MỤC LỤC
PHẦN MỎ ĐẦU
CHƯƠNG 1:NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL CLINTON
1.1. Tình hình thế giới
1.2. Tình hình bên trong nước Mỹ
1.3. Khái quát chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bush (Cha).
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2001
2.1. Mục tiêu, nội dung, lợi ích chiến lược của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton
2.1.1. Mục tiêu
2.1.2. Nội dung
2.1.3. Lợi ích chiến lược của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton
2.2. Sự triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ
2.2.1. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
2.2.2. Chính sách của Mỹ đối với khu vực Châu Âu
2.2.3. Chính sách của Mỹ đối với khu vực Trung Đông
2.2.4. Chính sách đối ngoại của Mỹ với khu vực Châu Phi
2.2.5. Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với khu vực Mỹ La Tinh
2.3. Nhận xét về sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới các đời Tổng thống sau chiến tranh lạnh
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL CLINTON VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM
3.1. Một số đánh giá về chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton
3.1.1 Những thành tựu đã đạt được
3.1.2 Những hạn chế trong chính sách đối ngoại
3.2. Tác động từ chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton đối với Quan hệ quốc tế và Việt Nam
KẾT LUẬN
112 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6414 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton từ 1993 đến 2001, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hưởng đến kế hoạch triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa và kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ.
Mỹ gây sức ép với Triều Tiên về vấn đề kinh tế và chính trị thông qua việc tố cáo Bình Nhưỡng tàng trữ trái phép 2,5kg Plutoni để chế tạo ra bom hạt nhân vào năm 1991. Sau đó, đẩy quan hệ hai bên đến bờ vực bằng cuộc chiến tranh vào cuối năm 1993. Mối quan hệ Mỹ-Triều chỉ được hòa giải khi có sự hòa giải của Trung Quốc và Nga vào năm 1994.
Sau Hiệp định khung 10/1994, quan hệ Mỹ-Triều đã được cải thiện, Hoa Kỳ muốn thông qua hiệp định này để dân chủ hóa Bắc Triều Tiên theo kiểu Mỹ. Thúc đẩy tiến trình đàm phán về chương trình hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên thông qua vòng đàm phán ba bên gồm Mỹ-Nhật-Hàn vào tháng 4/1998 và nâng lên thành vòng đàm phán bốn bên gồm Mỹ-Nhật-Hàn-Trung Quốc.[55, tr 59]
Thông qua vòng đàm phán ba bên và bốn bên này, Mỹ muốn quốc tế hóa vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Washington cho rằng, vấn đề hạt nhân của Triều Tiên là mối đe dọa đến an ninh của cả khu vực Đông Bắc Á, không phải của riêng nước Mỹ. Hoa Kỳ nỗ lực đa phương hóa vòng đàm phán này tuyệt đối không đàm phán song phương với Bình Nhưỡng dưới bất cứ hình thức nào.
Chính quyền Clinton thông qua Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) để gây sức ép với Bình Nhưỡng trong vấn đề hạt nhân của nước này. Tiến tới giải giáp hoàn toàn chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên.
Đối với Hàn Quốc : Mỹ duy trì và mở rộng quan hệ hợp tác an ninh Mỹ-Hàn thông qua việc thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận trung với Seoul. Duy trì hệ thống căn cứ quân sự và lực lượng 37.000 quân Mỹ ở Hàn Quốc. Đẩy mạnh vai trò của Ủy ban quân sự liên hiệp Mỹ-Hàn do Mỹ chỉ huy, nhằm mục đích ngăn chặn sự đe dọa quân sự của Bắc Triều Tiên và củng cô sức mạnh của Mỹ ở trong khu vực Đông Bắc Á. Đồng thời, Mỹ kiềm chế ảnh hưởng của Nga, Trung Quốc ở bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á.
Chính quyền Clinton cũng duy trì liên minh quân sự Nhật Bản-Hàn Quốc-Đài Loan, nhằm mục đích ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực Đông Á và Châu Á-Thái Bình Dương và không cho Trung Quốc tiến vào khu vực này.
Washington thực hiện việc ngăn chặn ảnh hưởng của Nga ở khu vực Đông Bắc Á và Châu Á-Thái Bình Dương. Đồng thời, thông qua Liên minh Nhật Bản-Hàn Quốc-Đài Loan, để Hoa Kỳ kiềm chế các đồng minh trong khu vực của mình, không để cho các quốc gia này đe dọa lợi ích an ninh của Mỹ trong khu vực.
