Luận văn Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO

Mục lục

Trang

Lời mở đầu

1. Tính tất yếu của đề tài 1

2. Mục đích của đề tài 1

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

4. Phương pháp nghiên cứu 2

5. Kết cấu của đề tài 2

Phần nội dung

Chương 1. Những vấn đề chung về xuất khẩu nông sản

Và kinh nghiệm của các nước

1.1. Tổng quan về chính sách thúc đẩy xuất khẩu 4

1.1.1. Khái niệm và vai trò 4

1.1.1.1. Khái niệm 4

1.1.1.2. Vai trò 4

 1.1.2 Nội dung 4

 1.2Cơ hội và thách thức cho nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng 5

1.3 Các quy tắc của WTO về thương mại nông sản phẩm 7

1.3.1 Mở rộng thị trường 8

1.3.2 Cắt bỏ trợ giá sản xuất nông sản phẩm 9

1.4 Các cam kết của Việt Nam 11

1.5 Tác động của những cam kết này đối với xuất khẩu nông sản 12

1.6 Kinh nghiệm của các nước 14

1.7 Bài học đối với Việt Nam 16

Chương 2 Thực trạng chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam

2.1 Về thành công 17

2.1 Những tồn tại và hạn chế trong chính sách xuất khẩu nông sản 21

Chương 3 Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất

khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO

3.1 Định hướng hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 30

3.2 . Các giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: 30

3.2.1 Xác định sản phẩm chiến lược 32

3.2.2. Thực hiện chính sách ruộng đất hợp lý trong điều kiện gia nhập WTO:33

3.2.2.1. Những kinh nghiệm từ chính sách khoán 10 34

3.2.2 .2. Cơ sở của việc thực hiện tích tụ ruộng đất 35

3.2.2.3. Giải pháp đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa: 36

3.2.2.4 Một số mô hình thí điểm: Đây là những mô hình mang tính giới thiệu để hiện thực hóa các giải pháp ở trên 39

3.2.3. Xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao: 40

3.2.3.1 T ính tất yếu của sự phát triển nông nghiệp công nghệ cao 40

3.2.3.2 Các giải pháp phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao 41

3.2.4 Xúc tiến thương mại 44

Phần kết luận

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2918 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sản khó phát triển vững chắc trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường nông sản thế giới ngày càng quyết liệt hơn. Tuy đã có những điều chỉnh nhất định nhưng cách tiếp cận của chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện vẫn thiên về chú trọng tiềm năng đất nước mà chưa quan tâm đúng mức đến yêu cầu thị trường. Các chính sách được xây dựng dường như đều xuất phát từ khả năng sản xuất trong nước mà chưa xuất phát từ thị trường, mặc dù ai cũng nhận thức rằng, hiện nay, sản xuất là phải cho thị trường, bắt đầu từ thị trường. Nhiều chính sách được ban hành không chỉ nhằm giải quyết dư cung nông sản trong nước mà còn hơn thế nữa, vẫn tiếp tục phát tín hiệu định hướng sản xuất và xuất khẩu nông sản phát triển về số lượng hơn là định hướng phát triển chất lượng. Chẳng hạn, chính sách thưởng xuất khẩu cho mặt hàng cà phê, chính sách khuyến khích sản xuất, nhập khẩu giống nông sản năng suất cao, trong khi chưa có chính sách đủ mạnh để định hướng, khuyến khích nghiên cứu, sản xuất, nhập khẩu giống có chất lượng cao, đạt yêu cầu xuất khẩu, chưa có chính sách thay đổi chất lượng nông sản xuất khẩu thông qua chuyển mạnh sang sản xuất nông sản hữu cơ xuất khẩu.. