LỜI CAM ĐOAN . 1
LỜI CẢM ƠN . 2
MỤC LỤC . 3
MỞ ĐẦU. 5
1. Lý do chọn đề tài.5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .8
5. Phương pháp nghiên cứu .8
6. Đóng góp của luận văn .9
7. Bố cục của luận văn .9
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC CỦA CHÍNH SÁCH BÀI DO THÁI . 10
1.1. Nền tảng ý thức hệ .10
1.1.1. Học thuyết Darwin xã hội .10
1.1.2. Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù.11
1.1.3. Chủ nghĩa bài Do Thái .11
1.2. Một số nhân vật bài Do Thái nổi tiếng và Hitler- “cha đẻ của tiến trình.12
diệt chủng”.12
1.3. Biểu tượng Swastika và lá cờ Đức quốc xã.32
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI
CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRƯỚC CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI ( 1933- 1939). 34
2.1. Tổ chức.34
2.1.1. GESTAPO.34
2.1.2. SA.36
2.1.3. SS.36
2.2. Tiến hành trục xuất .38
2.3. Ban hành các đạo luật. .42
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ ĐỐI VỚI
CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU TRONG CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945). 48
3.1. Tổng quan về Holocaust.48
3.1.1. Đặc điểm.48
95 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách của chính phủ đức quốc xã đối với các cộng đồng người Do thái ở Châu âu (1933 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lại Đức, ông lên tiếng cáo
buộc tình hình ở Đức là “một sự bệnh hoạn tinh thần của quần chúng”, Einstein bị trục xuất
khỏi Hội Kaiser Wilhelm và Hàn lâm viện Khoa học Phổ, quốc tịch của ông cũng bị tước
bỏ. Saul Friedlander thuật lại rằng khi Max Liebermann- có lẽ là họa sĩ tài danh nhất nước
Đức, cũng là chủ tịch danh dự Hàn lâm viện nghệ thuật Phổ- từ nhiệm, không ai trong số
các đồng nghiệp tìm đến bày tỏ sự đồng cảm, hai năm sau ông chết trong khi bị phát vãng.
Hệ thống giáo dục của Đức, đã từng là một trong những hệ thống giáo dục tốt nhất thế
giới, bị Đảng Đức quốc xã thay đổi và hủy hoại. Những giáo viên người Do Thái bị mất
việc ngay lập tức còn những giáo viên khác phải gia nhập Liên đoàn giáo dục xã hội chủ
40
nghĩa dân tộc. Các lớp học trở thành trung tâm chỉ huy của lính bão táp. Lá cờ có hình dấu
thập ngoặc được treo trước mỗi phòng học. Trên tường có treo ảnh Hitler. Lúc lên lớp hay
tan học mọi người đều phải chào theo kiểu nhà binh “Hiel Hitler”.
Đặc biệt, cuốn sách “Mein Kampf” là cuốn sách bắt buộc của học sinh ở mọi cấp độ và
ở mọi lớp. Các lớp học phải tổ chức đọc, thảo luận và viết nhận xét về quyển sách đó, và khi
đến hết chương cuối cùng thì phải quay lại từ trang đầu tiên.
Tất cả sách giáo khoa phải viết lại và mỗi môn học đều được dạy theo quan điểm của
Đảng Đức Quốc xã. Chủ nghĩa dân tộc và chống người Do Thái được nhồi vào đầu của học
sinh. Học sinh được học là họ, những người Aryan, thuộc dân tộc thượng đẳng sinh ra đã
thống trị thế giới. Người Do Thái là loại người đáng kinh tởm và đáng ghét. Ví dụ như học
sinh ở lớp thấp được những cuốn sách có tranh minh họa như: “Không nên tin tưởng vào bất
cứ con cáo và người Do Thái nào”. Một cuốn sách nổi tiếng khác là “Cây nấm độc” coi
những người Do Thái xấu xa như những nọc độc. [33, tr.100-101].
Suốt trong thập niên 1930, các quyền pháp lý, kinh tế, và xã hội của người Do Thái
dần dà bị hạn chế. Theo Friedlander, đối với Quốc xã, sức mạnh của nước Đức bắt nguồn từ
“sự tinh tuyền của dòng máu Đức” và “sự bắt rễ sâu trong mảnh đất Đức thiêng liêng”.
