MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương I:Tổng quan về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 3
I. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ: 3
1. Tiêu chí phân loại. 3
2. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ. 8
3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 12
4. Đặc điểm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 14
II. Tổng quanvề chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 19
1. Lý luận chng về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. 19
2. Cơ chế và mô hình hỗ trợ ở Việt Nam. 21
3. Những lợi ích của chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. 26
Chương II: Thực trạng chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 28
I. Thực trạng hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 28
1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 28
2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. 32
3. Môi trường kinh doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 36
4. Những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 39
II. Thực trạng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam. 41
1. Chính sách thuế. 42
2. Chính sách tín dụng. 47
3. Chính sách khuyến khích đầu tư. 53
4. Chính sách công nghệ, đào tạo. 55
5. Chính sách đất đai, phát triển cơ sở hạ tầng. 57
6. Các chính sách hỗ trợ khác đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. 58
7. Chính sách khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và các hiệp hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 59
Chương III: Một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 63
I. Cần có các chính sách về hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 63
1. Có cơ chế mô hình hỗ trợ hợp lý 63
2. Đổi mới quan điểm hỗ trợ 64
3. Đổi mới phương thức hỗ trợ 67
4. Hình thành khung khổ pháp lý hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 68
II. Các giải pháp cụ thể mang tính cấp bách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. 71
1. Chương trình hỗ trợ đào tào. 71
2. Chương trình cung cấp thông tin. 72
3. Chương trình hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng. 72
4. Chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. 73
5. Chương trình hỗ trợ về tài chính, tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ để có vốn sản xuất kinh doanh. 73
6. Chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hợp tác quốc tế và đầu tư . 74
III. Các giải pháp hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 74
1. Hoàn thiện chính sách thuế. 75
2. Hoàn thiện chính sách tín dụng: 76
3. Hoàn thiện chính sách đất đai. 79
4. Hoàn thiện chính sách công nghệ. 80
Kết luận. 83
Tài liệu tham khảo 84
86 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hời, thiếu đồng bộ, nhiều quy định pháp lý không còn phù hợp chưa được rà soát kịp thời vừa gây khó khăn, bó buộc hoạt động của các doanh nghiệp, vừa tạo ra những kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng, làm mất hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là những thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, xuất nhập khẩu, thuê đất.
- Việc thi hành pháp luật và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh, gây rối loạn trong hoạt động kinh doanh.
- Chưa có luật khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở các nước khác. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc, có Luật Cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ (1966), luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978). Nhiều nước khác đều có luật riêng để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Môi trường thị trường: Thị trường là một trong những khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến 2 nguyên nhân: Từ phía doanh nghiệp vừa và nhỏ (chưa thích nghi kịp với thị trường, sản xuất xấu, kém, giá thành cao... nên chưa thâm nhập được thị trường) và từ phía Nhà nước (tạo lập môi trường thị trường).
Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. Hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ, còn các thị trường khác chưa hoặc còn manh nha. Ví dụ: Thị trường vốn còn kém hiệu quả, đặc biệt là vốn dài hạn. Tuy nhiên, vào tháng 7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã ra đời và đi vào hoạt động một cách chập chững và nó không phải là thị trường vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, thị trường còn bị độc quyền và đặc quyền nặng nề, làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi ra đời đã phải cạnh tranh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn... đang khó khăn lớn, về cơ bản vẫn là cơ chế "xin cho" bất lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn thị trường tiêu dùng bị hàng hoá nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường.
Về thị trường nước ngoài: Do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm thấp, thiếu thị trường và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuất khẩu. Nhiều ngành nghề như thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, chạm khảm... bị đình đốn khi mất thị trường Liên Xô và Đông Âu, hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn.
Như vậy, khó khăn về thị trường do cả 2 phía: Một mặt, do năng lực, trình độ hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chất lượng hàng hoá thấp, trình độ quản lý kém; mặt khác, do môi trường thị trường chưa tốt: sức mua thấp, giá đầu vào cao, thiếu thông tin, bị hàng ngoại chèn ép.
4. Những khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Do đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ công nghệ thấp, năng lực quản lý hạn chế nên các doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một trong số những khó khăn trở ngại đó.
* Về tài chính: Thiếu vốn đang là một trong những khó khăn tài chính lớn nhất đối với doanh nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng đó vừa mang tính chủ quan (từ phía doanh nghiệp) vừa do các yếu tố khách quan (từ phía môi trường kinh doanh) và có thể là:
- Phần lớn các doanh nghiệp huy động vốn phi chính thức, lãi suất cao, không ổn định.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng (về tài sản thế chấp và phương án kinh doanh).
