LỜI CẢM ƠN.
MỞ ĐẦU . 5
1. Lý do chọn đề tài . 5
2. Lịch sử vấn đề. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 12
3.1. Đối tượng nghiên cứu . 12
3.2. Phạm vi nghiên cứu . 12
4. Phương pháp nghiên cứu . 12
5. Đóng góp của luận văn . 12
6. Cấu trúc luận văn. 14
Chương 1:VĂN LÊ VÀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONGTIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1975.15
1.1. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975. 15
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và những yêu cầu cần đổi mới văn học sau
1975 15
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử và xã hội . 15
1.1.1.2. Nhu cầu đổi mới lối viết của nhà văn. 19
1.1.2. Một số khuynh hướng viết về chiến tranh trong tiểu thyết Việt Nam
sau 1975 . 21
1.1.2.1. Khuynh hướng thể hiện con người bị chấn thương và những số
phận bi kịch. 21
1.1.2.2. Khuynh hướng khám phá người anh hùng lưỡng diện. 22
1.1.2.3. Khuynh hướng thể hiện con người đời thường và những vấn đề
thế sự. 24
1.1.3. Những tác giả tiêu biểu cho đề tài viết về chiến tranh Việt Nam sau
1975
35 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 749 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến tranh và con người trong hai tiểu thuyết mùa hè giá buốt và phượng hoàng của Văn Lê, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốt truyện và số phận các nhân vật. Chính sự kỹ
lưỡng trong văn phong, sức tươi trẻ của chất liệt sống, sự mới mẻ và đa dạng trong
ý tưởng của tác phẩm đã chiếm được tình cảm của người đọc, sự đồng thuận tuyệt
đối của Hội đồng chung khảo, và cùng thời gian vẫn tiếp tục lan tỏa trong bạn
đọc” [98]. Như vậy, đổi mới nghệ thuật và tìm ra hướng đi riêng cho tác phẩm của
mình không phải cái đích mà Văn Lê muốn hướng đến. Ông khai thác đề tài chiến
tranh ở chiều sâu, ở việc phản ánh chân thật về cuộc chiến, về một thế hệ thanh
niên Việt Nam yêu nước anh dũng. Ông tìm đến tận cùng nguồn gốc của sức mạnh
dân tộc, bản chất của người lính. Đó chính là những yếu tố làm nên nét riêng của
Văn Lê.
Nhà báo Đậu Dung trong bài viết Nhà văn Văn Lê: Huyền thoại luôn bắt đầu
từ sự thật được đăng tải trên báo Công an Nhân dân, số ra ngày 28 tháng 07 năm
2015, ông có nhận xét về hai tác phẩm viết về chiến tranh Mùa hè giá buốt và
Phượng hoàng của Văn Lê: “Với 564 trang văn Mùa hè giá buốt được viết ra từ
chính ký ức của ông. Ở đó, có những mảnh hiện thực khắc nghiệt, xót xa, có lằn
ranh giữa sống và chết. Và ở đó có một mùa hè giá buốt cả tâm hồn với những
người còn sống hoặc đã hi sinh. Cuốn sách như một cách nhìn lại lịch sử.