Trong lĩnh vực kinh tế, chính phủ Đức Quốc xã tiến hành tẩy chay các doanh nghiệp
của người Do Thái ở Đức diễn ra vào ngày 01 tháng 4 năm 1933, ngay sau khi Adolf Hitler
tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Tẩy chay là biện pháp đầu
tiên trong nhiều biện pháp chống lại người Do Thái của Đức, mà cuối cùng lên đến đỉnh
điểm trong các "giải pháp cuối cùng". Đó là một chiến dịch nhà nước quản lý việc quấy rối,
bắt bớ, cướp đoạt có hệ thống, chuyển giao bắt buộc quyền sở hữu cho các nhà hoạt động
đảng Quốc xã (do quản lý Phòng Thương mại) và cuối cùng là giết chủ sở hữu được định
nghĩa là "người Do Thái". Chỉ tính riêng trong Berlin, đã có 50.000 doanh nghiệp thuộc sở
hữu của người Do Thái (gần 50% doanh nghiệp tư nhân thuộc sở hữu của tất cả các doanh
nghiệp ở Berlin) khi Đức quốc xã lên nắm quyền. [73].
Trong tháng 3 năm 1933 Đức quốc xã giành được một số lượng lớn các ghế trong quốc
hội Đức. Sau chiến thắng đã có bạo lực lan rộng nhắm vào các doanh nghiệp của người Do
Thái và cá nhân. Luật sư người Do Thái và các thẩm phán đã bị ngăn cản đến các tòa án.
Trong một số trường hợp SA tạo ra trại tập trung đối với người Do Thái chống lại Đức quốc
xã.
41
Kể từ khi báo chí quốc tế được báo cáo một cách chi tiết về tội ác của lực lượng SA,
bao gồm đưa ra khỏi đời sống chính trị của người Do Thái đến trại tập trung 'hoang dã', nơi
họ đã bị lạm dụng, tra tấn và sát hại, và sự lãnh đạo của NSDAP tổ chức các nạn nhân chịu
trách nhiệm về phản ứng quốc tế với các hành động NSDAP. Họ tuyên bố chính sách
chống Do Thái của họ là phòng thủ.
Ngày 01 tháng 4 năm 1933, Đức quốc xã thực hiện trên toàn quốc, kế hoạch hành động
đầu tiên của họ chống lại người Do Thái: tẩy chay nhắm mục tiêu các doanh nghiệp của
người Do Thái. Trong lúc này, nếu bạn mua hàng của người Do Thái thì bạn phải lau sạch
một dãy phố với bàn chải trong khi hàng đoàn người đứng xung quanh cười nhạo.
Vào ngày tẩy chay, các lực lượng SA đe dọa trước các cửa hàng của người Do Thái và
các văn phòng của các chuyên gia như bác sĩ và luật sư. Ngôi sao David đã được sơn màu
vàng và đen gắn trên hàng ngàn cửa ra vào và cửa sổ, đi kèm với khẩu hiệu chống Do Thái.
Khẩu hiệu được viết: "Đừng mua từ người Do Thái!" (Kauf nicht bei Juden!), "Người Do
Thái là bất hạnh của chúng tôi!" (Die Juden sind Unser Unglück! [53].
Hoạt động tẩy chay hàng hóa của chính phủ Đức Quốc xã đối với người Do Thái còn
được sự ủng hộ của quốc tế.
Tẩy chay của Đức Quốc xã lấy từ cuộc tẩy chay tương tự ở các nước khác. Ở Ba Lan,
người đứng đầu Giáo hội Công giáo, Đức Hồng Y Hlond kêu gọi tẩy chay các doanh nghiệp
của người Do Thái trên khắp đất nước. Chính phủ dừng lại thuê người Do Thái và phát huy
việc tẩy chay các doanh nghiệp của người Do Thái từ năm 1935. Nghi lễ giết mổ của người
Do Thái đã bị cấm ở Ba Lan vào năm 1936 (trong đó Đức đã bị cấm từ năm 1930).
Ở Palestine, lãnh đạo Ả Rập tổ chức tẩy chay của các doanh nghiệp của người Do
Thái từ năm 1929 trở đi, với bạo lực thường hướng vào người Ả Rập, những người đã kinh
doanh với người Do Thái.
Ở Mỹ ủng hộ Đức Quốc xã như Cha Charles Coughlin kích động tẩy chay của các
doanh nghiệp của người Do Thái và có bạo lực lan rộng chống lại các mục tiêu của người
Do Thái. Các trường Đại học Ivy League hạn chế số lượng người Do Thái cho phép nhập
học.