- Khó xác định giá trị tài sản thế chấp, chuyển nhượng đất (vật thế chấp chủ yếu) còn phức tạp.
- Ngân hàng chưa sẵn sàng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vì mức rủi ro cao.
- Chưa có thị trường vốn (đặc biệt là vốn dài hạn) cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hiệu quả sử dụng vốn của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thấp.
- Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức trung gian như tổ chức bảo lãnh tín dụng.
Thực tế cho thấy, phần vốn huy động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ nguồn phi chính thức chiếm tỷ lệ cao, mức độ rủi ro lớn.
* Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp (chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp lớn). Nguyên nhân là do thiếu vốn để trang bị công nghệ hiện đại, chưa quan tâm đúng mức tới phát triển công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ...
* Trình độ lao động và quản lý hạn chế.
* Thiếu thông tin, kiến thức, thiếu mặt bằng sản xuất, sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại đang là những khó khăn trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp.
* Thiếu sự hỗ trợ của Nhà nước: Đây là một trong những khó khăn bao trùm, vì thiếu sự hỗ trợ cần thiết các doanh nghiệp này sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, nhất là hỗ trợ lập nghiệp, chuyển giao công nghệ, bảo lãnh tín dụng. Hơn nữa, nhiều vấn đề tự thân các doanh nghiệp không thể giải quyết được như cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh nói chung.
* Chưa có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng như các hiệp hội nghề nghiệp.
Trên là những khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, để tìm ra nguyên nhân của vấn đề cần đánh giá mức độ khó khăn của các yếu tố khác nhau đối hoạt động của doanh nghiệp. Có nghĩa là cần xem xét những yếu nào ảnh hưởng lớn nhất tới doanh nghiệp. Trên cơ sở đó mà có những giải pháp phù hợp cho việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ta xem xét cách đánh giá sau:
Tiêu chí đánh giá theo thang điểm 1 - 5 (1. Không ảnh hưởng; 5. ảnh hưởng rất nhiều). Điểm bình quân của tất cả các yếu tố được xếp từ cao đến thấp như sau:
* Những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp (điểm từ 3-5)
- Thị trường xuất khẩu hạn chế: 3,5
- Luật lệ thiếu rõ ràng hay thay đổi: 3,4
- Thuế cao: 3,14
- Thiếu thông tin: 3,09
- Nhu cầu trong nước chưa cao: 3,09
- Vay vốn khó khăn: 3,04
Cùng với cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, vấn đề mà tất cả các doanh nghiệp thực sự vấp phải là thiếu thị trường xuất khẩu (các doanh nghiệp đánh giá mức độ không thuận lợi là 3,5/5). Trong năm 1998 vừa qua, mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong sửa đổi luật pháp, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhưng vấn đề luật lệ thiếu rõ ràng, hay thay đổi dẫn đến không đồng bộ được các doanh nghiệp đánh giá ảnh hưởng không thuận lợi đứng thứ hai. (Điểm 3,4/5)
* Những yếu tố có ảnh hưởng không thuận lợi tương đối lớn, trên mức trung bình (2,5 điểm trở lên).
- Buôn lậu, hàng giả: 2,84
- Chi phí vận tải, điện, thông tin liên lạc: 2,8
- Công nghệ, thiết bị lạc hậu: 2,79
- Năng lực đội ngũ quản lý: 2,68.
* Những nhân tố ảnh hưởng thấp hơn (2,5 điểm trở xuống).
- Lao động chưa đủ tay nghề: 2,46
- Thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh: 2,42.
- Thiếu vật tư, nguyên vật liệu: 2,42
- Lao động dư thừa, chưa sắp xếp được: 1,84
Những yếu tố bên ngoài tác động gây khó khăn được doanh nghiệp đánh giá cao, còn những yếu tố phát sinh từ nội lực doanh nghiệp đều được đánh giá thấp hơn. Đây là vấn đề đòi hỏi Chính phủ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam(VCCI) cùng với các hiệp hội cần có các giải pháp thích hợp hỗ trợ, đồng thời doanh nghiệp cần tìm hiểu rõ nguyên nhân thực tế, đúng đắn để giải quyết những khó khăn của chính mình.
II. Thực trạng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
ở Việt Nam các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong hệ thống chính sách chung của toàn bộ nền kinh tế, chưa có chính sách riêng đối với các doanh nghiệp này.