Cũng viết về chiến tranh giai đoạn này nhưng tiểu thuyết Phượng hoàng của nhà
văn Văn Lê lại xoáy vào một vấn đề then chốt, đó là phẩm hạnh. Nó như một thước
đo cho thành hoặc bại của cuộc chiến. Chiến dịch Phượng hoàng của địch đánh
vào tất cả mọi phương diện, xé nát mọi mối quan hệ giữa người với người, với
dòng tộc, người dân với cách mạng, đặc biệt làm cho con người từ chỗ nghi kị,
11
không tin nhau đến giết nhau. Chiến dịch đánh phá dài hạn ấy, là cuộc đụng độ,
đối đầu của những bộ óc. Và trong những ngày hè đỏ lửa đó, chính phẩm hạnh
được lưu giữ từ thế hệ này qua thế hệ khác đã làm nên sức mạnh to lớn dẫn đến
thắng lợi của cuộc chiến. Cuốn tiểu thuyết còn là những trang văn mơ mộng, là lời
tuyên thệ đẹp đẽ nhất về tình yêu. Trong thời khắc trước khi trở thành hương linh
nhẹ nhàng thoát khỏi cơ thể rách nát bay về chốn thăm thẳm, diệu vợi, người đại
đội trưởng chỉ kịp bày tỏ tình cảm dồn nén bấy lâu của mình với người con gái mà
anh yêu. Và anh an lòng vì đã “làm được một điều hệ trọng nhất của cuộc đời”,
“anh tự hiểu rằng mình đã hoàn thành xong công việc của người đàn ông và giờ
đây chỉ còn chờ đợi cái khoảnh khắc cuối cùng của cuộc sống”. Những riêng
chung hòa vào nhau đó đã làm thức dậy cả một mùa hè huyền thoại” [107]. Qua
nhận xét của Đậu Dung, có thể thấy vẫn là mảng đề tài chiến tranh quen thuộc mà
Văn Lê khai thác, nét khác của Văn Lê ở tiểu thuyết Phượng hoàng chính là việc
nhà văn đi sâu vào khai thác, khám phá và lí giải vì sao, vì lí do gì ta có thể chiến
thắng được kẻ thù hùng mạnh như đế quốc Mỹ? Đó chính là phẩm hạnh của con
người.
Qua những ý kiến tổng hợp ở trên, có thể thấy cuốn tiểu thuyết Mùa hè giá
buốt và Phượng hoàng của Văn Lê đã nhận được những lời khen gợi và đã được
các nhà nghiên cứu đánh giá cao. Đặc biệt, khi đánh giá về nội dung, nghệ thuật
của tiểu thuyết Mùa hè giá buốt các tác giả đều có sự thống nhất khi khẳng định
giá trị hiện thực chân thực, sâu sắc của tiểu thuyết được tái hiện trên nền một tiểu
thuyết truyền thống. Cách tân không phải là mục đích của nhà văn hướng tới
nhưng chính cách nghĩ, cách thể hiện về chiến tranh của ông đã mang tính cách tân
và đưa lại cho người đọc sức hấp dẫn.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa thành tựu nghiên cứu của những người đi trước,
thông qua luận văn Chiến tranh và con người trong hai tiểu thuyết Mùa hè giá buốt
và Phượng hoàng của Văn Lê, người viết mong muốn có thể khảo sát và phân tích
12
cụ thể, toàn diện hơn chiến tranh và con người được tái hiện trong hai tiểu thuyết
của Văn Lê.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn Lê thành công với nhiều thể loại như thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch
bản phim tài liệu, phim điện ảnh Tuy nhiên, đối tượng của luận văn này là thông
qua hai cuốn tiểu thuyết Mùa hè giá buốt và Phượng hoàng, chúng tôi cũng sẽ tìm
hiểu về cách thể hiện con người và chiến tranh của ông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ mở rông phạm vi nghiên cứu
qua việc so sánh Văn Lê với một số tác giả khác viết về chiến tranh như Chu Lai,
Nguyễn Trọng Oánh, Bảo Ninh
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ mục tiêu của luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: với phương pháp này, chúng tôi sẽ chia
nhỏ tác phẩm, đi sâu vào phân tích để thấy được nghệ thuật miêu tả, xây dựng nhân
vật.
- Phương pháp liên ngành: lịch sử, văn hóa học, nghệ thuật học được dùng
để tiếp cận, nhằm nhận thức, tìm hiểu và khai thác đối tượng.
- Phương pháp so sánh: để thấy được đặc sắc của Văn Lê trong tương quan
với các tác giả cùng đề tài
5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài Chiến tranh và con người trong hai tiểu thuyết Mùa hè giá
buốt và Phượng hoàng của Văn Lê, chúng tôi muốn làm sáng tỏ giá trị nhân đạo
trong nội dung của các tiểu thuyết, thấy được sức mạnh của tình yêu trong chiến
tranh, sự gắn bó của người lính với làng quê, với văn hóa tâm linh; những chiêm
13
nghiệm, suy tư về thân phận con người của một nhà văn gắn bó với đề tài chiến
tranh. Chúng tôi hy vọng luận văn ít nhiều sẽ cung cấp cho độc giả thấy được
những đóng góp của Văn Lê cho đề tài chiến tranh - hiện thực và con người - trong
nền văn học cách mạng Việt Nam sau 1975.
Về nghệ thuật, luận văn chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết Mùa
hè giá buốt và Phượng hoàng của Văn Lê trong cách xây dựng hệ thống nhân vật
đa dạng; kết cấu “kép” lạ và độc đáo, bút pháp đan xen hữu thức và vô thức, đan
xen thực tế chiến tranh khốc liệt và thế giới tâm linh huyền bí; ngôn từ tiểu thuyết
đầy chất thơ.
Ngoài ra, chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp
phần thấy được phong cách riêng của Văn Lê trên văn đàn và chất nhân văn làm
nên giá trị trong các tác phẩm của Văn Lê. Bổ sung thêm nguồn tư liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu văn học viết về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách
mạng sau 1975.
14
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được chia thành 3 chương chính:
Chương 1: Văn Lê và đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
Chương 2: Hiện thực chiến tranh và chân dung con người trong tiểu thuyết
Mùa hè giá buốt và Phượng hoàng của Văn Lê
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện bức tranh cuộc chiến và chân dung con
người trong tiểu thuyết Mùa hè giá buốt và Phượng hoàng của Văn Lê
15
Chương 1
VĂN LÊ VÀ ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975
1.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và những yêu cầu cần đổi mới văn học sau
1975
1.1.1.1. Bối cảnh lịch sử và xã hội
Sau năm 1975, bước vào thời kì hòa bình, đất nước phải đối mặt với vô vàn
những khó khăn, thách thức. Nền kinh tế vốn đã nghèo nàn, lạc hậu bị chiến tranh
tàn phá càng trở nên thê thảm hơn. Cơ chế quan liêu bao cấp với nhiều bất cập, trì
trệ đã bộc lộ những nhược điểm: không kích thích sáng tạo lao động sản xuất cho
nên kìm hãm sự phát triển của xã hội, bộ máy hành chính nặng nề, quan liêu, công
tác quản lí yếu kém, chưa có kinh nghiệm, sự cấm vận của Mỹ....khiến cho đời
sống nhân dân thêm khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình chính trị còn nhiều bất ổn.
Đảng phải giải quyết những xung đột về giai cấp, ý thức hệ, vừa phải chống lại âm
mưu chống phá của bọn Pon Pot và nước láng giềng Trung Quốc. Cuộc sống sau
chiến tranh quả là không kém phần gai góc, phức tạp, đúng như Nguyễn Khải cảm
nhận: “Chiến tranh ồn ào náo động mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hòa bình
yên tĩnh, thanh bình mà lại chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên
trong”.
Trước sự khủng hoảng trầm trọng, sâu sắc trên mọi lĩnh vực đời sống của
thời kì hậu chiến, đổi mới trở thành con đường lựa chọn khẩn thiết, “là vấn đề có ý
nghĩa sống còn” của đất nước. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được chính
thức mở ra từ năm 1986, trong đó Đảng chủ trương xóa bỏ nền kinh tế quan liêu
bao cấp, xây dựng nền kinh tế mở, vận hành theo cơ chế thị trường. Làn gió mới và
cơ chế thị trường đã thực sự tạo ra không khí dân chủ, sôi nổi, hồ hởi, phấn khởi
trong cả nước. Tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều có sự
16
chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Nhờ vào
sự đổi mới mà nền kinh tế nước ta thoát khỏi sự khủng hoảng và từng bước được
phục hồi khiến cho đời sống nhân dân ngày càng ổn định, nâng cao, có điều kiện
quan tâm đến nhu cầu riêng tư của con người. Với phương châm đổi mới tư duy,
“nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật” của Đảng đã đem
đến đời sống dân chủ, cởi “trói” con người khỏi những định hướng khắt khe,
nghiêm ngặt của thời kì trước, cho phép “tiếp cận tối đa với những sự thật của
cuộc đời ở dạng nguyên khởi, chất phác, mộc mạc, không chau chuốt trang trí, tô
điểm” (Ma Văn Kháng). Tinh thần mở cửa của thời đại mới đã tạo điều kiện cho