Mỹ lôi kéo Hàn Quốc tham gia vào vòng đàm phán ba bên và bốn bên để giải quyết vấn đề hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên. Đồng thời, lôi kéo các nước này chia sẻ gánh nặng an ninh với Mỹ trong khu vực.
Tháng 1/1998, Tổng thống Hàn Quốc Kim Tea Chung lên nắm quyền và đề ra chính sách "Ánh Dương" trong quan hệ với Bắc Triều Tiên. Mục đích của chính sách này là không đối đầu với Bình Nhưỡng, lôi kéo Bình Nhưỡng trở lại với Hàn Quốc bằng con đường đàm phán hòa bình, viện trợ nhân đạo để chuyển hóa Bắc Triều Tiên theo quỹ đạo của Hàn Quốc. Chính sách này dẫn đến cuộc gặp lịch sử giữa lãnh đạo hai miền Triều Tiên: Chủ tịch Kim Cheng In và Tổng thống Kim Tea Chung vào tháng 8/2000 tại Bình Nhưỡng. Điều này làm cho quan hệ hai miền trở lên hòa dịu. Tuy nhiên, Mỹ phản đối chính sách này của Hàn Quốc và cho rằng chính sách này thiếu hiệu quả, đe dọa tới lợi ích an ninh của Mỹ trên bán đảo Triều Tiên nếu hai miền Nam Bắc Triều Tiên thống nhất trong hòa bình.[38]
* Ngoài ra, Chính quyền Clinton còn tái khẳng định Hiệp ước an ninh với Australia năm 1996, thông qua tuyên bố Sydney và New Zealand trên cơ sở của Liên minh quân sự AZUS ra đời năm 1953. Hoa kỳ cũng tiếp tục duy trì các cam kết quân sự với sáu nước ASEAN cũ: với Philippine, Mỹ duy trì sự trợ giúp về quân sự cho Malina hợp tác với chính quyền Philippine trong việc tiêu diệt các lực lượng Hồi giáo cực đoan "Mặt trận giải phóng Mônro" MILS và Abusaiap. Với Indonexia, tiếp tục các chương trình huấn luyện quân sự và bán vũ khí cho các quốc gia này. Mỹ cũng ủng hộ tiêu diệt mạng lưới Hồi giáo cực đoan Jami Islami ở khu vực Đông Nam Á. Với Thái Lan, Mỹ tiếp tục duy trì cơ chế tập trận "Hổ mang vàng" với nước này. Với mục tiêu cam kết thúc đẩy hợp tác trên các vấn đề an ninh toàn cầu và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Đồng thời, Mỹ cũng đẩy mạnh những cơ chế đối thoại đa phương, các diễn đàn phòng thủ. Washington cũng tập trung đối phó với mối đe dọa phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, các vấn đề phổ biến hạt nhân thông qua Hiệp định khung và đối thoại không phổ biến vũ khí hạt nhân đối với CHDCND Triều Tiên.
2.2.2. Đối với khu vực Trung Đông
Tổng thống Bill Clinton với vai trò của mình tích cực tham gia giải quyết cuộc xung đột giữ ở khu vực này như vấn đề hòa bình giữa nhà nước Palestine và Isarel tại Oslo vào 10/1993. Đồng thời, cùng với Liên hợp quốc đưa ra khái niệm “Vùng cấm bay” nhằm cấm vận chính quyền Hussen sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất. Mỹ gây căng thẳng với Iran và coi Iran là nước có hành động làm giầu Uranium tiến tới sản xuất hạt nhân, đe doạ lợi ích của Mỹ ở khu vực. Củng cố quan hệ đồng minh của Mỹ với các quốc gia Ảrập ở Trung Đông như Ả rập Xeut, Thổ Nhĩ Kỳ, Isarel.[43]
Nhìn từ lịch sử, chúng ta có thể thấy sự can thiệp của Mỹ vào khu vực Trung Đông diễn ra từ rất lâu bởi lẽ :
Trung Đông với diện tích 10 triệu km2 và 250 triệu dân, là nơi chứa lượng vàng đen khổng lồ, chiếm hơn 60% trữ lượng vàng thế giới và 1/5 sản lượng dầu mỏ của thế giới. Đây là nguồn nguyên liệu cơ bản của các nước công nghiệp phương Tây. Hàng năm có khoảng 1 tỷ tấn dầu mỏ từ Trung Đông qua eo biển HonMus, vượt Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương cung cấp cho Mỹ và Nhật Bản...Các tập đoàn xuyên quốc gia của Mỹ (TNCs) thu lợi nhuận kếch xù từ việc khai thác dầu mỏ ở Trung Đồng;