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn tiếp tục khó khăn, trong điều kiện cung nông sản thế giới có xu hướng tăng. Thứ ba, trong chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam còn thiếu quy hoạch sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu một cách bài bản xét về quy mô tổng thể và chất lượng quy hoạch. Chiến lược xây dựng trên những luận cứ, luận chứng chưa đầy đủ, chính xác, nhiều chỉ tiêu cho năm 2010 đã được thực hiện xong trước. Ví dụ, trong chiến lược xác định chỉ tiêu xuất khẩu cho cà phê năm 2010 là 600 ngàn tấn vậy mà năm 2004 xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã là 906 ngàn tấn. Đồng thời do thiếu quy hoạch tổng thể cho sản xuất nên xuất hiện hiện tượng người dân sản xuất nông sản xuất khẩu tự phát theo phong trào. Ví dụ như hiện tượng khi cây cà phê hay hạt tiêu được giá người dân Tây Nguyên đổ xô bỏ vốn bỏ sức chặt rừng trồng cà phê hạt tiêu. Sản xuất một cách ồ ạt thiếu quy hoạch chất lượng không được đảm bảo khi rớt giá người dân lao đao. Khi đó, Nhà nước thì lúng túng tìm biện pháp tháo gỡ cho người dân thì đã quá muộn. Các giải pháp đưa ra chỉ mang tính chất tình thế và tốn kém như hoãn nợ cho nông dân, trợ cấp vốn tái sản xuất mặt hàng mới. Có thể nói thiếu bước quy hoạch tổng thể ban đầu thì nông sản Việt Nam vẫn mãi đi vào vòng luẩn quẩn “được mùa mất giá”. Không thể trách thị trường thế giới luôn biến động mà dẫn tới việc sản xuất trong nước cũng biến động theo. Nông sản của chúng ta chỉ xuất khẩu một cách thụ động nên không chủ động được giá trên thị trường thế giới. Công tác hướng dẫn nông dân trồng cây gì, nuôi con gì của nhà nước vẫn còn hạn chế. Người dân vẫn còn sản xuất tự phát theo nhu cầu, xu hướng. Việt Nam cũng rất lãng phí nguồn vốn ít ỏi đầu tư trong nông nghiêp, khi mà xây dựng các nhà máy chế biến một cách thiếu quy hoạch. Có nơi quá nhiều nhà máy dẫn tới nhà máy thiếu nguyên liệu. Nơi thì người nông dân trồng ra không có người mua. Lấy các nhà máy chế biến chè ở Bảo Lộc – Lâm Đồng làm ví dụ: Ông Trần Việt, Trưởng phòng công thương thị xã Bảo Lộc cho biết: theo thống kê sơ bộ của Phòng công thương Bảo Lộc, trên địa bàn thị xã hiện có 54 nhà máy chế biến chè các loại (28 nhà máy quốc doanh, 18 nhà máy các doanh nghiệp tư nhân, 4 nhà máy của các công ty cổ phần, 3 nhà máy có vốn nước ngoài và 1 nhà máy của khối hợp tác xã) với tổng công suất được thiết kế là 38.000 tấn chè thành phẩm (tương đương khoảng 160.000 tấn chè búp tươi/năm). Ngoài ra số cơ sở chế biến nhỏ, chế biến quy mô hộ gia đình... thì "rất nhiều nhưng không thể nào thống kê được" như lời ông Việt nói. (Nguồn www.vnn.vn) Trong khi công suất chế biến quá lớn thì nguồn nguyên liệu trên địa bàn lại quá ít và tiếp tục có chiều hướng giảm diện tích do tốc độ đô thị hóa. Cụ thế cả thị xã Bảo Lộc chỉ có 9.452 ha chè các loại và tổng sản lượng chè hiện chỉ đạt khoảng 70.000 tấn chè búp tươi/năm (bằng 50% nhu cầu nguyên liệu của 54 nhà máy trên). Theo thực tế thì tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu nguyên liệu chế biến thực tế trên địa bàn. Điều đáng lo nữa là hiện nay hệ thống chế biến chè tiếp tục "phình ra", đáng chú ý nhất là nhà máy chế biến chè với quy mô lớn đang được Trung tâm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật chè và cây ăn quả Lâm Đồng đầu tư. Có hiện tượng đáng tiếc đó, một phần là do ngành nông nghiệp không quy hoạch sản xuất một cách rõ ràng. Việt Nam chưa hình thành được các vùng sản xuất chuyên canh lớn, bởi vậy có hiện tượng nguyên liệu mỗi nơi có một tý. Một phần nữa là nhà nước cũng chưa có công tác định hướng, tư