Như trên đã nói, các chính sách tác động trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm: Các chính sách kinh tế vĩ mô (tác động tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ) và các chính sách đặc thù hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chủ trương phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khoá VIII). Đây là định hướng chiến lược đúng đắn trong điều kiện nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và thích ứng với quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Cụ thể là:
- Hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu.
- Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhằm huy động mọi nguồn vốn, tạo nhiều việc làm, góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt tạo ra mối liên kết công nghiệp trong chức năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn và khả năng thích nghi nhanh với những thay đổi của thị trường trong và ngoài nước.
Theo định hướng trên, có thể khái quát về định hướng cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Những chính sách sẽ nghiên cứu này mặc dù có tác động tới toàn bộ nền kinh tế, nhưng góc độ xem xét ở đây chỉ mang tính đặc thù nhằm hỗ trợ phát triển phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay.
1. Chính sách thuế.
1.1. Thuế và các chính sách thuế đang áp dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thuế là một trong những công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô rất quan trọng, sắc bén và có hiệu lực Nhà nước đối với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, từ khi chuyển dịch sang cơ chế thị trường đến nay, Nhà nước đã có nhiều sửa đổi, bổ sung hệ thống thuế tạo nguồn thu cho ngân sách, bảo đảm bình đẳng, công bằng giữa các cơ sở kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp tăng năng suất, nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo đảm cạnh tranh đúng luật của các chủ thể kinh doanh.
Hệ thống thuế chung hiện nay bao gồm: Thuế doanh thu (nay được thay bằng thuế giá trị gia tăng - VAT), thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môn bài (đăng ký kinh doanh), thuế sử dụng đất...
Hệ thống thuế mới đã có tác dụng lớn đối với việc phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cũng có ưu đãi đối với các doanh nghiệp này. Điều đó được thể hiện:
Thuế giá trị gia tăng (được Nhà nước ban hành và đưa vào áp dụng cho nước ta vào đầu năm 1999, thay thế cho thuế doanh thu khá rườm rà, không chặt chẽ trước đây).
- Miễn thuế đối với hộ sản xuất nhỏ, nghề phụ, kinh tế phụ gia đình, hàng xuất khẩu.
- Giảm thuế cho các cơ sở kinh tế ở miền núi, hải đảo, khai thác thuỷ sản ở vùng xa bờ, các cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, chạy thử dây chuyền công nghệ mới, sản xuất mặt hàng cần thay thế hàng nhập khẩu.
- Giảm thuế 1 - 2 năm cho các cơ sở sản xuất bắt đầu khởi sự (từ năm 1993).
Thuế lợi tức:
- Miễn thuế đối với kinh tế phụ gia đình.
- Miễn thuế cho các cơ sở sản xuất bắt đầu kinh doanh từ năm 1993, những doanh nghiệp di chuyển từ miền xuôi lên miền núi, hải đảo, các cơ sở hoạt động nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học kỹ thuật, sản xuất thử...
- Giảm thuế cho các cơ sở sản xuất trong vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hạ tầng cơ sở yếu kém.
- Giảm thuế cho các cơ sở thuộc ngành cần khuyến khích đầu tư.
- Các cơ sở kinh doanh được hoãn nộp thuế sang năm sau nếu sản xuất bị lỗ do nguyên nhân khách quan.
Thuế tiêu thụ đặc biệt:
- Miễn thuế đối với hàng xuất khẩu.
- Giảm thuế đối với các cơ sở mới thành lập đang mở rộng sản xuất, áp dụng khoa học tiên tiến mà nếu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt thì bị lỗ.
Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được khuyến khích và hỗ trợ về thuế trong các luật khác, như Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Miễn thuế 1-2 năm đối với các doanh nghiệp mới thành lập ở các vùng núi và hải đảo, giảm thuế từ 1-2 năm cho các doanh nghiệp trong các ngành như chế biến nông sản. Nghị định 66/HĐBT tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ (dưới mức vốn pháp định) đăng ký kinh doanh và giảm nhẹ mức thuế cho các doanh nghiệp này.
Tuy vậy, hệ thống thuế và chính sách thuế còn nhiều hạn chế làm giảm tác dụng của thuế như:
- Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý: nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên, nuôi dưỡng các nguồn thu. Gần đây, tuy thuế suất có giảm những vẫn còn cao và còn nhiều khoản thu ngoài thuế, nhất là các địa phương.