Về mặt địa chính trị, Trung Đông là khu vực bản lề nối liền 3 châu lục : Âu-Á-Phi, có kênh đào Xuye là tuyến đường hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới, chiếm 1/3 lượng hàng hóa vận chuyển của các nước trên thế giới, là cầu nối quan trọng giữa các nước Châu Âu, Châu Mỹ với khu vực Châu Phi và Châu Á-Thái Bình Dương. Đây cũng là khu vực tiếp giáp với Liên Xô (cũ) và Cộng đồng các quốc gia độc lập SNGs, cũng như tiếp giáp với khu vực Đông Nam Châu Âu, nơi Mỹ đã sử dụng làm bàn đạp để bao vay Liên Xô và các nước XHCN từ phía Nam trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh;
Trung Đông cũng là điểm cuối của NATO với Thổ Nhĩ Kỳ thành viên phía Đông của liên minh quân sự này, đồng thời là điểm mở đầu vòng cung chiến lược Mỹ ở Phương Đông, nối căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Đông, qua Vịnh Pécxich. Đây cũng là nơi tập trung nhiều nhất các dân tộc của thế giới Hồi giáo Ả Rập ở hai đại lục Á- Phi.[77, tr 66-67]
Khu vực Trung Đông từ sau chiến tranh thế giới thứ hai luôn là địa bàn tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc trên thế giới. Trong thời kỳ chiến tranh Lạnh, đây là địa bàn tranh giành ảnh hưởng chủ yếu của Liên Xô và Mỹ. Cuộc chiến ở kênh đào Xuyê năm 1956 giữa chính phủ Ai Cập với quân đội Anh và Pháp, nhằm giành quyền kiểm soát kênh đào quan trọng bậc nhất thế giới này. Đây cũng là kênh đào nằm trong sự tranh giành ảnh hưởng của hai cường quốc Xô-Mỹ ở khu vực này trong chiến tranh Lạnh. Cuộc cách mạng Hồi giáo ở Iran tháng 2/1979,và sự ra đời của nước CH Iraq năm 1968 cũng nằm trong sự tranh giành ảnh hưởng của hai cường quốc Xô- Mỹ.
Với tất cả những đặc điểm chiến lược đó của Trung Đông đã làm cho những tham vọng của Mỹ hơn bao giờ hết phải có được nơi này bằng mọi cách. Không chỉ vì lợi ích từ dầu mỏ, vàng đen mà Trung Đông còn là cửa ngõ của Địa Trung Hải vào Châu Phi, là chỗ dựa của NATO, là khu vực quan trọng về chính trị, kinh tế, quân sự, nơi mà Mỹ tìm mọi cách thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ đứng đầu.
Với những mong muốn đó, chính quyền Tổng thống Clinton đã đề ra những mục tiêu cho mình ở khu vực này như sau :
Mỹ vẫn tăng cường sự ổn định an ninh và duy trì dòng chảy tự do của dầu mỏ, ngăn chặn sự phổ biến của các vũ khí hủy diệt hàng loạt và tên lửa đạn đạo, ngăn chặn việc mua bán vũ khí thông thường gây bất ổn định. Những nguy cơ này theo Mỹ đến từ các quốc gia đối địch với Washington là Iraq, Iran và Syri.
Đẩy mạnh chống khủng bố và các lực lượng Hồi giáo cực đoan trong khu vực như: Lực lượng Taliban và AlQueda của trùm khủng bố Bin Laden ở Afganistan, lực lượng Hecbola ở Li Băng, Hamas và Jihad ở Palestine, Đảng công nhân người Cuốc (PKK) ở Thổ Nhĩ Kỳ... Đồng thời, Hoa Kỳ khuyến khích quá trình hòa giải giữa người Isarel và thế giới Ảrâp, giữa nhà nước Isarel với Palestine, thúc đẩy quá trình thống nhất hai miền Nam Bắc Yemem vào năm 1996 khi Mỹ ủng hộ lực lượng quân đội Bắc Yemem tấn công chiếm Nam Yemem.
Hoa Kỳ thấy rõ lợi ích của mình ở vùng Cận Đông, đề ra các chiến lược hòa giải cho cuộc xung đột giữa Palestine và Isarel. Đồng thời, tham ra vào việc hoạch định các chính sách về giá dầu mỏ cho khu vực Trung Đông;
Thực hiện chính sách kiềm chế Iraq và Iran khi hai nước này có nguy cơ giảm bớt lợi ích của Mỹ ở khu vực này.