con người tiếp cận các vấn đề hiện thực đời sống khách quan, đa chiều, công bằng
hơn. Nhiều vấn đề thuộc về cuộc chiến tranh đã qua cũng được nhìn nhận lại, bớt
cực đoan, duy lí. Con người hôm nay nhận thức về cuộc chiến ở cả niềm tự hào về
chiến thắng và sức mạnh dân tộc, và cả cái giá đắt đỏ đã phải trả để có được nó. Xu
thế mở của, hội nhập quốc tế, hợp tác cùng phát triển bền vững đã góp phần xoa
dịu mối hận thù dân tộc, giai cấp, giúp con người một thời ở hai chiến tuyến đối
địch xích lại gần nhau hơn, thấu hiểu lẫn nhau. Đường lối đổi mới được thông qua
là tiền đề quan trọng, thúc đẩy sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học, tạo ra luồng
sinh khí mới đưa văn học tới những bứt phá trong sự phát triển. Trong văn học,
đánh dấu cho sự đổi mới tư tưởng trong đội ngũ văn nghệ sĩ bắt đầu từ cuối năm
1987 là cuộc gặp gỡ với đại diện giới văn nghệ sĩ của tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh và Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị. Theo đó, văn học sẽ phát triển trên tinh
thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật, khuyến khích tìm tòi, thử nghiệm
trong sáng tạo nghệ thuật, giúp các văn nghệ sĩ vượt qua những e ngại, rụt rè, lo sợ
sự kiểm duyệt, sợ cả những cái “thường lơ lửng đâu đó trong không trung”, tự tin
nói thẳng, nói thật những suy nghĩ, quan điểm cá nhân về các vấn đề gai góc của
cuộc sống, mạnh dạn bứt phá, thử nghiệm những tìm tòi, sáng tạo, những cách thức
thể hiện mới. Các vấn đề về vai trò, chức năng của văn học cũng được xem xét,
17
điều chỉnh, diễn đạt lại. Có thể nói, làn sóng đổi mới ngoài xã hội, nhu cầu đổi mới
trong ý thức của người cầm bút làm sôi động bầu không khí sáng tác, đưa văn học
thoát khỏi thời kì bế tắc, khủng hoảng, bổ khuyết “khoảng chân không” của văn
học thời kì hậu chiến. Trong bối cảnh đó, văn học viết về chiến tranh nói chung,
tiểu thuyết nói riêng cũng có sự chuyển động tích cực, tự làm mới mình để phù hợp
với yêu cầu của thời đại và thị hiếu mới của công chúng.
Ngoài ra, cũng nhờ có chính sách cởi mở và đúng đắn mà việc tiếp nhận,
giao lưu văn hóa, văn học thế giới trở nên sôi nổi, cũng đã có những tác động tích
cực đến các nhà văn Việt Nam. Họ có điều kiện nắm bắt xu hướng chung của văn
học thế giới khi khai thác đề tài chiến tranh, điều này đã tạo nên sự thay đổi trong
diễn ngôn về chiến tranh trong tiểu thuyết. Chiến tranh được tái hiện trong tiểu
thuyết không chỉ nhằm mô phỏng quan điểm chính trị của một thể chế, giai cấp, ý
thức hệ hoặc tung hô lực lượng chiến thắng, mà nó còn thể hiện như là diễn ngôn
về thân phận con người, diễn ngôn chấn thương, diễn ngôn về văn hóa... Học tập
kinh nghiệm từ những tác phẩm văn học xuất sắc của thế giới viết về chiến tranh,
các nhà văn Việt Nam đã khắc phục cái nhìn thiên kiến, thô kệch khi đánh giá về
con người. Con người trong văn học sau 1975 viết về chiến tranh được soi xét lại
trong cái nhìn đa chiều, có sự gặp gỡ với mẫu hình chung của con người trong văn
học hiện đại thế giới. Các tiểu thuyết lớn của văn học thế giới còn đem đến cho các
nhà văn Việt Nam những gợi ý quan trọng về cách thức thể hiện. Những kinh
nghiệm của dòng ý thức, độc thoại nội tâm, sự linh hoạt trong điểm nhìn trần thuật,
thủ pháp kì ảo...ở nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh như: Nỗi buồn chiến tranh,
Chim én bay, Những bức tường lửa, Ăn mày dĩ vãng, Mùa hè giá buốt, Thượng
Đức...đã đem lại cho mảng tiểu thuyết này những sắc diện mới. Việc khám phá con
người bên trong cũng như tiếp cận hiện thực đã mở ra những chiều kích mới trong
tâm thế sáng tạo của người cầm bút.
