng về quy mô thị trường 65 chưa thực sự ổn định và trở thành xu hướng lâu dài. Số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa tính đến thời điểm7/2006 là khoảng 3200 doanh nghiệp nhà nước (tính đến đầu năm 2006 đã cổ phần hóa được 3100 doanh nghiệp nhà nước, 6 tháng đầu năm 2006 đã cổ phần hóa thêm 100 doanh nghiệp nhà nước). Số lượng công ty niêm yết trên TTCK tập trung tính đến thời điểm 7/2006 là trên dưới 40 công ty, trong đó có một số công ty niêm yết không phải là doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Như vậy, cho đến nay, mới chỉ có gần 2% trong tổng số doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa thực hiện niêm yết trên TTCK. Số lượng, chủng loại hàng hóa giao dịch trên TTCK còn nghèo nàn là một trong những hạn chế lớn nhất để thu hút các nhà đầu tư đến với định chế tài chính còn mới mẻ này. Thông qua cuộc khảo sát, 67% người được phỏng vấn cho rằng số lượng cổ phiếu hiện nay trên thị trường thứ cấp chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư. Trong khi đó, tính thanh khoản của thị trường vẫn còn thấp. Trong thời gian vừa qua, tỷ trọng giao dịch cổ phiếu không đồng đều. Một số loại cổ phiếu sau khi niêm yết có lượng giao dịch rất thấp, không thu hút được các nhà đầu tư tham gia giao dịch. Các công cụ đầu tư trên thị trường chưa đa dạng (các loại chứng khoán, các loại lệnh, …) nên thị trường chưa thực sự tạo ra sự chủ động trong thu hút nhà đầu tư đến với TTCK. Tính thanh khoản của thị trường thấp bởi những hạn chế không đáng có. Một là, người đầu tư không thể dùng lượng chứng khoán trong tài khoản của mình để ký quỹ bảo đảm khi đặt lệnh, mà phải làm thủ tục cầm cố với ngân hàng. Hai là, sau khi bán hoặc mua chứng khoán, người đầu tư phải chờ hết thời gian T+3 khi việc thanh toán giao dịch đã hoàn tất mới có thể mua hoặc bán ngược lại. Chỉ cần nhìn vào doanh số 297 tỷ đồng của riêng Ngân hàng Đầu tư và phát triển từ dịch vụ cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng, có thể thấy nhu cầu quy vòng vốn của người đầu tư là rất lớn. Đây là những trở 66 ngại về quy trình, cơ hội và chi phí đối với người đầu tư, ảnh hưởng đến tính thanh khoản chung của thị trường. Bên cạnh đó, một số nguyên nhân khác như việc đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán đôi lúc còn khó khăn (chẳng hạn như đối với đối tượng nhà đầu tư là Việt kiều), cách phát hành chứng khoán cũng như việc điều hành thị trường còn thiếu chuẩn mực, giao dịch của các tài khoản nhà đầu tư trong nước đôi lúc còn bị chi phối bởi các nhà đầu tư nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45427.pdf
Tài liệu liên quan