Áo trong một tổ chức gọi là Antisemitenbund đã vận động chống lại quyền công dân
của người Do Thái từ năm 1919. Tổ chức lấy cảm hứng từ Karl Lueger huyền thoại thế kỷ
19, thị trưởng Do Thái Vienna, người truyền cảm hứng cho Hitler và cũng đã vận động tẩy
42
chay của các doanh nghiệp của người Do Thái. Chiến dịch tẩy chay ở Áo có xu hướng nâng
cao vào dịp Giáng sinh và có hiệu lực từ năm 1932.
Tại Hungary, chính phủ thông qua luật hạn chế hoạt động kinh tế của người Do Thái
từ năm 1938 trở đi. Kích động tẩy chay ngày trở lại vào giữa thế kỷ XIX, khi người Do
Thái nhận quyền bình đẳng.
Các hoạt động tẩy chay quốc gia đánh dấu sự khởi đầu của một chiến dịch toàn quốc
của đảng Quốc xã đối với toàn bộ dân số của người Do Thái tại Đức.
2.3. Ban hành các đạo luật.
Năm 1933, một loạt các đạo luật được thông qua nhằm trục xuất người Do Thái khỏi
những khu vực quan trọng: luật dịch vụ dân sự, luật thầy thuốc và luật nông trang cấm
người Do Thái sở hữu nông trại hay hoạt động nông nghiệp, luật sư Do Thái bị loại khỏi
luật sư đoàn. Tại Dresden, các luật sư và thẩm phán người Do Thái bị lôi ra khỏi văn phòng
và tòa án, rồi bị hành hung. Người Do Thái bị đuổi khỏi trường học và các viện đại học,
cũng như bị loại bỏ khỏi hội nhà báo.
Một tuần sau đó, vào 07 tháng 4 năm 1933, các Luật dân sự đã được thông qua, trong
đó hạn chế quyền của dân tộc không phải "người Aryan ". Điều này có nghĩa rằng người
Do Thái không được phục vụ trong các ngành như giáo viên, giáo sư, thẩm phán, hoặc các
vị trí khác của chính phủ. Nhân viên chính phủ Do Thái, kể cả giáo viên trong các trường
công lập và các trường đại học, đã bị bắn. Người Do Thái đã bị cấm không được tuyên bố
bất kỳ quyền lợi nào như cựu chiến binh chiến tranh (35.000 người Do Thái của Đức đã
chết trong chiến tranh thế giới thứ nhất). Bất kỳ người Do Thái mang quốc tịch Đức đều bị
tước quyền công dân. Chỉ 1% về số lượng người Do Thái được phép học trong các trường
đại học. Trong việc sửa đổi pháp luật, trong đó nói rằng tất cả người không phải là người
Aryan bị loại ra khỏi đời sống xã hội.
Đặc biệt, năm 1935, Hitler giới thiệu bộ luật Nurnberg tước quyền công dân và tất cả
các quyền dân sự của người Do Thái. Trong bài diễn văn của mình, Hitler nói nếu bộ luật
này không giải quyết nổi “vấn nạn Do Thái” thì cần phải làm luật giao cho Đảng Quốc xã
đưa ra giải pháp tối hậu (Endlosung). Thuật Endlosung trở thành cách nói chuẩn của chính
phủ Quốc xã khi ám chỉ biện pháp tuyệt diệt dân Do Thái.
Theo luật Nuremberg người Do Thái không được coi là công dân, thậm chí họ cũng
không được coi là con người, người Do Thái thấy cuộc sống của họ trở thành cơn ác mộng.
43
Dưới đây là danh sách tóm tắt những điều mà người Do Thái không được làm hay không có
được vào thời đế chế thứ III. [33].
*Người Do Thái không được đi trên một số con phố nhất định, không được ngồi trên
ghế ở công viên, không được sử dụng bể bơi hay phương tiện công cộng, không được đến
bảo tàng, nhà hát và rạp chiếu phim, không được lái xe hay cắt tóc mà thợ cắt tóc là người
“Aryan”.
*Người Do Thái không được phép có đồ dùng bằng điện , đài máy đánh chữ , máy
hát hay xe đạp.
*Ở nhiều nơi , người Do Thái không được mua thuốc, hoặc không được mua hoa quả
hay rau thậm chí sữa cho con họ.