18
Sự đổi mới trong văn học đã tạo ra sự đổi mới trong nhận thức và quan niệm
của con người với những nhu cầu và thị hiếu khác trước. Công chúng tiếp nhận văn
học hôm nay không còn “thuần chủng” như thời kì trước. Độc giả của tiểu thuyết
viết về vấn đề chiến tranh không chỉ là những người đã từng trải nghiệm cuộc sống
chiến tranh. Phần đông họ được sinh ra sau 1975, trong đó đông đảo, nhạy cảm
nhất là những độc giả thuộc thế hệ 8X, 9X – những người được sinh ra ở thời bình
của đất nước chính vì thế chiến tranh. Tiểu thuyết viết về chiến tranh không tạo ra
sức hấp dẫn như là những tác phẩm viết về các vấn đề của cuộc sống hiện tại của
họ như hôn nhân, tình yêu... Ngoài ra, còn phải kể đến những dòng tiểu thuyết
mang đậm tính chất thương mại, giải trí.
Giai đoạn văn học 1945 – 1975 lúc trước chưa tạo ra được mối quan hệ bình
đẳng giữa độc giả với nhà văn và tác phẩm. Vì vậy, người đọc dễ dàng đồng tình
với quan điểm của nhà văn, ít có nhu cầu đối thoại. Hoàn cảnh “thông diễn” mới
của thời kỳ sau hòa bình đã tạo nên vị thế dân chủ cho công chúng tiếp nhận văn
học. Họ có nhận thức riêng, quan điểm của riêng mình về những điều mà họ biết
và mục đích tìm đến văn học của con người ngày nay không giống nhau, có người
tìm đến tác phẩm văn học do nhiệm vụ nghiên cứu, có người lại muốn có thêm sự
hiểu biết về đời sống quanh mình, có người lại tìm đến văn học đơn giản chỉ để thư
giãn và giải trí. Sau chiến tranh, độc giả có điều kiện tìm hiểu về cuộc chiến tranh
của dân tộc từ nhiều kênh thông tin khác nhau, ví dụ như: qua những tư liệu lịch sử
của ta, tài liệu mật của đối phương, những cuốn nhật kí, hồi kí, thư từ của các cựu
quân nhân hai bên... cho nên, sự hiểu biết của họ về chiến tranh, quan niệm và cách
nhìn về chiến tranh cũng không còn giống trước. Mặt khác, sự phát triển của thời
đại công nghệ thông tin, các tài liệu ở thư viện đều được số hóa, các tiểu thuyết nổi
tiếng viết về chiến tranh cũng được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam. Trong điều kiện
sống hiện nay, độc giả có ít thời gian để đọc tiểu thuyết nhiều tập hoặc tiểu thuyết
19
dày. Tất cả những điều này đã tạo ra sự thay đổi trong việc tiếp nhận tác phẩm văn
học viết về vấn đề chiến tranh.
Như vậy, sự chuyển đổi hình thái xã hội đã tạo nên sự chuyển động, thay đổi
trên nhiều phương diện của văn học, trong đó có công chúng tiếp nhận. Nhu cầu,
thị hiếu, mục đích hướng đến văn học của công chúng tiếp nhận hôm nay đã có
nhiều điểm khác biệt so với trước. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển văn học.