Với Iran, Mỹ gây sức ép với nước này thông qua chương trình hạt nhân gây tranh cãi của Iran, nhằm tiến tới hủy bỏ hoàn toàn chương trình hạt nhân của quốc gia Hồi giáo này.
Với Iraq, Mỹ và phương Tây thông qua nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã thực hiện "vùng cấm bay" ở quốc gia này, thi hành chính sách bao vây, cấm vận kinh tế, chính trị và dầu lửa với Iraq nhằm mục tiêu lật đổ chính quyền của Tổng thống Saddam Hussein, thiết lập ra một chính phủ thân phương Tây. Khi đó, lợi ích về chính trị và đặc biệt là dầu mỏ của Mỹ sẽ được đảm bảo.
Triển khai các chiến lược trên Mỹ đã đề ra những chính sách đối ngoại là : Tìm cách thúc đẩy nhà nước Isarel và thế giới Ả rập đi vào thương lượng nhằm đi tới một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột Trung Đông. Sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, ảnh hưởng và vị thế của Mỹ ở khu vực này được tăng lên, lập trường và quan điểm của thế giới Ảrâp có nhiều thay đổi. Nhà nước Isarel được coi là đồng minh duy nhất của Mỹ ở Trung Đông không còn được như trước nữa, khi mà Mỹ đã kết nạp thêm một số đồng minh mới là các nước Ảrâp. Trước tình hình này, chính quyền Bill Clinton đưa ra chính sách ngoại giao mới, đó là ngoại giao "Con thoi" vừa tranh thủ lôi kéo vừa gây sức ép mạnh mẽ đối với nhà nước Isarel và thế giới Ả râp tham dự Hội nghị hòa bình về Trung Đông. Năm 1997, theo sáng kiến của Mỹ và Liên Hợp Quốc nhóm bộ tứ bảo trợ cho tiến trình hòa bình ở Trung Đông giữa Palestine và Isarel đã được thành lập, bao gồm Nga, EU, Mỹ và Liên Hợp Quốc.[83]
Trung Đông còn có một khu vực có vị trí quan trọng đối với Mỹ, đó là khu vực Vịnh Pécxich, nơi có những nước sản xuất dầu mỏ lớn bậc nhất thế giới, như Ảrâp Xêut, Iran, Iraq và Kuwait đất nước có hơn 1 triệu dân nhưng khai thác được 100 triệu tấn/năm. Từ Vịnh Pécxich, qua eo biển chiến lược Honmuz, trong thời kỳ thịnh vượng, mỗi năm có khoảng một triệu tấn dầu mỏ từ Trung Đông được chuyển qua Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương đến Nhật Bản, Hoa Kỳ để phục vụ cho việc phát triển công nghiệp. Chính sách của Mỹ đối với khu vực này là đảm bảo sự thâm nhập tự do tới các nguồn dầu mỏ của khu vực, duy trì dòng chảy tự do của dầu mỏ ở vùng giàu vàng đen nhất thế giới này. Ở khu vực các nước ven Vùng Vịnh Pécxich, Mỹ có đồng minh chiến lược là Ảrâp Xêut, đây là nơi có hệ thống căn cứ quan trọng nhằm khống chế cả khu vực.
Sau chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ sãn sàng đương đầu với một loạt đối thủ mới ở khu vực, trong đó ở vùng Vịnh Pécxich, Mỹ coi Iran và Iraq là hai nước có chính sách thù địch với Mỹ. Mỹ chia theo cường độ xung đột đối với những nước ở khu vực Trung Đông, nhằm đối phó với những nước cái mà Mỹ gọi là "Cường quốc dân sự" ở thế giới thứ ba được trang bị vũ khí hiện đại, tối tân. Chiến dịch "Bão táp sa mạc" hay "cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần 1" đánh bại Iraq là một thí điểm của chiến lược quân sự xung đột với cường độ trung bình, đồng thời là chiến tranh kỹ thuật cao của Mỹ. Có thể nhận thấy thực chất trong chiến lược của Mỹ đối với khu vực Vùng Vịnh là một mũi tên nhằm vào hai mục tiêu : Thứ nhất, là Mỹ muốn cô lập Iran và Iraq; thứ hai, Mỹ muốn chia rẽ hai nước lớn ở khu vực này, tránh sự ảnh hưởng lan truyền lẫn nhau, tạo ra hiệu ứng bất lợi cho Mỹ.