*Những cửa hàng, những trang trại của người Do Thái đều bị cướp phá, kèm theo đó
là hầu hết số tiền tiết kiệm của họ trong ngân hàng.
* Để khiến cho họ dễ bị nhận diện, người Do Thái phải đeo một ngôi sao vàng trên áo
với dòng chữ: “Do Thái” mầu đen. Đàn ông Do Thái lấy “Israel” làm họ và phụ nữ thì lấy từ
“Sara”. Đến cuối năm 30, tỉ lệ tự sát của người Do Thái tăng gấp ba lần tỉ lệ khi người ta
tuyệt vọng.
Cuộc hôn nhân giữa người Do Thái và người dân ( Đức : Staatsangehörige) máu Đức
hoặc họ hàng đều bị cấm. Cuộc hôn nhân bất chấp pháp luật này sẽ bị hủy, ngay cả khi, với
mục đích trốn tránh pháp luật này, họ đã kết hôn ở nước ngoài.
Thời gian 1933-1939, đã ban hành hơn 400 đạo luật chống Do Thái. Người Do Thái
ở Đức và các vùng quân Đức chiếm đóng lúc này bị buộc phải đeo hình ngôi sao David sáu
cánh màu vàng để phân biệt với những người khác.
Như vậy, có thể nói rằng, với những đạo luật đã ban hành, việc phân biệt đối xử đối
với người Do Thái dưới thời cầm quyền của Hitler đã được nâng lên cấp chính phủ, được
thực hiện một cách công khai.
Đồng thời, dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, một chiến
dịch bôi nhọ đã được dàn dựng kỹ lưỡng nhằm mô tả người Do Thái là kẻ thù của dân tộc
Đức. Hàng ngày, những luận điệu vu khống chống Do Thái đã xuất hiện trên các báo chí
Quốc xã, các áp phích chiếu bóng, phát thanh, trong các diễn văn của Hitler, của các thủ
lĩnh Quốc xã và trong cả trường học. Người Do Thái đã mất tất cả, kể cả nhà ở và cơ sở
kinh doanh, thế nhưng, người Đức không phải gốc Do Thái lại không hề phản đối hoặc công
khai la ó. Cuốn phim tuyên truyền của đảng Quốc xã nhan đề “Tên Do Thái muôn thuở” đã
44
đi xa tới mức so sánh người Do Thái như những con chuột mang bệnh dịch. Cuốn phim này
chính là điềm báo trước những hậu quả sẽ tới
Tháng 3/1938, Hitler dùng vũ lực thôn tính nước Áo. Ngay lập tức, Hitler bắt đầu trấn
áp người Do Thái tại đó. Người Do Thái ở Áo cũng mất tất cả và bị công khai làm nhục,
như phải đi cọ rửa vỉa hè trước sự chế nhạo của những đám đông thân Quốc xã.
Nhiều nhà nghiên cứu xem vụ bạo động bài Do Thái mệnh danh Kristallnacht (Đêm
Kính vỡ), ngày 9 tháng 11 năm 1938, là thời điểm khởi phát vụ Holocaust. Trên khắp nước
Đức, người Do Thái bị tấn công và tài sản của họ bị cướp phá. Khoảng 100 người Do Thái
bị giết, và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, có hơn 7.000 cửa hiệu và 1 668
hội đường của người Do Thái bị tàn phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Những cảnh tương tự
cũng diễn ra tại Áo, đặc biệt là ở Wien.
Bắt đầu người ta đuổi ra khỏi nước Đức những người Do Thái có gốc rễ Ba Lan láng
giềng. Đêm 27 tháng 10 năm 1938, 18.000 người Do Thái công dân Ba Lan bị chở đến biên
giới và buộc phải rời khỏi lãnh thổ Đức. Nhưng giờ đây lại đến lượt các cấp chính quyền Ba
Lan từ chối tiếp nhận họ.
Được biết về những nỗi khổ của đồng bào mình bị đẩy vào giải phân cách giữa hai
nước, chàng thanh niên 17 tuổi Hershel, đã đến đại sứ quán Đức ở Pari ngày 7 tháng 11 năm
1938. Anh dự định bắn chết viên đại sứ- Nam tước Iokhaes Fon Velchek nhưng lại bắn vào
nhân viên đại sứ quán đầu tiên mà anh nhìn thấy.