1.1.1.2. Nhu cầu đổi mới lối viết của nhà văn
Nếu như trước đây trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, ưu tiên cho mục
tiêu giải phóng dân tộc, các nhà văn tự giác lao động hết mình với vai trò chiến sĩ –
nghệ sĩ. Với mục đích nhằm tuyên truyền, cổ vũ nhân dân trong chiến đấu, văn học
lúc này hướng đến những đề tài lớn, mang tính thời sự. Tuy nhiên, sau năm 1986,
đổi mới đã trở thành một nhu cầu của toàn xã hội, cả ở khâu tiếp nhận, ở chính bản
thân văn học thì nhu cầu đổi mới chính người cầm bút trở thành sự sống còn. Cảm
hứng sự thật trở thành cảm hứng đổi mới đầu tiên. Dân dần, những trải nghiệm cá
nhân về chiến trận, những đau thương, hy sinh và mất mát, và những suy ngẫm
mới của mình về chiến tranh đã được các nhà văn không né tránh và còn đạt ở
những cung bậc cảm xúc khác nhau. Nhà văn Chu Lai – bản thân là người có nhiều
trăn trở, cảm xúc, khi được thể hiện đúng mong ước bấy lâu của mình: “Bằng
những kiểm nghiệm bản thân, tôi hiểu ra rằng chiến tranh quả thật không vui vẻ
gì, đối với bất cứ dân tộc nào, dù là tự vệ hay xâm lược, chiến tranh đều mang ý
nghĩa bi kịch” [55]. Còn với nhà văn Khuất Quang Thuỵ thì chiến tranh hoàn toàn
“không phải trò đùa”. Và chính các nhà văn quân đội là những người đi tiên phong
trong việc “nhận thức lại” cách nhìn và đổi mới trong cách viết.
Nói tới khuynh hướng tái nhận thức về chiến tranh không có nghĩa là nhìn
nhận lại về cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta suốt hơn 30 năm, xóa nhòa
ranh giới phân biệt giữa chính nghĩa và phi nghĩa, ta và địch, thắng và thua Nhận
20
thức lại ở đây là nói tới một cách nhìn mới, toàn diện hơn về chiến tranh của nhà
văn sau khi đã có “độ lùi cần thiết” là khoảng thời gian vài chục năm và có điều
kiện đánh giá khách quan hơn theo chủ trương đổi mới của Đảng để sáng tạo nên
những tác phẩm vừa chân thực vừa hấp dẫn người đọc.
Với thể loại tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh và con người trong văn
xuôi thời kì đổi mới, chúng ta có thể ghi nhận một số thành công đáng chú ý cả về
nội dung lẫn nghệ thuật của một số nhà văn như: Thời xa vắng (Lê Lựu), Ăn mày dĩ
vãng (Chu Lai), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Bến không chồng (Dương
Hướng) Bên cạnh những cảm hứng sáng tác mới mẻ, có nhiều nhà văn còn được
chú ý tìm tòi đổi mới cách viết tiểu thuyết theo hướng hiện đại như Bảo Ninh với
Nỗi buồn chiến tranhỞ thời kỳ mới, các nhà văn đã có cái nhìn đầy đủ và bao
dung hơn về chiến tranh. Trong bài viết Kỹ thuật dòng ý thức qua Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh, tác giả Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Bảo Ninh không miêu
tả cuộc chiến tranh ở mặt trước của tấm huy chương. Không phải nhà văn có ý
định “giải thiêng” cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mà anh muốn nhìn phía
khác, phía những người lính đã chịu bao nhiêu mất mát hi sinh. Đó cũng là một
phần làm nên sự vĩ đại của dân tộc” [82, tr. 400]. Có thể thấy rằng cốt lõi của quá
trình đổi mới nằm ở việc các cây bút đã có nhận thức đúng đắn về bản chất thẩm
mỹ của văn học, về sứ mệnh cao cả của những người viết sử bằng văn, và cả ở việc
nhận thức văn chương cũng là một nghề, một nghiệp.
Cuộc kháng chiến suốt 30 năm ở thế kỉ XX là một sự kiện trọng đại của lịch
sử dân tộc, bởi vậy, viết về cuộc chiến tranh này cũng là viết về một đề tài lịch sử.