Tuy nhiên, chiến lược đối ngoại mới của chính quyền Clinton được xác định là xa rời chiến lược cân bằng quyền lực để ngăn chăn Iran và Iraq. Nếu như trước kia là vai trò giữ cân bằng từ bên ngoài thì nay Mỹ lại chuyển sang vai trò người bảo hộ duy nhất cho an ninh Vùng Vịnh. Mục đích của Mỹ, một mặt Mỹ đưa các hạm đội có tàu sân bay và máy bay vào khu vực này, mặt khác Mỹ tiếp tục đưa ra lệnh cấm vận ngặt nghèo đối với Iraq, đẩy nhân dân Iraq vào tình trạng đói kém nghiêm trọng. Năm 1996, Tổng thống Bill Clinton đã ký sắc lệnh triển khai đưa thêm 3.500 quân vào Kuwait.
Với những chính sách trên của Mỹ, tình hình Trung Đông ngày càng phức tạp, mâu thuẫn giữa các nước trong khu vực và Vùng Vịnh vẫn diễn biến phức tạp và khó giải quyết. Chỉ khi nào Mỹ đạt được và kiểm soát được lợi ích của mình ở khu vực này thì cơ hội cho một nền hòa bình ở khu vực Trung Đông có thể sẽ được giải quyết. Sự phụ thuộc nền kinh tế của Mỹ ở khu vực này quá lớn (nguồn dầu mỏ của Trung Đông phục vụ phát triển công nghiệp), theo sự tính toán của chính quyền Mỹ, đến năm 2015 nhu cầu dầu mỏ thế giới sẽ tăng 44% so với hiện nay. Khi đó các nước Vùng Vịnh Pécxich sẽ cung cấp hơn 40% và khả năng đạt được là 52% cho nhu cầu dầu mỏ thế giới, mà Hoa Kỳ lại là nước nhập khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới. Điều này cho thấy sự phụ thuộc và dính líu của Mỹ ở khu vực này là vẫn còn kéo dài và chưa có hồi kết [82]. Nó cũng đồng nghĩa với việc Trung Đông sẽ phải đối mặt với rất nhiều chính sách mà Mỹ áp dụng, thử nghiệm, cái mà Mỹ cho rằng sẽ là công cụ để Mỹ có thể đạt được mục tiêu và lợi ích của mình hiệu quả và nhanh chóng nhất.
Chính sách đối ngoại của Mỹ ở khu vực này là nhằm chia rẽ các quốc gia Hồi giáo với các quốc gia Ả Rập, hoặc tạo ra mâu thuẫn giữa các nước Ả rập với nhau, nhằm mục tiêu làm suy yếu thế giới Hồi giáo, thúc đẩy việc Mỹ duy trì và xác lập vị trí của mình ở khu vực Trung Đông. Mỹ chia rẽ quan hệ giữa Iran quốc gia có tuyệt đại đa số người Shiai theo đạo Hồi với Iraq quốc gia có 33% người Ả rập, 50% người Shiai, nhưng người Ả rập lại lãnh đạo Iraq [76, tr 77-79]. Mỹ chia rẽ vai trò các nước lớn ở khu vực Trung Đông: giữa Iran với Thổ Nhĩ Kỳ, Iran với Ả rập Xêut, Ai Cập với Iran. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng làm suy yếu tổ chức liên đoàn Ả rập đặc biệt là hai nước cầm đầu tổ chức này là Ai Cập và Ả rập Xêut.
Tóm lại, khu vực Trung Đông vẫn là khu vực địa chính trị quan trong trong chính sách đối ngoại của nước Mỹ nói chung và chính quyền Tổng thống Bill Clinton nói riêng. Trung Đông vẫn còn lợi ích chiến lược đối với Mỹ, đó là ích lợi ích về an ninh, quân sự, kinh tế đặc biệt là vàng đen như vậy cũng đồng nghĩa với việc chính sách đối với khu vực này vẫn là ưu tiên hàng đầu và không thể thiếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
2.2.3. Đối với khu vực Châu Âu
Có thể nhận thấy mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược an ninh quốc gia mới của Chính quyền Clinton đối với khu vực Châu Âu không thay đổi trong hai nhiệm kỳ với cương vị Tổng thống. Mối quan tâm của Hoa Kỳ đối với khu vực này được thể hiện rất rõ thông qua các chuyến thăm cấp cao tới các nước ở Châu Âu như chuyến thăm CH Séc, Nga, Hungary, Ukraine, Belarut của Tổng thống Bill Clinton năm 1994. Chính quyền Clinton luôn khẳng định khu vực Châu Âu là “hạt nhân” và “trung tâm” lợi ích an ninh của Mỹ. Đây là một trong những ý đồ của Mỹ để làm yên lòng các nước đồng minh ở Châu Âu. Mục tiêu đó được thể hiện thông qua các điểm như sau:
Về kinh tế, mặc dù xuất khẩu của Mỹ sang Tây Âu không nhiều bằng Châu Á. Nhưng Tây Âu vẫn là bạn hàng chủ yếu của Mỹ, là khu vực Mỹ đầu tư vào nhiều nhất với tỷ lệ lớn nhất. Từ năm 1980 đến 1990 đầu tư của Mỹ sang Tây Âu từ 96,065 tỷ USD lên đến 203,613 tỷ USD.