Sự thật trớ trêu đó chính là bí thư sứ quán Ernst fon Rat- người mà Gestapo đã để ý
đến vì bị tình nghi là có quan điểm chống Quốc xã. Ông ta bị thương nặng và chết không
lâu sau đó. [33].
Việc ám sát Ernst fon Rat được chính phủ Quốc xã sử dụng cho hành động tổng lực
chống lại người Do Thái trên toàn nước Đức. Đêm rạng ngày 10 tháng 11 năm 1938, tư lệnh
Himler, viên chỉ huy cơ quan an ninh quốc gia của SS Reinchard Heidric và chỉ huy
Gestapo Hendric Miuler đã tổ chức các cuộc tấn công hành loạt vào những người Do Thái,
các cửa hàng và các nhà thờ Do Thái. Cuộc triệt hạ này đi vào lịch sử dưới cái tên “Đêm
pha lê”.
Trong mệnh lệnh cho các toán xung kích ngày 9 tháng 11 năm 1938 nêu: “Các thành
viên SA mặc đồng phục phải phá hủy tất cả các cửa hàng của người Do Thái. Sau đó đặt các
trại gác để những loại hàng hóa quý không bị đánh cắp. Tất cả các nhà thờ Do Thái phải bị
thiêu cháy ngay lập tức”. [34, tr.48].
45
Các cuộc tàn sát diễn ra đặc biệt ở Berlin và Vienna, nơi có cộng đồng người Do Thái
lớn nhất ở Đức. Lực lượng SA tấn công người Do Thái trong nhà của họ và buộc người Do
Thái thực hiện hành vi sỉ nhục công khai.
Nhận lệnh của Hitler, Hermann Goering và Richard Heydich đã gây ra cuộc khủng bố
với ngưới dân yếu đuối. Những giáo đường chìm ngập trong bể lửa. Những nhà kho của
người Do Thái bị cướp phá, những mảnh vỡ từ những khung cửa kính bị vứt đầy trên đường
phố. Hàng nghìn người Do Thái bị lôi đến trại tâp trung. Cộng đồng người Do Thái sau đó
buộc phải trả cho Đức quốc xã vì những thiệt hại với tài chính của họ, cộng thêm số tiền
phạt rất lớn.
Trẻ em Do Thái cũng cảm thấy cực kỳ căm hờn giống như cha mẹ các em. Chúng
được nuôi dậy để nghĩ rằng họ là người Đức với niềm tin của người Do Thái; nhiều người
cha mẹ của các em đã phục vụ cho nước Đức và đã được tặng rất nhiều huy chương trong
suốt thế chiến thứ I. Giờ đây, chúng bỗng thấy mình bị căm ghét, bị xa lánh.
Những bé trai và bé gái Do Thái phải ngồi trong lớp học, lắng nghe một cách trăm
chú, trong khi đó cô giáo của họ đang thuyết giải về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và nói
những trò đùa chống đối người Do Thái. Vào những giờ ra chơi hoặc sau giờ tan học họ lại
bị những bọn hay bắt nạt người khác - thuộc hội thanh niên Hitler – đánh đập. Phàn nàn với
cảnh sát hoặc hiệu trưởng, họ có thể bị tát hoặc bị chửi là “đồ Do Thái bẩn thỉu”. Cuối cùng
sau thế chiến “Đêm thủy tinh” tất cả học sinh Do Thái bị đuổi học.
Như sự lây lan cuộc tàn sát, các đơn vị của SS và Gestapo, theo hướng dẫn của
Heydrich, đã bắt giữ lên đến 30.000 nam giới của người Do Thái, và chuyển giao hầu hết
trong số họ khỏi các nhà tù địa phương ở Dachau, Buchenwald, Sachsenhausen, và các trại
tập trung khác. Đáng kể, Kristallnacht đánh dấu thời khắc đầu tiên mà chế độ Đức Quốc xã
giam giữ người Do Thái trên quy mô lớn. Hàng trăm người chết trong các trại như một kết
quả của việc điều trị tàn bạo và bắt đầu quá trình di cư khỏi nước Đức. Thật vậy, những tác
động của Kristallnacht đã thúc đẩy việc di cư của người Do Thái từ Đức trong những tiếp
theo sau đó.