- Hệ thống thuế suất quá cao, phức tạp, chẳng hạn thuế doanh thu trước đây có rất nhiều mức. Hơn nữa, thuế không ổn định, hay thay đổi, nhất là thuế xuất khẩu. Điều đó vừa gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và thực hiện chính sách thuế của Nhà nước, nó vừa làm hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, dẫn tới giảm sức cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế, gây trở ngại cho quốc tế hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế.
- Các quy định về thuế còn rườm rà. Về thuế lợi tức, có 19 loại văn bản liên quan (từ luật tới các văn bản hướng dân thực hiện); về thuế môn bài, có 9 văn bản; thuế xuất nhập khẩu có 24 văn bản... Đó là chưa kể các văn bản hướng dẫn ở địa phương.
- Chưa bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, việc thực hiện các loại thuế chưa thống nhất. Theo Nghị định 29/HĐBT ngày 9-3-1988, các hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế gia đình không phải nộp thuế kinh doanh. Quy định này không hợp lý vì vừa gây ra bất bình đẳng giữa kinh tế cá thể với kinh tế gia đình và là kẽ hở cho nhiều người lợi dụng núp dưới danh nghĩa "kinh tế gia đình" để trốn thuế.
- Thuế còn trùng lặp và thuế suất cao đã khích thích các doanh nghiệp trốn thuế, lậu thuế.
- Cơ chế thu thuế chưa khoa học, không chặt chẽ, chưa có sự độc lập giữa người định thuế, người thu thuế và người kiểm tra thuế. Trên thực tế vẫn áp dụng chế độ thuế khoán thu đối với một số lượng rất lớn các doanh nghiệp nhỏ và kinh tế cá thể. Điều đó vừa thiếu chính xác trong khâu định thuế, vừa dễ dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Sự bất cập của một số cán bộ thuế đã gây ra tệ ăn hối lộ, tham nhũng lớn.
- Sự phân định nghĩa vụ thuế theo hình thức tổ chức sản xuất (công ty, doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở sản xuất đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT...) với mức thuế suất rất khác nhau, vừa khó quản lý vừa tạo kẽ hở cho nhiều cơ sở trốn thuế (chỉ đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT để hưởng mức thuế thấp).
Hiện nay, rất cần đơn giản hệ thống thuế ở Việt Nam vì nó quá phức tạp và thiếu minh bạch. Có thể so sánh thuế của nước ta so với các nước trong khu vực như bảng sau:
Bảng 16: So sánh thuế suất của Việt Nam với các nước ASEAN khác.
Nước
Thuế thu nhập cá nhân
(% trong thu nhập ròng cá nhân)
Thuế thu nhập công ty
(% lợi nhuận ròng)
Xingapore
2 - 28
26
Malaysia
2 - 30
30
Indonesia
10 - 15 - 30
10 - 15 - 30
Philippin
1 - 35
35
Thái Lan
5 - 37
30
Việt Nam
0-50 đối với người nước ngoài
0-60 đối với người Việt Nam
15 - 20 - 25 - 32
Mặc dù các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã được hỗ trợ về thuế từ Nhà nước, tuy nhiên hiệu quả vẫn thấp. Theo số liệu phân tích hoạt động năm 1995 - 1997 của 5.429 doanh nghiệp vừa và nhỏ, có tới 60% doanh nghiệp chưa hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn ngân hàng giảm dần qua các năm. Tại TP. Hồ Chí Minh năm 1995, tỷ suất lợi nhuận trên vốn là 19% thì năm 1995 chỉ còn 7,29%, (xem thêm bảng).
Bảng 17: Bảng tỷ suất lợi nhuận trên vốn ngân hàng của các doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
1995
19
1996
18
1997
15
1998
7,93
1999
9,29
Nguồn: kết quả điều tra tại TP. Hồ Chí Minh 1999
1.2. Xu hướng cải cách hệ thống thuế ở Việt Nam.
Xu hướng này là chung cho toàn bộ đối tượng trong nền kinh tế trong đó sẽ tác động tích cực tới sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Có nhiều loại thuế và Nhà nước quản lý thuế theo nhiều nội dung (đối tượng của thuế, người nộp thuế, giá tính thuế, đơn vị tính thuế, xử phạt, khen thưởng, miễn giảm thuế...). Vì vậy, không có chuẩn mực cụ thể nào đối với cải cách hệ thống thuế nói chung. Dưới đây chỉ đưa ra một số vấn đề mang tính lý luận soi sáng con đường cải cách hệ thống thuế hiện nay ở nước ta. Có thể nói thuế là con dao hai lưỡi:
- Nếu thu thuế nhiều về ngân sách nhà nước ị doanh nghiệp khó tái đầu tư ị sản xuất kém phát triển ị không có doanh thu để nộp thuế ị ảnh hưởng tới thu ngân sách nhà nước ở chu kỳ sau.
