Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU. 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH. 11
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh .11
1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.11
1.1.2. Pháp luật điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh.
1.2. Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh not defin
1.2.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh .
1.2.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh not d
1.2.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh
1.3. Kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
1.3.1. Kinh nghiệm các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU).
1.3.2. Kinh nghiệm của Canada và Mỹ.
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á .
Tiểu kết Chương 1.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM not de
2.1. Thực trạng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát về các biện pháp chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam
2.1.2. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam .
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam.
20 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 774 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.................. Error! Bookmark not defined.
3.2.1. Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành vi hạn
chế cạnh tranh của các nước trên thế giới .... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh ở Việt NamError! Bookmark not defined.
3.3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam ........................................ Error! Bookmark not defined.
3.3.1. Các giải pháp pháp lý ................................... Error! Bookmark not defined.
3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác ............................. Error! Bookmark not defined.
Tiểu kết Chương 3 .............................................................. Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ......................................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 16
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thì cạnh tranh luôn là một điều
kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là môi trường và động lực thúc đẩy sản
xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên,
nếu để tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các thủ đoạn nhằm kìm hãm quá
trình cạnh tranh sẽ đưa lại những hệ quả không mong muốn về mặt kinh tế và xã hội, thị
trường bị bóp méo, thay đổi cấu trúc xã hội về sở hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu
nghèo. Do đó, yêu cầu kiểm soát và điều chỉnh đối với quá trình cạnh tranh là một nhiệm
vụ cần thiết đặt ra cho các thiết chế quản lý nền kinh tế thị trường. Những thủ đoạn cạnh
tranh tiêu cực trên thị trường rất đa dạng, trong đó, các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh
hưởng lớn tới môi trường kinh doanh và cấu trúc thị trường. Nếu như các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh gây thiệt hại trực tiếp cho các đối thủ cạnh tranh và người tiêu
dùng xã hội, thì các hành vi hạn chế cạnh tranh còn gây thiệt hại và ảnh hưởng đến một
ngành hay lĩnh vực kinh tế, phá vỡ cấu trúc thị trường. Bởi vậy, nếu không được điều tiết,
kiểm soát một cách thỏa đáng và phù hợp, thì các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế sẽ loại trừ khả năng cạnh tranh của các đối thủ
tiềm năng, kéo theo đó là sự trì trệ, thậm chí thụt lùi của nền kinh tế. Cho nên, pháp luật
các nước trên thế giới đều chú trọng xây dựng pháp luật để điều chỉnh vấn đề này với
những chế tài rất nghiêm khắc.
Hiểu được vai trò của việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong
phát triển kinh tế xã hội nói chung, năm 2004, Việt Nam đã ban hành Luật Cạnh tranh,
trong đó có các quy định nhằm điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh và đặt ra chế tài
để xử vi phạm để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng đã cho thấy,
chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh chưa đủ mạnh, thủ tục xử lý chưa phù hợp,
các chế tài được quy định rải rác trong nhiều văn bản luật và các bất cập khác đã gây khó
khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế. Trong khi đó, sự tồn tại với vai trò
chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước, sự gia tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các thủ đoạn nhằm hạn chế cạnh tranh ở nước
ta vốn đã phức tạp lại ngày càng tinh vi hơn, đã gây nhiều tổn hại đến quyền và lợi ích của
các doanh nghiệp, người tiêu dùng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ những phân tích ở trên, việc hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và
hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh nói riêng đang
là những yêu cầu rất cấp thiết. Với ý nghĩa như vậy, nên tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề
tài “Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” để nghiên cứu và làm
Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, các nước thuộc Liên minh châu Âu,
Nhật Bản và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều đã có những công trình
nghiên cứu sâu sắc, cũng như các án lệ liên quan đến xử lý các hành vi hạn chế cạnh
tranh.