Do hậu quả trực tiếp của cuộc tàn sát, nhiều nhà lãnh đạo Đức, như Hermann Göring,
chỉ trích các thiệt hại vật chất mở rộng sản xuất bởi các cuộc bạo loạn Do Thái, chỉ ra rằng
nếu không có gì đã được thực hiện để can thiệp, công ty, không bảo hiểm Đức Do Thái
thuộc sở hữu doanh nghiệp, sẽ phải thực hiện các chi phí thiệt hại. Tuy nhiên, các nhà lãnh
đạo Đảng quyết định sử dụng các biện pháp để loại bỏ người Do Thái và ảnh hưởng của
46
người Do Thái từ các lĩnh vực kinh tế Đức. Chính phủ Đức đã thực hiện một tuyên bố ngay
rằng "người Do Thái" chính là nguyên nhân cho các cuộc tàn sát và phạt tiền trừng phạt
một tỷ Reichsmark (khoảng 400 triệu đô la Mỹ năm 1938) trên cộng đồng Do Thái của Đức.
Chính phủ Đức quốc xã tịch thu tất cả tiền thưởng bảo hiểm của người Do Thái, các doanh
nghiệp và nhà cửa đều bị cướp hoặc bị phá hủy, để lại các chủ sở hữu cá nhân của người Do
Thái chịu trách nhiệm về chi phí của tất cả các sửa chữa.
Trong những tuần sau đó, chính phủ Đức đã ban hành hàng chục luật và nghị định để
tước đoạt tài sản của người Do Thái và các phương tiện sinh kế. Nhiều người trong số
những luật này được thực thi "Aryanization"- chính sách chuyển doanh nghiệp và tài sản
cho "người Aryan" quyền sở hữu, thường là trong một phần nhỏ của giá trị thật của người
Do Thái sở hữu. Pháp luật tiếp theo cấm người Do Thái, đã không đủ điều kiện cho việc
làm trong khu vực công, từ thực hành hầu hết các ngành nghề trong khu vực tư nhân, và có
những bước tiến xa hơn trong việc loại bỏ người Do Thái khỏi đời sống công cộng. Các
quan chức giáo dục Đức bị trục xuất nếu trẻ em Do Thái vẫn còn theo học tại trường Đức.
Tại Đức, người Do Thái bị mất quyền được giữ giấy phép lái xe hoặc sở hữu một chiếc ô tô,
pháp luật cố định hạn chế quyền truy cập vào giao thông công cộng. Người Do Thái có thể
không còn được nhận vào nhà hát, rạp chiếu phim, hoặc phòng hòa nhạc.
Các sự kiện của Kristallnacht đại diện một trong những bước ngoặt quan trọng nhất
trong chính sách xã hội quốc gia Do Thái. Nhà sử học đã lưu ý rằng sau khi cuộc tàn sát,
chính sách chống Do Thái đã được tập trung hơn và cụ thể hơn vào tay của lực lượng SS.
Chế độ Quốc xã mở rộng một cách cực đoan biện pháp nhằm loại bỏ người Do Thái hoàn
toàn từ đời sống kinh tế và xã hội Đức trong những năm tới, từ đó đi đến giải pháp cuối
cùng đối với chính sách di cư cưỡng bức, và cuối cùng đối với việc thực hiện một Đức
"miễn phí của người Do Thái" (judenrein) bằng cách trục xuất số dân Do Thái "tới Trung
Đông."
Do đó, Kristallnacht như một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đàn áp người Do
Thái, mà lên đến đỉnh điểm trong nỗ lực của Đức Quốc xã tàn sát người Do Thái ở châu Âu.
Hơn một ngàn người đã chết. Hai trăm sáu mươi nhà thờ bị phá hoại. Đây là sự khởi
đầu cho sự tiêu diệt người Do Thái.
47
Tiểu kết chương 2
Được mang ra thực hiện ngay sau khi nắm quyền, chính sách bài Do Thái của chính
quyền Quốc xã do Hitler cầm đầu đã tạo ra những nạn nhân đầu tiên của chế độ. Vốn là một
cộng đồng sinh sống đã nhiều trăm năm trên lãnh thổ Đức, người Do Thái đã đóng góp
không biết bao công sức vào tiến trình kiến tạo nước Đức và giữ một vai trò không thể thiếu
được trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước này. Do vậy, chính sách gạt bỏ người Do
Thái một cách không thương tiếc và rất đỗi tùy tiện chắc chắn đã tạo ra một khoảng trống
không thể tram đầy chỉ trong một thời gian ngắn. Hẳn đây là một trong những nguyên nhân
góp phần đẩy chế độ Quốc xã đến chỗ sụp đổ chỉ sau 12 năm tại vị.