- Nếu thu ít thuế ị ngân sách nhà nước bị thất thu, trước mắt ảnh hưởng lớn tới kế hoạch chỉ tiêu công cộng nhưng lại khuyến khích doanh nghiệp đầu tư trực tiếp ị sản xuất phát triển ở nhiều doanh nghiệp ị mở rộng diện thu trong chu kỳ tới.
Như vậy, thuế không những là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước mà còn là một trong những công cụ kinh tế quan trọng và có hiệu lực để Nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần đổi mới chính sách thuế như thế nào để vừa bồi dưỡng nguồn thu lâu dài, vừa tính nhu cầu chỉ tiêu cấp thiết của Chính phủ. Xu hướng chung là tăng tỷ trọng thuế trực thu, giảm thuế gián thu (ở Việt Nam hiện nay thuế trực thu chỉ chiếm dưới 20%).
Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ cần đổi mới chính sách thuế theo hướng( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1996, tr 102
):
- Đơn giản, ổn định, công bằng.
- Khuyến khích làm ăn hợp pháp.
- Bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý vào ngân sách nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn vào đầu tư phát triển.
- Thực hiện chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế đối với đầu tư phát triển và đối với những vùng đặc biệt khó khăn.
- Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình Việt Nam gia nhập AFTA và WTO.
* Theo ý kiến của một số chuyên gia tài chính, muốn huy động vốn từ thuế của Việt Nam từ 19 - 20% GDP là được.
2. Chính sách tín dụng.
Thực chất của chính sách này là việc tạo lập, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay do hạn hẹp về vốn tự có, không tiếp cận được với vốn ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải huy động vốn phi chính thức, lãi suất cao, nhiều rủi ro. Đây chính là tình trạng chung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh: đầu tư trang bị công nghệ mới, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, mở rộng quy mô doanh nghiệp... Do vậy, thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động vốn. Các biện pháp đó là:
- Mở rộng đối tượng cho vay. Trước đây chỉ cho vay trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã. Từ năm 1988, Ngân hàng nhà nước đã ban hành thể lệ tín dụng đối với kinh tế tư nhân, cá thể, nên các cơ sở kinh tế này mới chính thức được vay ngân hàng. Đến nay, ngân hàng đã cho tất cả các thành phần kinh tế vay vốn.
- Cải cách hệ thống ngân hàng, mở rộng và phát triển hệ thống thu hút và cung ứng vốn của các ngân hàng thương mại.
- áp dụng các hình thức tín dụng của các tổ chức tài chính: công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng...
- Cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
- Xúc tiến hình thành thị trường vốn trung, dài hạn, thị trường chứng khoán.
Nhờ vậy, hệ thống cung ứng vốn, điều kiện huy động vốn đã có nhiều cải thiện đáng kể. Đến nay, ở Việt Nam có 4 ngân hàng thương mại quốc doanh với 90 chi nhánh, 132 phòng đại diện, có 9 ngân hàng liên doanh, 50 ngân hàng cổ phần, 10 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 30 đại diện ngân hàng nước ngoài, 300 quỹ tín dụng ở 36 tỉnh thành. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau cả trong nước và ngoài nước.
Kết quả là, tỷ trọng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số tín dụng ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Năm 1990, tỷ trọng tín dụng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số vốn cho vay của ngân hàng chỉ chiếm 5%, năm 1991 chiếm 7%, năm 1992 là 15%, thì đến năm 1994 lên tới 36% và năm 1995 là 50%.
Đứng trước mục tiêu của chính sách này là cần thiết phải hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đưa những doanh nghiệp thoát ra khỏi những khó khăn vướng mắc hiện nay, nhằm tạo đà cho sự phát triển kinh tế đất nước và một số giải pháp hỗ trợ mà Nhà nước ta đã đưa ra để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian qua là:
- Cho vay với lãi suất thấp đối với sản xuất nông nghiệp và các doanh nghiệp miền núi (Luật khuyến khích đầu tư trong nước).
- Hỗ trợ tín dụng đối với các khu vực nghèo, gặp khó khăn.
- Thành lập các quỹ cho vay theo các chương trình hỗ trợ.