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có rất nhiều các nghiên cứu về các hành vi
hạn chế cạnh tranh như: "Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt
Nam" của ThS. Hồ Thị Duyên; "Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt
Nam" của ThS. Mai Duy Phước; "Về thoả thuận hạn chế cạnh tranh" của tác giả Trần
Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 1(237)/2008; "Kiểm soát hành vi lạm dụng
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện
nay" của ThS. Nguyễn Thị Bảo Nga; "Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực
thị trường ở Việt Nam" của ThS. Nguyễn Ngọc Quý; "Kiểm soát tập trung kinh tế theo
quy định của pháp luật Việt Nam" của ThS. Phạm Thị Ngoan Ngoài ra, còn nhiều bài
viết, bài báo liên quan đến pháp luật cạnh tranh nói chung và những phản ánh về thực tế
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào phân tích, làm rõ các
vấn đề pháp lý đối với từng nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh, còn các vấn đề về chế tài
liên quan tới hạn chế cạnh tranh, thì chưa có nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào đề cập
nghiên cứu, bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật các chế tài này ở Việt Nam cũng
chưa nhiều. Bởi vậy, nếu nghiên cứu và bảo vệ thành công, có thể xem đây là công trình
chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ luật học về đề tài "Chế tài liên quan tới
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hành
vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành
vi hạn chế cạnh tranh; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp
chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở thị trường Việt Nam, chỉ ra những bất
cập, hạn chế, để từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh, đặc biệt là nâng
cao hiệu quả của các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt
Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu ở trên, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế cạnh tranh, bản chất,
nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành về các chế tài liên
quan tới hạn chế cạnh tranh, cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp chế tài xử lý hành
vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất, kiến nghị các giải pháp góp phần
hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng
các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới chế tài đối với các
hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, các
biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý hành vi hạn chế cạnh
tranh..., được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Cạnh tranh năm
2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với thực tế áp dụng chế tài xử lý các
hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biện pháp chế tài xử lý các hành vi
hạn chế cạnh tranh và các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam từ
thời điểm Luật Canh tranh năm 2004 có hiệu lực thi hành.
Bên cạnh đó, việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế giới
về vấn đề này chỉ nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu và rút ra bài học kinh nghiệm
góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp chế tài
đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cơ
bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp luật... để làm
sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn nếu được thực hiện và bảo vệ thành công sẽ đưa lại các đóng góp mới
như sau:
- Góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các hành
vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành
vi hạn chế cạnh tranh.
- Góp phần đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu quả áp
dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.
- Góp phần hoàn thiện pháp luật về các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế
cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó, xây dựng và hoàn thiện môi trường cạnh tranh bình đẳng,
công bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh và chế tài xử lý
hạn chế cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế
cạnh tranh ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của kinh tế thị trường là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có cạnh tranh - với sự thay đổi liên tục về nhu cầu
và bản tính tham lam của con người - mà nền kinh tế thị trường đã có những bước phát
triển nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo Black’Law Dictionary, cạnh
tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh - được hiểu là sự nỗ
lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống
nhau từ chủ thể thứ ba. Về bản chất, cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường,
cạnh tranh có thể được mô tả thông qua những dấu hiệu riêng vốn có của nó: (i) Cạnh
tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại
nếu như các chủ thể kinh doanh có quyền tự do hành xử trên thị trường; (ii) Cạnh tranh thể
hiện sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh nghiệp, nói cách khác, cạnh tranh là phương
thức giải quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết
định của người tiêu dùng; (iii) Mục đích của cạnh tranh là tranh giành thị trường mua
hoặc bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ [52, tr. 11].
Trong đó, hành vi cạnh tranh thường được phân loại thành: hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thường chỉ là hành vi đơn độc của doanh nghiệp, ít có được sự đồng thuận từ các
đối tác và chỉ áp dụng tới một vài đối thủ, khách hàng và trong một phạm vi nhất định.
Ngược lại, các hành vi hạn chế cạnh tranh, được coi là hành vi có mức độ nguy hiểm và
tính phức tạp cao, hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường nhằm
mục đích hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh, biến dạng thị trường, gây nguy hại không chỉ
cho các đối tượng cạnh tranh, người tiêu dùng mà toàn thị trường cũng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng.
Luật Cạnh tranh Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hạn chế cạnh tranh theo hướng liệt
kê các nhóm hành vi cụ thể, theo đó “hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm
giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” [37, Điều 3, Khoản 3]. Mặc dù, không
đưa ra một khái niệm chung về hạn chế cạnh tranh, nhưng thông qua các hành vi cụ thể
được các nhà làm luật điều chỉnh trong chế định hạn chế cạnh tranh, thì có thể thấy hành
vi này có đặc điểm chính là:
- Chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp,
các doanh nghiệp này hoặc là đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc hình thành
nên sức mạnh thị trường bằng cách thỏa thuận hoặc tập trung kinh tế.
- Hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường, áp đặt sự thống
trị duy nhất của doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp lên thị trường. Ví dụ như
thỏa thuận ấn định giá mua bán hướng tới hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh về giá cả
giữa các doanh nghiệp, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc thị trường cung cấp
nguyên vật liệu buộc người mua không có sự lựa chọn từ đó áp đặt sự thống trị của
doanh nghiệp trong những phạm vi nhất định, gây cản trở và làm hạn chế cạnh tranh.
- Các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh và đi tới
triệt tiêu cạnh tranh. Sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc thị
trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ, ngăn cản
đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có, bóc lột khách
hàng.
1.1.1.2. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
Tùy vào đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia mà pháp luật cạnh tranh có những
cách điều chỉnh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ lý
luận, pháp luật các nước xác định hành vi hạn chế cạnh tranh căn cứ vào yếu tố thị trường
liên quan và thị phần, thị phần kết hợp.