48
CHƯƠNG 3: CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỨC QUỐC XÃ
ĐỐI VỚI CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DO THÁI Ở CHÂU ÂU
TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939-1945)
Đây là giai đoạn đỉnh cao của chủ nghĩa Bài Do Thái. Chính phủ Đức Quốc xã đi đến
giải pháp tối hậu cho vấn đề Do Thái bằng việc tàn sát có quy mô lớn và tàn bạo nhất trong
lịch sử nhân loại mà cả thế giới biết đến với cái tên Holocaust.
3.1. Tổng quan về Holocaust
Thuật từ Holocaust được dùng để chỉ cách Hitler đối xử với người Do Thái, dù nó
không được xem là cách dùng chuẩn mực mãi cho đến thập niên 1950. Đến cuối thập niên
1970, thuật từ này mang ý nghĩa qui ước được dùng để chỉ cuộc tàn sát diệt chủng của Quốc
Xã. Trong nghĩa hẹp, nó cũng được sử dụng để nói đến sự hủy diệt mà người Do Thái ở
châu Âu phải gánh chịu.
3.1.1. Đặc điểm
3.1.1.1. Qui mô
Cuộc tàn sát được tiến hành có hệ thống trên toàn bộ lãnh thổ bị Quốc Xã chiếm đóng.
Tại 35 quốc gia ở Âu châu có người Do Thái và những nạn nhân khác bị bắt và đưa đến các
trại lao động tại một số nước, và đến các trại hành quyết tại những nơi khác. Những vụ hành
quyết tập thể xảy ra nhiều nhất tại Đông Âu và Trung Âu, năm 1939, trong số hơn 7 triệu
người Do Thái thiệt mạng, có khoảng 5 triệu người bị giết tại đây, trong đó có 3 triệu người
chết ở Ba Lan và hơn 1 triệu người chết ở Liên Xô. Hàng trăm ngàn người khác bị giết ở Hà
Lan, Pháp, Bỉ, Nam Tư và Hi Lạp. [73].
Có những chứng cứ cho thấy Quốc Xã lập kế hoạch tiến hành “giải pháp tối hậu” tại
những vùng khác nếu chúng bị chiếm đóng như Anh và Ireland. Những vụ tàn sát vẫn tiếp
diễn trên các vùng đất khác nhau dưới sự kiểm soát của Quốc Xã cho đến khi Đệ Nhị Thế
chiến kết thúc, khi quân đội Đồng Minh tiến vào nước Đức và buộc Quốc Xã đầu hàng vào
tháng 5 năm 1945.
3.1.1.2. Tác động của Holocaust.
Một trong những đặc điểm của Holocaust là đưa con số nạn nhân bị tập trung và sát hại
đến mức cao nhất bằng cách sử dụng mọi nguồn lực và kỹ thuật hiện có trong nước. Lúc ấy,
49
Đức là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực như kỹ thuật, công
nghiệp, cơ sở hạ tầng, nghiên cứu, giáo dục, tính hiệu quả của guồng máy hành chính...
Chẳng hạn như các bản danh sách những người được xem là đối tượng được thiết lập
và lưu giữ bởi guồng máy của công ty thống kê Dehomag, người ta cũng viết những bản báo
cáo chi tiết về các vụ hành quyết. Khi bị đưa vào các trại tử hình, tù nhân bị buộc phải giao
nộp toàn bộ tài sản cá nhân cho Quốc Xã, chúng được phân loại, đánh số và người tù được
nhận một biên nhận về tài sản đã giao nộp, với mục đích đánh lừa nạn nhân, tạo cho họ cảm
giác an toàn là sẽ có cơ hội nhận lại tài sản và đồ dùng cá nhân của mình.
Ngoài ra, những nỗ lực đáng kể được thực hiện suốt trong thời gian xảy ra vụ
Holocaust nhằm tìm kiếm các phương tiện hiệu quả hơn để có thể sát hại nhiều người hơn.
Những cuộc hành quyết ban đầu thực hiện bởi binh sĩ Đức dùng súng hạ sát hàng ngàn
người Do Thái ở Ba Lan, Ukraina và Belarus gây ra nhiều phản ứng về tình trạng căng
thẳng và suy sụp tinh thần trong vòng binh lính Đức. Các sĩ quan báo cáo với thượng cấp
của họ rằng phương cách giết người mặt đối mặt đã gây ra những ảnh hưởng tâm lý tiêu cực
đối với thuộc cấp của họ. Vì muốn tận diệt dân tộc Do Thái, chính quyền Đức Quốc Xã
quyết định tìm kiếm những giải pháp kỹ thuật, khởi đầu với những thử nghiệm trong sử
dụng chất nổ và độc dược.