vấn cho các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến nông sản. Các doanh nghiệp họ chỉ xây dựng nhà máy theo nhận định của họ mà không có thông tin tổng thể về nguyên liệu, các dự án khác từ vùng sản xuất đó. Thứ tư, một số chính sách được áp dụng mang tính bao cấp, giải quyết tình thế cộng với sự thiếu minh bạch, khó tiên liệu gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp và người dân tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu. Chẳng hạn, việc phân bổ chi ngân sách cho các dự án khuyến nông hoặc phát triển nông sản xuất khẩu vẫn theo kiểu xin- cho, cách thức phân bổ quota xuất khẩu nông sản hay phân bổ chỉ tiêu định hướng…về thực chất không khác mấy cách phân bổ kế hoạch trước đây. Cơ chế xin – cho cộng với sự khó tiên liệu trong việc thay đổi thuế xuất liên tục mà doanh nghiệp hầu như không biết trước đã làm cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp tăng lên, sự thất thường của giá cả, giảm đi sức cạnh tranh rõ rệt. Những chính sách ưu đãi chủ yếu tập trung vào khâu thương mại như ưu đãi về tín dụng, thuế, trợ cấp, thưởng xuất khẩu…chưa tác động mạnh tới khâu quan trọng nhất là sản xuất. Mặt khác những ưu đãi này thường là tiền mặt bởi vậy nhiều khi tham nhũng thì số tiền Nhà nước ưu đãi chưa thực sự đến với tay người dân mà lại rơi vào tay quan chức. Cho dù lợi ích hỗ trợ của Nhà nước có đến tay doanh nghiệp hay người dân tham gia sản xuất nông sản xuất khẩu thì họ hầu như không đầu tư cho sản xuất, nghiên cứu thị trường, mua các giống cây mới…Nói khác đi lợi ích mà người nông dân được chia sẻ từ sự hỗ trợ của Nhà nước là chưa nhiều và chưa hiệu quả. Thứ năm, thiếu sự phối hợp đồng bộ, sự gắn kết giữa các chính sách ở tầm vĩ mô và vi mô; có sự chồng chéo trong việc ban hành chính sách giữa các cơ quan chức năng. Nhiều chính sách ban đầu của Chính phủ rất tốt song khi nó được triển khai dưới các cơ quan quản lý nhiều khi còn gây phiền hà, khó khăn cho các doanh nghiệp. Ví dụ chính sách khen thưởng xuất khẩu thì rất đúng đắn. Song thủ tục để xét thưởng còn mang nặng tính hành chính, phức tạp, thời gian xét duyệt kéo dài làm cho doanh nghiệp cũng nản lòng, không mặn mà, thậm chí bỏ cuộc. Sở dĩ có hiện tượng này là bởi hiện tượng quan liêu cửa quyền của các cán bộ hành chính ở Việt Nam còn phổ biến. Các thủ tục hành chính phiền hà chỉ nhằm mục đích tham ô, tham nhũng. Bên cạnh đó, công tác quản lý thu thập số liệu thông tin về xuất khẩu nông sản. Ví dụ chỉ có số liệu về xuất khẩu hoa quả nói chung chứ số liệu của từng loại hoa quả xuất đi bao nhiêu, ở những thị trường nào thì nhà nước không hề nắm rõ. Khi mà xét thưởng lại phải thẩm định, kiểm tra nhiều lần số liệu các doanh nghiệp cung cấp. Tuy vậy chính sách này chỉ đúng với trước kia còn bây giờ hình thức xét thưởng này thuộc về phần trợ cấp xuất khẩu Việt Nam đã cam kết cắt bỏ, nên không thể áp dụng được nữa. Một số chính sách xuất khẩu nông sản có thể gây ra hiệu quả phụ, Chính phủ lường trước được song không có chính sách bổ sung. Chính sách trợ giá đầu vào sản xuất nông sản thông qua giảm thuế nhập khẩu, hoàn trả thuế giá trị gia tăng cho phân bón, thuốc trừ sâu được áp dụng đồng thời với việc sử dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước là một trong những chính sách như vậy. Kết quả là có trường hợp xảy ra “sốt nóng” trên thị trường phân bón, doanh nghiệp được lợi nhưng nông dân bị thiệt. Khi đó Nhà nước lại không có chính sách bổ sung làm cho mục tiêu hỗ trợ giá đầu vào cho nông dân bị triệt tiêu. Có trường hợp hạn ngạch nhập khẩu làm giảm giá phân bón, nông dân được lợi nhưng mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước không thực hiện được. Chính sách cho phép nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu nông sản nhằm tạo sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, đảm bảo nông sản được xuất khẩu được xuất khẩu bởi những doanh nghiệp có năng lực nhất. Nhưng Chính phủ lại thiếu những chính sách hỗ trợ bổ sung, nên đã không ngăn chặn được tình trạng tranh giành khách hàng giữa các doanh nghiệp, gây thiệt hại cho người sản xuất, làm giảm lợi ích quốc gia, hạn chế hiệu quả chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản. Chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu, chính sách thị trường nông sản xuất khẩu không được phối kết hợp chặt chẽ với chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông sản xuất khẩu trong nước, chưa trở thành công cụ dẫn dắt định hướng cho chính sách phát triển nông sản xuất khẩu. Theo đó, chính sách đầu tư phục vụ cho nghiên cứu khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất nông sản xuất khẩu, chính sách đầu tư cho thâm canh, mở rộng quy mô sản xuất nông sản xuất khẩu, đầu tư cho công nghiệp chế biến đã không có sự tương thích với yêu cầu của thị trường thế giới mà lẽ ra chính sách mặt hàng, chính sách thị trường phải xác định rõ. Chính sách thị trường thì do Bộ thương mại ban hành, chính sách khoa học công nghệ thì do Bộ Khoa học và công nghệ ban hành…Mặt hàng nông sản chịu sự chi phối của nhiều chính sách và đặc biệt nó từ nhiều bộ, ban, ngành khác nhau. Khi mà không có sự thống nhất giữa các cơ quan chức năng này thì việc chồng chéo của các chính sách này không quá khó hiểu.Chế độ “bộ chủ quản” cũng dẫn tới việc thiên vị lợi ích cho các doanh nghiệp thuộc sự quản lý của bộ đó, cản trở việc cạnh tranh bình đẳng. Bên cạnh đó, các chính sách ở tầm vĩ mô không có hướng dẫn cụ thể khi đưa xuống dưới cộng với năng lực của các cán bộ ở tầm vi mô, tham nhũng, tiêu cực sẽ làm cho sự gắn kết giữa việc ban hành và thực thi lỏng lẻo. Thứ sáu, Chính sách x úc tiến thương mại chưa tốt. Đứng trên nhiều giác độ khác nhau, chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau về xúc tiến thương mại. Trong điều kiện môi trường thương mại quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc dưới tác động của hội nhập kinh tế, quan niệm của Trung tâm Thương mại quốc tế: “xúc tiến thương mại là tất cả những biện pháp nhắm khuyến khích phát triển thương mại” đã bao trùm các biện pháp ở tầm vi mô lẫn vĩ mô; cả trước mắt lẫn lâu dài; cả khuyến khích trực tiếp lẫn gián tiếp. Xúc tiến thương mại là đầu mối quan trọng giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa cả trong thị trường trong nước và quốc tế. Trong bài nghiên cứu này đang bàn về nông sản xuất khẩu nên chỉ xem xét xúc tiến thương mại dưới góc độ xúc tiến xuất khẩu nông sản. Tức là đánh giá và đề xuất ý kiến về các hoạt động: thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm nông nghiệp… trên thị trường nước ngoài của Chính phủ, các tổ chức xúc tiến, doanh nghiệp Việt Nam như thế nào. Hiện nay Việt Nam có 42 thương vụ sứ quán ở nước ngoài thực hiện nhiệm vụ xúc tiến xuất khẩu cho các mặt hàng từ trong nước. Ngân sách chi cho xúc tiến thương mại lên tới 321,88 tỷ đồng, ngân sách nhà nước đóng góp 195,12 tỷ đồng. Tuy vậy ngân sách chi cho xúc tiến nông sản chỉ hơn 4 tỷ đồng. Vẫn