* Xác định thị trường liên quan
Dưới góc độ kinh tế học, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại
hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Cục Thương mại công bằng của Vương quốc Anh đã
nhận định:
Thị trường là một giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra
nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ thị phần chỉ được tính toán sau khi những
ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường được xác
định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc thị
trường đều không hoàn thiện [53, tr. 238].
Việc xác định được thị trường liên quan là để có thể đánh giá được sức mạnh thị
trường của một doanh nghiệp, là để xem mức độ những sản phẩm và dịch vụ thay thế lẫn
nhau tạo sức ép cạnh tranh lên các nhà cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tương ứng.
Thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để các cơ quan thực thi luật, kết luận một hành
vi cụ thể là có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không. Nói cách khác, xác định thị trường
liên quan là công đoạn đầu tiên trong chuỗi tác nghiệp thực thi Luật Cạnh tranh liên quan
đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Thị trường liên quan được cấu thành bởi hai loại giới hạn cơ bản là giới hạn về sản
phẩm (loại hàng hóa, dịch vụ) và giới hạn về phạm vi, không gian địa lý, khu vực địa lý.
Đó là: thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Thứ nhất, thị trường sản phẩm liên quan được xác định trong một phạm vi mà ở
đó hàng hoá, dịch vụ có những đặc tính, hình dạng, mục đích sử dụng và giá cả tương tự,
có khả năng thay thế cho nhau một cách hợp lý. Tính chất tương tự giữa những hàng hoá,
dịch vụ này phải được xét trong tổng thể các yếu tố nói trên, không ngoại trừ yếu tố nào.
Căn cứ để xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của hàng hóa, dịch vụ cũng như
“thuộc tính có thể thay thế cho nhau” được quy định tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP
(Điều 5), đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau:
tính chất vật lý, tính chất hóa học; tính năng kỹ thuật; tác dụng phụ của sản phẩm; khả
năng hấp thụ. Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục
đích sử dụng thông thường nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Giá cả của hàng hóa, dịch vụ
là giá ghi trong hóa đơn bán lẻ. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, thị trường sản
phẩm liên quan còn có thể được xác định là thị trường của một loại sản phẩm đặc thù
hoặc một nhóm các sản phẩm đặc thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của
người tiêu dùng. Trong trường hợp này, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan có
thể xem xét thêm thị trường của các sản phẩm bổ trợ cho sản phẩm liên quan [11].
Thứ hai, thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể có thể là một
thành phố, một tỉnh, một miền, một quốc gia, một khu vực kinh tế, thậm chí là toàn cầu
mà ở đó hàng hoá, dịch vụ có khả năng thay thế được cho nhau một cách hợp lý với các
điều kiện cạnh tranh tương tự, đặc biệt, khu vực địa lý này phải có sự khác biệt đáng kể
với các khu vực lân cận khác về hàng rào kiểm soát thương mại, phương tiện phân phối,
chi phí vận chuyển và ngôn ngữ thương mại. Theo khoản 3 Điều 7 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP, khu vực địa lý được coi là có điều kiện cạnh tranh tương tự và khác
biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận nếu thỏa mãn một trong các tiêu chí sau: (i)
Chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa tăng không quá
10%; hoặc (ii) có sự hiện diện của một trong các rào cản gia nhập thị trường như: rào cản
từ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý theo quy
định của pháp luật về sở hữu công nghiệp; rào cản về tài chính bao gồm chi phí đầu tư
vào sản xuất, phân phối, xúc tiến thương mại hoặc khả năng tiếp cận với các nguồn cung
cấp tài chính; quyết định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước; quy định về điều kiện
kinh doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, các chuẩn mực nghề nghiệp; thuế nhập khẩu và
hạn ngạch nhập khẩu; tập quán của người tiêu dùng [11].
* Xác định thị phần, thị phần kết hợp
Theo Luật Cạnh tranh năm 2004:
Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất
định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng
doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó
trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của
doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hoá, dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm
[37, Điều 3, khoản 5].
Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, thị phần được đề cập đến khi xác định hành vi
hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là vị trí thống lĩnh thị trường và tập trung kinh tế. Bản thân
thị phần chưa đủ để khẳng định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên, thị phần cũng là điều kiện cần
thiết để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.
Trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh, bên cạnh xác định thị phần, thì
xác định thị phần kết hợp cũng là vấn đề quan trọng. Nếu như thị phần chỉ tỷ lệ doanh thu
của một doanh nghiệp so với tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị trường liên quan,
thì thị phần kết hợp là tỷ lệ doanh thu của hai hay nhiều doanh nghiệp trên thị trường liên
quan. Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã định nghĩa rằng: “Thị phần kết hợp là
tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào thoả thuận hạn
chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế” [37]. Trong Luật Cạnh tranh, thị phần kết hợp
thường được đề cập đến khi xác định các doanh nghiệp cùng nhau thực hiện các thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế. Thị phần kết hợp thể hiện năng lực cạnh
tranh của một nhóm doanh nghiệp. Vì vậy, thông qua tỷ lệ thị phần kết hợp người ta xác
định một nhóm doanh nghiệp có thuộc trường hợp bị kiểm soát hành vi hạn chế cạnh
tranh hay không. Theo Luật Cạnh tranh 2004, trường hợp một số thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh chỉ bị cấm khi thị phần liên kết của họ vượt quá 30%, hoặc trường hợp tập trung
kinh tế, nếu thị phần kết hợp từ 30% - 50% thì các doanh nghiệp phải báo cáo với cơ
quan quản lý cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp trên 50% thì hoạt động tập trung kinh tế đó
sẽ bị cấm Bởi khi sở hữu tỷ lệ thị phần đó, các doanh nghiệp có thể gây hạn chế cạnh
tranh một cách sâu sắc mà không phải do năng lực tự sản xuất, kinh doanh của họ.
1.1.1.3. Phân loại các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh
Các hành vi hạn chế cạnh tranh tồn tại phổ biến dưới các dạng: thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền, tập trung
kinh tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt:
1. Nguyễn Thị Vân Anh (2011), “Một số bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi hạn
chế cạnh tranh tại Việt Nam”, Tạp chí luật học, (4), tr.4-9.
2. Bộ Thương mại (2002), Luật Cạnh tranh của Liên minh Châu Âu, (Tài liệu dịch tham
khảo), Hà Nội.
3. Bộ Thương mại (2002), Luật Cạnh tranh của Pháp, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà
Nội.
4. Bộ Thương mại (2002), Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc,
(Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
5. Bộ Thương mại (2003), Luật Cạnh tranh thương mại của Vương quốc Thái Lan, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
6. Bộ Thương mại (2003), Luật chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh của
Nhật Bản, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
7. Bộ Thương mại (2003), Luật Mẫu về Cạnh tranh, Tổ chức Thương mại và Phát triển
Liên Hợp Quốc (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
8. Bộ Thương mại (2003), Luật Thương mại lành mạnh và những quy định về độc
quyền của Hàn Quốc, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
9. Bộ Thương mại (2003), Tài liệu tham khảo khuôn khổ pháp lý đa phương điều chỉnh
hoạt động cạnh tranh và Luật Cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ, (Tài
liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
10. Bộ Thương mại (2004), Luật Cạnh tranh Canada và bình luận, (tài liệu dịch tham
khảo), Hà Nội.
11. Chính phủ (2005), Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 quy định chi tiết
một số điều của Luật Cạnh tranh, Hà Nội.
12. Chính phủ (2005), Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/09/2005 quy định về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
13. Chính phủ (2006), Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/1/2006 về việc thành lập và
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh
tranh, Hà Nội.
14. Chính phủ (2006), Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/1/2006 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh, Hà Nội.
15. Chính phủ (2013), Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần
số vô tuyến điện, Hà Nội.
16. Chính phủ (2014), Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật
Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, Hà Nội.
17. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2009), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam:
Hiện trạng và dự báo, (truy cập
ngày 7/8/2014).
18. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2010), Báo cáo hoạt động thường niên năm
2010, (truy cập ngày
12/7/2014).
19. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2011), Báo cáo hoạt động thường niên
năm 2011,
annual%20report%20Tieng%20Viet.pdf, (truy cập ngày 12/7/2014).
20. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2012), Báo cáo hoạt động thường niên năm
2012, (truy cập ngày
12/7/2014).
21. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2012), Báo cáo rà soát các quy định của Luật
Cạnh tranh Việt Nam (phiên bản chi tiết),
NewsDetail.aspx?ID=1415&CateID=157, (truy cập ngày 12/7/2014).
22. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2012), Báo cáo tập trung kinh tế tại Việt
Nam năm 2012, CateID=157,
(truy cập ngày 12/7/2014).
23. Cục Quản lý Cạnh tranh - Bộ Công thương (2013), Báo cáo hoạt động thường niên năm
2013, (truy cập ngày
12/7/2014).
24. Dominique Brault (2006), Chính sách và thực tiễn Pháp luật cạnh tranh của Cộng
hòa Pháp - Quản lý cạnh tranh, Tập 3, (Tài liệu dịch tham khảo), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Đăng Duy (2005), Chế tài thương mại trong Luật Thương mại Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Hồ Thị Duyên (2010), Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không
lành mạnh ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đặng Vũ Huân (
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050004844_2541_2010163.pdf