Về an ninh, Châu Âu càng là “hạt nhân” lợi ích chiến lược của Mỹ. Tại Hội nghị cấp cao NATO, Tổng thồng Bill Clinton đã nhận định “ An ninh của thế hệ chúng ta được quyết định bằng công cuộc cải cách ở các nước miền Đông Châu Âu thành công hay thất bại” [74, tr8]
Về chiến lược, trong chiến lược “mở rộng” Mỹ xác định hạt nhân cần dựa vào để mở rộng là Liên minh Châu Âu- Mỹ, đối tượng chủ yếu cần mở rộng có ý nghĩa đặc biệt là Nga, các nước Trung và Đông Âu, bởi lẽ quan trọng nhất đối với lợi ích an ninh của Tây Âu là nước Nga, Trung và Đông Âu không những về mặt địa lý mà còn có thể gây ảnh hưởng lớn nhất.
Ngoài ra chính quyền Clinton còn tìm cách “nhất thể hóa Châu Âu” để thiết lập “cơ chế an ninh kiểu mới” phương Đông và phương Tây. Trên cớ sở đó Mỹ thiết lập hệ thống an ninh mới gắn liền hai bờ Đại Tây Dương. Mục tiêu chiến lược này của Mỹ là kéo các nước phương Đông vào phạm vi an ninh và quan niệm giá trị của phương Tây, tạo dựng nền an ninh mới ở khu vực này.
Như vậy, việc đối phó với các vấn đề khu vực luôn là mục tiêu quan trọng trong chiến lược toàn cầu cũng như chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ sau chiến tranh Lạnh. Sau khi lên nắm quyền TT Bill Clinton cũng xây dựng mục tiêu riêng cho khu vực này như sau:
Mỹ thực hiện mục tiêu thúc đẩy dân chủ ở các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ) theo mô hình "dân chủ tự do kiểu phương Tây";
Đẩy mạnh "chủ nghĩa can thiệp mới" vào nhiều quốc gia trên thế giới. Như việc: Năm 1993 chính quyền Clinton đem quân can thiệp vào Somali với lí do chính quyền Tướng Aidis vi phạm nhân quyền, đàn áp lực lượng nổi dậy. Tiếp đó, Mỹ can thiệp vào tình hình ở Liên bang Nam Tư khi nước này hậu thuẫn cho các lực lượng người Croatia, Slovenia, Bosnia... chiến đấu chốnng lại người Serbia và chính quyền của Tổng thống Milosevich dẫn đến Liên Bang Nam Tư bị tan rã vào năm 1991. Mỹ hậu thuẫn cho các lực lượng quân giải phóng Kosovo (KLA) gây ra các vụ thanh lọc sắc tộc. Hậu thuẫn cho các lược lượng người Croatia, Bosnia gây ra cuộc nội chiến ở nước cộng hoà Bosnia từ năm 1990-1995;[57, tr 270-275]
Mỹ đẩy mạnh cuộc cách mạng sắc màu ở các nước. Lôi kéo các quốc gia này gia nhập NATO và EU, nhằm cô lập Nga. Chính quyền Clinton thiết lập mối quan hệ với nhiều chính phủ thông qua các mối quan hệ chính trị như: Mỹ mong muốn thiết lập quan hệ với chính quyền Gruzia, Azecbaigian nhằm biến những nước này là đồng minh thân cận để chống Nga. Ngoài ra, Mỹ còn can thiệp vào tình hình nội bộ của Nga khi ủng hộ các lực lượng li khai ở Chesnia chống chính quyền Nga. Lên án Moskov vi phạm nhân quyền khi Nga đem quân tấn công lực lượng li khai Chesnia trong cuộc chiến 1994-1996, 1999-2000. Mỹ cùng với EU và Nga tham gia giải quyết cuộc xung đột giữa chính quyền Gruzia với ba vùng lãnh thổ li khai ở nước này.