- Thành lập một số hình thức hỗ trợ như quỹ bảo lãnh tín dụng ở một số địa phương.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Nhiều nơi chỉ có khoảng 60% số doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được với tín dụng ngân hàng (có nơi chỉ 30-35%), vốn vay ngân hàng chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu vốn. Phần vốn còn lại được trang trải bằng vốn tự có và các hình thức huy động vốn phi chính thức như vay bạn bè, nhân thân, mua bán chịu... Nguồn vốn này có ưu điểm là đáp ứng linh hoạt, kịp thời cho hoạt động kinh doanh, thủ tục đơn giản nhưng khối lượng vốn vay được còn quá ít, lai không ổn định và dễ gây đổ vỡ.
Tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam khó vay vốn như hiện nay có nhiều nguyên nhân: một mặt do phía các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặt khác là do từ phía Nhà nước.
Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: Chủ yếu là do năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, khả năng hoàn trả và bảo toàn vốn thấp, nên các ngân hàng và các tổ chức tài chính không muốn cho vay. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ít quan hệ với ngân hàng nên khó tiếp cận với vốn ngân hàng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật làm mất uy tín chung.
Nguyên nhân từ phía môi trường: Đây là nguyên nhân rất quan trọng, bao gồm:
- Kinh tế vĩ mô chưa ổn định: tỷ lệ lạm phát cao nên lượng tiền gửi và cho vay trung - dài hạn chiếm tỷ trọng thấp, tỷ lệ tiết kiệm thấp (khoảng 15% GDP) là những cản trở lớn đối với việc huy động vốn.
- Quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước còn yếu: chính sách kinh tế vĩ mô thiếu nhất quán và nhiều chính sách chưa sát thực tế. Còn nhiều trở ngại trong chính sách tài chính, tiền tệ: Nhà nước định trần mức lãi suất một cách cứng nhắc làm hạn chế tín dụng dài hạn; các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao dẫn đến lượng vốn cho vay bị hạn chế; thiếu chính sách cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng... Do vậy mà dẫn đến lãi suất cho vay cao.
- Hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém; nguồn vốn cho vay của ngân hàng còn nhiều hạn chế và không ổn định do nguồn huy động chủ yếu là khoản tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn 3- 6 tháng của nhân dân và các doanh nghiệp (chiếm 75% tổng doanh số của các ngân hàng), do đó chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu đầu tư vốn trung và dài hạn; mạng lưới của các tổ chức ngân hàng còn yếu kém, số cơ sở kinh doanh ngân hàng tính bình quân trên đầu người thấp.
- Chưa có thị trường vốn trung và dài hạn: hiện nay các định chế tài chính quan trọng để huy động vốn trung và dài hạn như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, các công ty tài chính... còn yếu kém hoặc chưa có.
Để khắc phục được tình trạng hạn hẹp về vốn tự có, không tiếp cận được với vốn ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn phải huy động vốn từ nguồn phi chính thức, lãi suất cao... Nhà nước cần có quy định bắt buộc các ngân hàng thương mại dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ một tỷ lệ vốn vay tương ứng với sự đóng góp của nó trong GDP; đánh giá tài sản thế chấp theo giá thị trường. Để giảm bớt rủi ro, một mặt sớm hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng, đây là việc làm bức xúc thiết thực đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành trên cơ sở đóng góp của các tổ chức nhà nước, các tổ chức quốc tế, các công ty tài chính, chiết khấu từ người vay (lệ phí bảo hành). Để giảm chi phí và rủi ro cho ngân hàng thương mại, có thể cho vay thông qua nhóm làng nghề, cụm công nghiệp; đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho doanh nghiệp lớn, cần có sự bảo lãnh của các doanh nghiệp lớn. Hình thành quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm hỗ trợ của ngân sách, các tổ chức quốc tế, đóng góp của các doanh nghiệp lớn... Có chính sách lãi suất ưu đãi nhưng phải kết hợp với việc thẩm định dự án đầu tư (vì cho vay lãi suất thấp để có thêm lợi nhuận tái đầu tư chứ không phải đầu tư vào những dự án kém hiệu quả). Điểm cần lưu ý trong kinh tế thị trường, bên cạnh vốn tiền tệ, mỗi doanh nghiệp cần tạo dựng cho mình nguồn vốn trí tuệ (công nhân có tay nghề cao, chủ doanh nghiệp có kỹ năng quản lý, điều hành), đây là loại vốn vô hình và có sức mạnh vô biên.
Để đánh giá sự tác động của chính sách tín dụng đối với sự huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ta có thể dưạ trên số liệu đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Theo khảo sát của nhóm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.docx