Điều này đặt ra cho các nhà văn sau 1975 những khó khăn nhất định khi muốn đổi
mới phải vươt qua được sự trì níu của truyền thống, những tính cách đã được định
hình cả ngàn năm trong tư tưởng cộng đồng, những luật lệ trong xã hội đã thuộc về
bản sắc. Không phải ai cũng dám bứt phá và bứt phá thành công. Nhưng, dù sao
nhu cầu đổi mới, được là chính mình của mỗi nhà văn cũng đã góp phần thúc đẩy
21
văn học viết về chiến tranh nói chung, tiểu thuyết nói riêng, vận động phát triển,
trở nên hấp dẫn hơn, mới mẻ hơn trong cách nhìn về lịch sử. Ý thức sáng tạo vừa tạo
nên những tác phẩm mang dấu ấn truyền thống dân tộc, vừa hội nhập với văn học thế
giới ngày nay.
1.1.2. Một số khuynh hướng viết về chiến tranh trong tiểu thyết Việt Nam
sau 1975
1.1.2.1. Khuynh hướng thể hiện con người bị chấn thương và những số phận
bi kịch
Nếu như trước năm 1975, cảm hứng anh hùng là cảm hứng chủ đạo trong
tiểu thuyết chiến tranh thì sau 1975, cái bi và cảm hứng bi kịch dần trở thành chủ
đạo. Từ tâm thế ra trận như “đi hội mùa xuân” đến cảm nhận “chiến tranh là nước
mắt”, viết về chiến tranh “quan trọng nhất là làm nên được nỗi đau của nhân vật”
là cả một hành trình vận động của văn học. Viết về nỗi đau, viết về bi kịch cá nhân
để tố cáo chiến tranh, nhận chân giá trị chiến thắng, để tri ân đồng bào, đồng chí,
để trân trọng sự sống, trân trọng hòa bình là tâm niệm của không ít nhà văn. Con
người bị chấn thương ngày càng xuất hiện nhiều và trở thành kiểu nhân vật mới
của tiểu thuyết về chiến tranh. Để lại dấu ấn sâu sắc hơn là số phận những người
lính bị chấn thương, hoặc bị chứng kiến, hoặc buộc phải trải qua sự hủy diệt của
bạo lực phi nhân (Ví dụ như trong tiểu thuyết Mùa hè giá buốt và Phượng hoàng
của Văn Lê, những người lính nói chung, họ luôn bị ám ảnh trong tâm trí của mình
sau mỗi trận đánh họ đi thu lượm xác đồng đội để chôn). Đến khi hòa bình, tiếp tục
bị “hội chứng chiến tranh” hành hạ, nhiều người không tìm được trạng thái cân
bằng, không hòa nhập được vào hiện tại, trở thành “lạc thời” và thường rơi vào bi
kịch bế tắc. Theo chúng tôi, cách thể hiện nhân vật bị chấn thương của Bảo Ninh
trong Nỗi buồn chiến tranh và của Chu Lai trong Ăn mày dĩ vãng là ám ảnh hơn cả.
Chiến tranh đã đi qua nhưng nhiều phụ nữ không thể tìm thấy được tình yêu và
một mái ấm gia đình. Đó là một bi kịch lớn nhất của người phụ nữ ở thời binh lửa.
22
Họ là Thu (Nước mắt đỏ), Quy (Chim én bay), Ba Sương (Ăn mày dĩ vãng),
Phương, Hiền (Nỗi buồn chiến tranh)... Đi sâu vào số phận bất hạnh của con người
tức là văn học đã cân đo chiến tranh bằng cái cân nhân tính. Tuy viết về bi kịch, về
mất mát, đau thương nhưng nhà văn không bao giờ mất niềm tin ở con người, họ
vẫn nhìn ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những người biết gắng gói chắt chiu
từng “giọt” nhân tính giữa môi trường bạo lực phi nhân. Đó chính là chiều sâu
nhân đạo mà một số tiểu thuyết đạt được.