Hoa Kỳ tiếp tục củng cố quan hệ với các nước đồng minh, đồng thời mở rộng NATO về hướng đông; kết nạp thêm các nước ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) vào NATO đó là Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary năm 1999, dịch chuyển biên giới và phạm vi ảnh hưởng của NATO đến gần sát biên giới với Nga. Đồng thời, Mỹ và phương Tây ra sức lôi kéo các quốc gia ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) gia nhập NATO và EU nhằm làm suy giảm sức mạnh và ảnh hưởng của Nga ở trong khu vực (không gian hậu Xô Viết), SNG. Trong Thông điệp liên bang ngày 27/1/1998 Tổng thống Bill Clinton nêu rõ: “.... Trong vài ngày tới tôi sẽ đề nghị thượng viện cho lời khuyên và chấp thuận Hungary, Ba Lan, CH Séc làm những thành viên mới nhất của NATO. Trong 50 năm qua, NATO kiềm chế chủ nghĩa cộng sản và đảm bảo an ninh cho Mỹ và Châu Âu. Ba nước cộng sản cũ này đã nói “đồng ý” với nền dân chủ. Tôi đề nghị Thượng viện nói lời đồng ý với họ - những đồng minh mới của chúng ta. Bằng việc kết nạp đồng minh mới và phối hợp chặt chẽ với các đối tác mới, trong đó có Nga và Ukraine, NATO có thể giúp đảm bảo rằng Châu Âu là một thành trì cho hòa bình trong thế kỷ XXI.”[61, tr1]
Mỹ cho rằng sự ổn định của Châu Âu có tầm quan trọng sống còn đối với an ninh của Mỹ. Chính sách Châu Âu của chính quyền Clinton theo đuổi hai mục tiêu chiến lược đó là: Xây dựng một Châu Âu thực sự liên kết, dân chủ, thịnh vượng và hòa bình; liên kết các đồng minh và đối tác ở bên kia Đại Tây Dương để giải quyết những thách thức toàn cầu;
Mỹ chủ trương tháo gỡ rào chắn đối với buôn bán và đầu tư bằng cách thiết lập thị trường xuyên Đại Tây Dương cởi mở hơn. Mỹ đưa ra sáng kiến “đối tác kinh tế xuyên Đại Tây Dương” nhằm làm sâu sắc hơn mối quan hệ kinh tế, củng cố mối quan hệ chính trị và giảm bớt xung đột thương mại. Yếu tố đầu tiên của sáng kiến này là giảm bớt rào cản ảnh hưởng đến công nghiệp chế tạo, nông nghiệp và dịch vụ. Yếu tố thứ hai là xác lập cách tiếp cận rộng rãi hơn trong việc giải quyết các vấn đề thương mại điện tử, quyền sở hữu trí tuệ;
Mỹ ủng hộ quá trình nhất thể hóa Châu Âu trong nội bộ EU, ủng hộ việc mở rộng Châu Âu sang phía Đông. Đồng thời, tăng cường an ninh trên cơ sở coi NATO là chỗ dựa cho sự tham gia của Mỹ trong việc đảm bảo an ninh Châu Âu và là nòng cốt của hệ thống an ninh xuyên Đại Tây Dương. Mặt khác, NATO đóng vai trò hàng đầu trong việc thúc đẩy một Châu Âu hòa nhập và sẵn sàng đối phó với những thách thức mới. Để thực hiện những cam kết với NATO, Mỹ chủ trương duy trì khoảng 100 nghìn quân ở Châu Âu. Quan trọng hơn để duy trì các quan hệ có tính chất sống còn xuyên Đại Tây Dương, Mỹ phải khẳng định được vai trò lãnh đạo của mình ở NATO. Việc mở rộng NATO được chính quyền B. Clinton xác định là nhân tố quan trọng trong chiến lược an ninh Mỹ nhằm xây dựng một Châu Âu hòa bình, không bị chia cắt;
Đứng trước những diễn biến tình hình khu vực Châu Âu như vậy, Mỹ tập trung quan tâm đến các vùng khác trong khu vực như khu vực Ban Căng và Đông Nam Âu. Tổng thống Bill Clinton cho rằng, Mỹ có lợi ích rằng buộc đối với hòa bình trong khu vực này bởi sự mất ổn định ở hai khu vực này ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh toàn Châu Âu. Do đó, Washington chủ trương gia tăng các hoạt động can thiệp tại đây để thúc đẩy sự hòa nhập dân chủ của các nước Đông Nam Âu như: Albania, Bosnia, Rumania, Slovakia. Tại khu vực Ban Căng, Clinton nhấn mạnh phải sẵn sàng đối phó với những đe dọa mới đối với sự ổn định của khu vực, duy trì cục diện có lợi cho Mỹ sau cuộc chiến chống Nam Tư (cũ) của Mỹ. Đối với các nước vùng Baltic, mục tiêu của Mỹ là liên kết Latvia, Litva và Estonia vào cộng đồng xuyên Đại Tây Dương và phát triển chặt chẽ cùng với các nước Đông Bắc Âu;