tồn tại tình trạng vừa thừa vừa thiếu thông tin. Thừa là thừa những thông tin chung chung, thiếu là thiếu những thông tin về thị trường, nhu cầu thực tế. Nhiều người cho rằng sở dĩ có tình trạng này là do kinh phí cung cấp cho hoạt động này quá ít ỏi. Trong khi đó để có những thông tin sâu về thị trường nước bạn ta cần có đội ngũ trình độ tốt nghiên cứu trong một thời gian nhất định, như vậy chi phí rất đắt đỏ. Ngay như cả tổng công ty chè cũng chỉ có một trung tâm ở Nga để khảo sát thị trường. Không hẳn là vậy, thực tế chúng ta có tới 42 thương vụ viện ở nước ngoài thực hiện nhiệm vụ thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp trong nước. Vấn đề là ở chỗ hiệu quả của các trung tâm này ra sao. Đồng thời nông sản là một mặt hàng có rất nhiều hiệp hội: hiệp hội điều, hiệp hội cà phê, hiệp hội chè… Vai trò của các hiệp hội này một phần là liên kết hỗ trợ sản xuất, còn có nhiệm vụ khảo sát, tìm bạn hàng, quảng bá thương hiệu ra nước ngoài. Thế nhưng hiệp hội của Việt Nam dường như chỉ tồn tại mang tính hình thức. Ngay cả Chính phủ cũng có rất ít cơ quan trong nước thực hiện nhiệm vụ tư vấn xuất khẩu may ra chỉ có phòng thương mại và công nghiệp (VCCI). Về phía doanh nghiệp cũng chưa chủ động trong việc tìm thông tin, chưa tận dụng tốt các phương tiện truyền thông. Chúng ta cũng chưa tận dụng tốt những người Việt Nam sông ở nước ngoài. Họ có nhiều thông tin nóng, chính xác trong khi chi phí nhiều khi lại chỉ mang tính tượng trưng. Rõ ràng nguyên nhân của bất cập trong chính sách này bắt nguồn từ nhận thức. Có thể nguyên nhân khách quan là chúng ta thiếu vốn không có tiền nhiều bỏ ra nghiên cứu thị trường. Chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quảng bá thương hiệu cho các mặt hàng nông sản. Song sâu xa nhất, Chính phủ và ngay cả doanh nghiệp cũng chưa thực sự coi trọng chính sách này. Vẫn có quan niệm cos hàng là bán được, bán ở đâu cũng tốt, không quan tâm mặt hàng nào bán ở đâu, số lượng bao nhiêu, bán như thế nào cho hiệu quả. Thứ bảy, các chính sách đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, thay đổi nhận thức của người dân còn gặp nhiều khó khăn. Tâm lý của người dân chỉ là thấy lợi trước mắt là họ làm. Thấy cây nào đó, giá tăng là họ trồng; thấy phun thuốc cho năng suất cao thì họ phun. Mặt khác, những tập quán sản xuất lạc hậu tư tưởng sản xuất tiểu nông rất khó thay đổi. Bởi vậy cán bộ khuyến nông vô cùng vất vả mỗi khi muốn người dân thay đổi một cách thức làm ăn mới nào đó. Tiền chi cho công tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật thấp khiến cho số lượng cán bộ khuyến nông vừa thưa, vừa không mặn mà với công việc. Tóm lại, các chính sách xuất khẩu nông sản của Việt Nam phần nào đó đã là cú huých mạnh cho nông sản Việt có mặt trên thị trường thế giới. Tuy thế vẫn thiếu sự dài hơi trong định hướng của nhà nước. Vẫn chưa có “cộng hưởng” trong các chính sách để tạo ra sự đảm bảo cho sự chủ động của chúng ta trước những biến động liên tục của thị trường. Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO 3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Khi đã là thành viên WTO tức là chúng ta đã tham gia vào sân chơi thương mại thế giới. Đã chơi thì chúng ta phải chơi theo luật, quy định của WTO. Bởi thế, các công cụ chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của chúng ta cần phù hợp, tương thích với “Hiệp định nông sản phẩm”, “Hiệp định trợ cấp”… Việt Nam cần vận dụng và phát huy triệt để các trợ cấp được phép. Chính phủ cần tăng cường đầu tư nghiên cứu, khoa học đặc biệt là về các loại cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao và khả năng kháng bệnh. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra nước ngoài. Đồng thời cắt giảm các loại trợ cấp theo cam kết, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Xây dựng, tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp phù hợp để vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu nông sản. 3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Thực hiện được định hướng trên Việt Nam cần có những chính sách mang tính dài hơi và đủ mạnh để khắc phục những hạn chế trước đó: Nhà nước cần xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản quốc gia đến năm 2020 và Chiến lược phát triển hàng nông sản xuất khẩu từ nay đến năm 2010, tầm nhìn 2020: Thực chất xây dựng Chiến lược xuất khẩu nông sản là xây dựng các chính sách định hướng xuất khẩu nông sản. Chiến lược này bao gồm các chính sách: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách xúc tiến thương mại hàng nông sản xuất khẩu. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là các chính sách này, nhất là chính sách thị trường nông sản xuất khẩu, phải được xây dựng trước tiên và được lấy làm căn cứ định hướng cho các chính sách khác. Trong đó, chính sách mặt hàng được xây dựng trên cơ sở chính sách thị trường. Điều cần lưu ý là cũng như Chiến lược xuất khẩu nông sản, Chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu cần được xây dựng trước hết trên cơ sở coi trọng định hướng thị trường xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu chứ không phải trên cơ sở coi trọng tiềm năng sản xuất trong nước. Thành lập một cơ quan tư vấn, nghiên cứu thị trường độc lập, theo dõi thực hiện chính sách: Chức năng của cơ quan này là lập hồ sơ theo dõi những thay đổi chính sách của Nhà nước, kiểm điểm đánh giá tác động của chính sách đối với xuất khẩu nông sản để sớm đưa ra cảnh báo về những mâu thuẫn giữa các văn bản chính sách, hoặc sự không thống nhất giữa chính sách tổng thể và các chính sách cụ thể thực hiện; làm đầu mối tiếp xúc giữa Chính phủ và doanh nghiệp, người sản xuất, thu thập ý kiến của người sản xuất, của người tiêu dùng liên quan đến những thay đổi chính sách xuất khẩu nông sản , phát hiện những vướng mắc, bất cập của các chính sách khi triển khai thực hiện, chuẩn bị và giúp Chính phủ giải quyết những thay đổi chính sách cần thiết… Nhà nước nên tham khảo kinh nghiệm của một số nước: Theo đó, Nhà nước ban hành một hệ thống thống nhất tiêu chuẩn hàng nông sản xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế, đưa ra dấu chất lượng cấp nhà nước để bảo hành cho những sản phẩm thương hiệu quốc gia có chất lượng cao nhất, đồng thời ban hành luật cấm xuất khẩu những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã quy định. Để những biện pháp này được thực thi tốt, Nhà nước nên có chính sách thu hút cho phép các công ty tư nhân đầu tư xây dựng các trung tâm kiểm tra chất lượng nông sản xuất khẩu. Có nhiều chính sách thu hút vốn từ các nước trên thế giới nhất là các nước phát triển đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ các nông sản xuất khẩu: Các doanh nghiệp của Việt Nam có thể liên doanh “tay ba” với doanh nghiệp các nước phát triển như Mỹ, EU. Liên doanh với các doanh nghiệp của EU chúng ta có thể tránh được các tiêu chuẩn khắt khe khi xuất và thị trường này. Khi mà có đối tác Mỹ làm chủ một phần doanh nghiệp