Trong tác phẩm Russia’s War, nhà sử học người Anh Richard Overy đã miêu tả tiến
trình tìm kiếm các phương pháp hiệu quả hơn để sát hại nạn nhân của chính phủ Đức Quốc
Xã. Năm 1941, sau khi chiếm đóng Belarus, họ sử dụng các bệnh nhân tâm thần trong các
dưỡng trí viện ở Minsk làm vật thí nghiệm. Lúc đầu, những người này bị buộc đứng sát
nhau theo hàng dọc để bị giết bằng cách bắn xâu chuỗi, nhưng phương pháp này là quá
chậm. Rồi chất nổ được sử dụng, nhưng số người chết không nhiều trong khi nhiều người
khác chỉ bị mất tay và chân. Sau cùng, người Đức chọn cách dùng súng máy để giết hết số
bệnh nhân tâm thần này. Tháng 10 năm 1941, tại Mogilev, Quốc Xã thử nghiệm một loại
hình khác, Gaswagen tức “xe hơi ngạt”. Đầu tiên, họ sử dụng một xe quân sự hạng nhẹ,
nhưng phải mất 30 phút mới giết chết nạn nhân; kế đó, họ dùng một xe tải lớn hơn, nhét đầy
người vào trong và chỉ cần 8 phút để kết thúc mạng sống tất cả người trong xe.
Mùa xuân năm 1942, Chiến dịch Reinhard được khởi động. Carbon monoxide được
đưa vào sử dụng tại những phòng hơi ngạt ở các trại tập trung Belzec, Sobibór và Treblinka;
trong khi đó, Zyklon B được dùng tại trại Majdanek và trại Auschiwitz.
50
Số lượng lớn các thi thể cũng gây khó khăn trong việc tìm chỗ chứa xác. Lúc đầu giải
pháp thiêu xác được xem là bất khả thi cho đến khi họ khám phá ra rằng nếu có thể giữ các
lò thiêu xác ở nhiệt độ thích hợp thì mỡ của các thi thể sẽ giúp lò thiêu vận hành liên tục.
Khi vấn đề kỹ thuật này đã được giải quyết, Quốc Xã đẩy mạnh kế hoạch tàn sát tập thể đến
mức độ cao nhất.
3.1.2. Tiến trình thực hiện Holocaust
3.1.2.1. Khu biệt cư (1939-1942)
Vấn đề xác định biện pháp đối với người Do Thái trở nên cấp bách khi Đức Quốc xã
chiếm đóng phía tây Ba Lan vào tháng 9 năm 1939; khu vực này là nơi sinh sống của
khoảng 2 triệu người Do Thái. Liền sau khi bị Đức chiếm, dân Ba Lan đã phải đi vào lịch sử
của thống khổ triền miên, cuộc sống tủi nhục, đói rách, đầy đọa dưới gót giày của Đức Quốc
xã bắt đầu. Nếu có một dân tộc nào bất hạnh hơn, chỉ có thể là dân tộc Do Thái. Những cuộc
cưỡng chế di dân bắt đầu [38, tr.610].
Cánh tay phải của Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich, đề xuất tập trung tất cả
người Do Thái vào các khu biệt cư (ghetto) ở các thành phố lớn, và buộc họ làm việc phục
vụ cho công nghiệp chiến tranh Đức. Cần phải đặt các khu biệt cư gần các ga hỏa xa đầu
mối, theo lời của Heydrich, để “có thể dễ dàng xử lý sau này”. Trong lần thẩm vấn năm
1961, Adolf Eichmann làm chứng rằng “xử lý” nghĩa là “tàn sát”.
Hitler cố tình đổ lỗi cho người Do Thái về cuộc Chiến tranh thế giới mới do chính
Hitler sắp gây ra. Cuộc chiến tranh này được khởi sự vào tháng 9/1939, khi quân Đức đột
ngột tấn công xâm chiếm Ba Lan, nơi có trên 3 triệu người Do Thái đang sinh sống. Người
Do Thái bị vây ráp và dồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2014_05_28_4158661709_8068_1871466.pdf