Đối với Nga và Cộng đông các quốc gia độc lập (SNG): Mỹ sẵn sàng hành động để các tiến trình chuyển đổi thể chế chính trị không bị đảo ngược vì lợi ích quốc gia của Mỹ, cái mà Mỹ gọi là “giúp nhân dân các nước SNG bẻ gẫy xương sống của chế độ Xô Viết” [74]. Biện pháp của Mỹ là thúc đẩy sự quá độ từ chủ nghĩa Cộng sản sang nền dân chủ thị trường, hỗ trợ xây dựng các hệ thống pháp luật, thiết chế và các kỹ năng cần thiết nhằm chống tội phạm, tham nhũng, thúc đẩy nhân quyền và pháp trị, ngăn chặn việc phổ biến công nghệ tên lửa và hạt nhân tới các nước Mỹ đang lo ngại như Iran.
Mỹ coi Nga là nước có địa chính trị quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Mỹ bởi: Nga nằm trong đại lục Âu-Á, mặc dù diện tích và biên giới của Nga không còn được như thời Liên Xô, nhưng Nga vẫn có vị trí chiến lược đối với Mỹ. Diện tích và biên giới của Nga không còn rộng như Liên Xô trước đây, nhưng Nga vẫn là cường quốc có vị trí địa chính trị hàng đầu xuyên lục địa Âu-Á. Brzezinski cho rằng: " Âu-Á là siêu lục địa của trái đất, đóng vai trò trụ cột. Cường quốc nào giữ vị trí thống lĩnh ở đây sẽ có ảnh hưởng quyết định ở hai trong ba khu vực phát triển nhất về kinh tế của hành tinh: Tây Âu và Đông Á. Chỉ cần nhìn vào bản đồ là có thể hiểu rằng đất nước chiếm ưu thế ở Âu- Á sẽ gần như tự động kiểm soát sự phát triển của các sự kiện ở Trung Đông và Châu Phi" [53]. Một nước Nga lớn mạnh có ảnh hưởng lớn ở đại lục địa Âu- Á sẽ là một thách thức lớn đối với mưu đồ làm bá chủ thế giới của Mỹ. Mặt khác, Nga vẫn là cường quốc hạt nhân có khả năng hủy diệt được Mỹ. Nga là Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nga có vị trí và vai trò ảnh hưởng trong việc giải quyết các vấn đề an ninh quốc tế. Sau chiến tranh Lạnh, Nga được thừa hưởng nguồn tài nguyên phong phú, lại có tiềm lực về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học vũ trụ và công nghệ hạt nhân. Với những đặc điểm về kinh tế, chính trị của Liên Bang Nga, Mỹ muốn xây dựng một chiến lược tổng thể ở đất nước này với mục tiêu kiềm chế sự phát triển của Nga và khẳng định vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ trong đó có Nga, nước từng là đối trọng nặng ký của Mỹ trong suốt thời kỳ chiến tranh Lạnh;
Mỹ gia tăng ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Á, không gian hậu Xô Viết và các nước SNG, thông qua việc gia tăng sự cạnh tranh, ảnh hưởng về chính trị, an ninh, kinh tế với Nga ở khu vực Trung Á. Các tập đoàn dầu lửa hàng đầu của Mỹ như Excel Mobin, Conoco Philip đã xâm nhập vào thị trường Tuốcmenistan, kazacstan ở Trung Á. Gia tăng ảnh hưởng chính trị ở khu vực Nam Cápcadơ với chính quyền Aliev ở Azecbaigian, Sebatnatze ở Gruzia;
Hoa Kỳ có ý đồ thiết lật hệ thống đường ống dẫn dầu từ khu vực Trung Á và Caspi qua Azecbaigian và Gruzia, Thổ Nhĩ Kỳ đưa về Mỹ. Năm 1997, Mỹ thiết lập được hệ thống đường ống dẫn dầu BaKu-Tbilisi- Xehan.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton từ 1993 đến 2001.doc