của mình, họ sẽ giúp chúng ta không phải vấp phải những biện pháp tự vệ không công bằng. Cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ chính sách để khai thác hết ưu điểm của chúng nhằm khắc phục những hệ quả bất lợi cho xuất khẩu nông sản do chính sách khác gây ra Gấp rút đào tạo, đào tạo lại, có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ, công nhân viên, chuyên gia tham gia tham mưu, tư vấn cho Nhà nước về chính sách xuất khẩu nông sản… Phần tiếp theo của bài nghiên cứu này xin phân tích, định hướng cho một số chính sách mang tính then chốt tới hoạt động xuất khẩu nông sản. Nếu thực hiện tốt các chính sách này thì có thể nói các vướng mắc cơ bản của hoạt động xuất khẩu nông sản sẽ được tháo gỡ. 3.2.1. Xác định sản phẩm chiến lược: Như đã phân tích thì hiện nay chúng ta chỉ bán những gì chúng ta có mà chưa bán những sản phẩm mà thị trường cần trong điều kiện chúng ta có thể đáp ứng. Đã đến lúc chúng ta cần xác định chúng ta có thể cạnh tranh ở những mặt hàng nào để tập trung vốn, nguồn lực và những sản phẩm nào có thể chết ngay trên sân nhà để định hướng cho người dân sản xuất. Một số sản phẩm được đánh giá là rất ít tính cạnh tranh: mía đường, bông, cây có dầu, sữa bò, gà…Minh chứng cho điều đó, chẳng hạn, giá thành mía nguyên liệu cho 1 tấn đường của ta hiện cao hơn 40% so với Ấn Độ, 48,8% so với Thái Lan và gấp 1,6 lần so với mía nguyên liệu ở Australia. Vậy thử hỏi rằng khi mà thuế đường nhập khẩu giảm mà chúng ta không được phép áp dụng các biện pháp bảo hộ thì bằng cách gì đường của Việt Nam tồn tại ngay cả trong thị trường nội địa chưa nói gì đến xuất khẩu. Hay một con bò ở châu Âu được trợ cấp tới 2,63 USD/ngày hơn cả mức thu nhập bình quân của một người nông dân Việt Nam. Hiện nay vấn đề trợ cấp nông nghiệp của các nước phát triển vẫn chưa được giải quyết trong vòng đàm phán Đôha. Vậy khi thị trường sữa bò mở cửa thì những con bò Việt Nam khó cạnh tranh được những con bò “ăn thịt người” ở châu Âu, Mỹ. Tuy vậy vẫn có nhiều mặt hàng Việt Nam có tiềm năng mà chưa khai thác hết: trái cây, hoa tươi, rau…Chúng ta biết rằng rau hoa quả là mặt hành nông sản lớn nhất của sân chơi WTO, trị giá gần 103 tỷ USD. Thị trường về lúa gạo, cà phê, cao su nhỏ hơn; mỗi thứ không quá 10 tỷ USD/năm. Các loại nông sản khác như chè, điều và hồ tiêu lại càng nhỏ; trên dưới 3 tỷ USD/năm. Theo số liệu thống kê thì các nông sản xuất khẩu chủ lực của chúng ta lại là lúa gạo, cà phê, cao su. Trong khi đó rau quả thì chỉ xuất khẩu với giá trị khiêm tốn 226 tr USD (năm 2006). Việt Nam rất có tiềm năng về mặt hàng rau quả do khí hậu phong phú có nơi cung cấp được rau, hoa quả ôn đới như Sapa, Đà Lạt, rau quả nhiệt đới ở Đông Nam Bộ…Thế nhưng mãi đến năm 2005 ta vẫn còn sử dụng hơn 7 tr ha đất để trồng lúa. Chỉ có gần 1 tr ha để trồng dừa, cao su, trà, cà phê và 1,4 tr ha trồng trái cây, rau quả và hoa. Đây là sự phát triển không cân đối vì rõ ràng lúa đã trở nên độc canh, chiếm tới 74% diện tích canh tác của cả nước, trong khi trái cây, rau quả và hoa có thị trường xuất khẩu lớn gấp 10 lần thì lại ít phát triển, chỉ chiếm có 15%.( Nguồn Thuonghieunongsan.org.vn) Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt vốn và nguồn lực của chúng ta ít thì vận xác định tập trung sức vào đâu là một bước đi chính xác. Thậm chí gần đây còn có ý kiến bình luận về việc chúng ta hầu như chỉ xuất khẩu gạo cho rằng: “liệu rằng trong điều kiện hội nhập vấn đề an ninh lương thực có cần thiết phải bàn đến”. 