Ngoài ra, sau 1975, người viết quan tâm đến những mảng hiện thực còn
khuất lấp, hiện thực trong lòng người, hiện thực “của riêng anh”. Nhìn từ số phận
cá nhân, chiến tranh là sự bất thường, phi lí, khốc liệt, nó để lại những di chứng
nặng nề và thường đồng nghĩa với tai họa, nỗi buồn, chết chóc, đói khổ, sự hủy
diệt tình yêu...đó là những điều phi lí nhất mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con
người. Không né tránh hiện thực ấy, nhà văn đã đem đến cái nhìn toàn diện hơn về
một chặng lịch sử hào hùng nhưng cũng đầy bi thương của dân tộc. Tính chất khốc
liệt của chiến tranh đã được nói tới trong văn chương sau 1975, song trước những
năm 90, chưa tác phẩm nào có mức độ thể hiện như Nỗi buồn chiến tranh và Ăn
mày dĩ vãng hay trong tiểu thuyết Mùa hè giá buốt được xây dựng từ những dữ liệu
lịch sử của nhà văn Văn Lê. Đây là những tác phẩm gây shock với người đọc bằng
những trang văn “đầy giẫy tử thi” và “ngập ngụa máu”. Tiếp cận hiện thực này, dù
chỉ trên trang giấy, tâm hồn người đọc vẫn bị chấn động mạnh bởi niềm xót xa,
thương cảm. Nhìn chiến tranh từ số phận con người, nỗi buồn đã trở thành âm
hưởng xuyên suốt nhiều tác phẩm.
1.1.2.2. Khuynh hướng khám phá người anh hùng lưỡng diện
Sau 1975, trong bộ phận tiểu thuyết về chiến tranh, các tác phẩm thuộc về
thể tài lịch sử dân tộc chiếm vị trí quan trọng. Nhân vật anh hùng lưỡng diện đã trở
thành kiểu nhân vật trung tâm. Họ có thể là nhân vật bất toàn như Lưu Dương - Tư
Thiên, Phạm Xuân Ban trong Bức tường lửa (Khuất Quang Thụy), hoặc là người
23
anh hùng có đời sống nội tâm không đơn giản như Vũ ngọc Nhạ trong Ông cố vấn
- Hồ sơ một điệp viên (Hữu Mai), hay Nguyễn Sĩ Việt trong Mùa hè giá buốt (Văn
Lê). Kiểu nhân vật anh hùng lưỡng diện góp phần quan trọng trong sự đổi mới tiểu
thuyết sử thi. Khi nhân vật sử thi anh hùng truyền thống được thay thế bằng người anh
hùng lưỡng diện, hiện thực chiến tranh cũng được soi chiếu từ những chiều kích khác
nhau. Bên cạnh cảm hứng chủ đạo là ngợi ca, nhiều tiểu thuyết sử thi còn có những
cảm hứng nghệ thuật khác như: cảm hứng bi tráng, cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân
bản...
Ngoài ra, khi khám phá người anh hùng lưỡng diện còn là sự thay đổi quan
niệm về người anh hùng với cái nhìn công bằng hơn về những người bên kia chiến
tuyến. Trong Ông cố vấn – Hồ sơ một điệp viên, Hữu Mai thấy được cả phần xấu
xa lẫn phần nhân tính ở những nhân vật kẻ thù có thật. Ở một số tiểu thuyết sử thi
ra đời vào đầu thế kỉ XXI, bên cạnh những mặt xấu, nhiều nhân vật của phía bên
kia được khắc họa như những kẻ mưu lược, có lí tưởng và dám chết cho lí tưởng
mà họ lựa chọn. Trong quan hệ đời thường, họ cũng là người chồng, người cha rất
mực thương yêu vợ con. Nhìn chung loại nhân vật này vừa được thể hiện ở góc độ
đời tư, đôi khi nhà văn còn dành nhiều công sức hơn cho việc miêu tả đời tư của
nhân vật. Ví dụ như nhân vật Nguyễn Quốc Hùng trong Thượng Đức rất tiêu biểu
cho những đổi mới trong việc nhìn nhận con người từ chiến tuyến đối lập. Xét về
quan điểm giai cấp và chính trị, họ là kẻ thù nhưng từ phương diện số phận cá
nhân, họ là những kẻ bất hạnh. Qua đó, có lẽ một số nhà văn muốn thể hiện thông
điệp: chiến tranh là bi kịch chung của toàn dân tộc, dù thế nào thì người lính phía
bên kia vẫn là những con dân Việt Nam. Họ không chủ động chọn con đường này
nhưng lịc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004664_901_2003220.pdf