3.2.2. Thực hiện chính sách ruộng đất hợp lý trong điều kiện gia nhập WTO: Để có những cánh đồng đạt 50 tr/ha/năm thậm chí 100 tr/ha/năm, để xuất khẩu với một số lượng hàng lớn, ổn định chúng ta cần có những vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn. Để có vùng sản xuất tập trung, trang trại lớn không còn cách nào khác là phải dồn điền đổi thửa. Thực ra chính sách dồn điền đổi thửa không phải là một chính sách mới tinh. Nó đã được triển khai ở một số nơi. Gần đây khi mà tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ thì nó lại gây được sự quan tâm chú ý của dư luận. Xung quanh chính sách này còn khá nhiều băn khoăn, tranh luận. Thực chất những băn khoăn đó bắt nguồn từ đâu?. Làm gì để tháo gỡ các thắc mắc đó? Trả lời câu hỏi đó trước hết chúng ta cùng quay lại lịch sử 20 năm trước để cùng xem xét một chính sách cải cách ruộng đất mà tốn không biết bao giấy mực thời đó, đó là chính sách “khoán 10”. 3.2.2.1. Những kinh nghiệm từ chính sách khoán 10: Chính sách này khởi nguồn từ tỉnh Vĩnh Phúc. Trăn trở với cuộc sống của người nông dân vất vả mà vẫn đói ăn, ông Kim Ngọc –bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc lúc đó- đã đưa ra một chính sách rất táo bạo ở thời đó “khoán sản phẩm nông nghiệp”. Khoán sản phẩm trong nông nghiệp có nghĩa là giao đất cho nhân dân, người dân thực sự làm chủ trên mảnh đất của mình. Thời gian đầu chính sách này được áp dụng dưới hình thức bí mật, thấy được hiệu quả rõ rệt của nó tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành triển khai rộng khắp. Ngay lập tức có những thông tin phản hồi đa chiều. Có nhiều người khen, nhiều nơi áp dụng theo. Song cũng có người nghi ngờ, suy xét thậm chí ông Kim Ngọc còn bị phê bình. “Khoán 10”- 20 năm nay đã trở thành một động lực tạo nên một bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp. Lao động tập thể có vị trí cực kỳ quan trọng trong khắc phục thiên tai nhưng phương thức sản xuất tập thể theo kiểu “mặt trời lên quá ngọn tre mới ra đồng xếp hàng lao động” thì hiệu quả sẽ thấp bởi không phù hợp quy luật phát triển năng suất lao động khi được phân công hợp lý. Ngoài ra, nó cũng chẳng phù hợp lòng người khi hưởng thụ thành quả của lao động như nhau trong lúc, lại rất khác nhau về cường độ lẫn chất lượng lao động của từng cá thể. Không hề cường điệu khi nói nếu không có “khoán 10” thì may lắm chúng ta chỉ có thể tự túc được lương thực nói gì đến dư thừa để xuất khẩu. Rõ ràng khi đất là của mình, người nông dân đã đi theo con đường duy nhất đúng là thâm canh trên cơ sở phát huy cao độ phì nhiêu của một đám đất cụ thể để thu được năng suất cao tính bằng giá trị chứ không câu nệ về những con số tấn, tạ. Đó chính là tư duy mới của thời “ăn không đủ no, co không đủ ẩm”. Hôm nay, Việt Nam đã ra biển lớn thì tư duy về ruộng đất cũng cần có cái mới. Cái cũ là người dân vẫn làm chủ ruộng đất của mình. Cái mới là gom góp những mảnh ruộng lẻ tẻ theo kiểu mỗi nhà có một ít ruộng tốt, một ít ruộng xấu lại thành một mảnh đất lớn. 3.2.2 .2. Cơ sở của việc thực hiện tích tụ ruộng đất: Một là, nông sản lưu thông trên thị trường phải là nông sản chiến lược, nhiều nước cần nhưng không sản xuất được hoặc sản xuất được với giá thành cao hơn chúng ta. Loại nông sản chiến lược ấy có thể chung cho cả nước, có thể đặc trưng cho từng vùng sinh thái. Hai là, nông sản ấy phải có chất lượng cao về giá trị dinh dưỡng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35854.doc
Tài liệu liên quan