Xuất phát từ tinh thần của Nghị quyết Đại Hội Đảng IX và X đã xác định “Áp
dụng thuế thu nhập cá nhân thốngnhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm
công bằng xã hội và tạo động lực phát triển”và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế
theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ Điều chỉnh chính sách thuế theo
hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu,điều tiết hợp lý thu nhập”. Thực
hiện các Nghị quyết này, Chính phủ có Quyết định số 201/QĐ-TTg triển khai thực hiện
chiến lược cải cách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra việc ban hành Luật
thuế TNCN còn xuất phát từ những sự cần thiết sau:
- Thực hiện thuế thu nhập cá nhân góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân
phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5822 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
00 -
15.000 4.200 1.000
25.000 7.000 3.000
40.000 11.200 7.500
70.000 19.600 19.500
100.000 28.000 31.500
150.000 42.000 51.500
200.000 56.000 71.500
42
Hình 2.3: So sánh mức động viên của thuế TNCN và TNDN
Đơn vị tính: 1.000 đồng
So sánh mức động viên của thuế TNCN và TNDN
-
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
- 50,000 100,000 150,000 200,000 250,000
Thu nhập chịu thuế
So
á t
hu
th
ue
á
Thu theo thuế TNCN Thu theo thuế TNDN (28%)
Nhìn vào bảng (2.5) và hình (2.3) trên, ta thấy với mức thu nhập chịu thuế đến
70.000.000 đồng thì thuế TNCN có mức động viên thấp hơn thuế TNDN, và với mức thu
nhập chịu thuế trên 70.000.000 đồng thì thuế TNCN có mức động viên cao hơn thuế
TNDN.
Thứ ba, nghĩa vụ nộp thuế còn khá cao, chưa công bằng giữa các loại thu nhập và
đối tượng nộp thuế. Mức thuế suất luỹ tiến cao nhất của thuế TNĐVNCTNC hiện hành ở
nước ta (40%) còn cao so với các nước trong khu vực. Điều này có thể gây ảnh hưởng
đến môi trường đầu tư, đặc biệt là việc thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực có
trình độ kỹ thuật và quản lý cao từ nước ngoài. Thuế suất thuế TNĐVNCTNC hiện hành
được quy định từ 10% - 40% trên thu nhập chịu thuế. Trong khi đó thuế suất thuế TNDN
được quy định thống nhất 28% trên thu nhập chịu thuế, thuế suất thuế chuyển quyền sử
dụng đất là 2% đối với đất nông nghiệp và 4% đối với đất ở và các loại đất khác tính trên
doanh thu chuyển quyền sử dụng đất. Các chính sách thuế này cũng có các quy định khác
nhau về phạm vi, đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, các khoản khấu trừ, miễn
giảm... Điều này dẫn đến tỷ lệ động viên thuế còn chưa công bằng giữa các loại thu nhập
43
chịu thuế khác nhau.
Ví dụ: Với mức thu nhập chụi thuế 759,359 triệu đồng trong năm 2004, ca sĩ Mỹ
Tâm phải nộp thuế TNĐVNCTNC là 286,72 triệu đồng (37,7% tổng thu nhập). Tuy
nhiên nếu Mỹ Tâm thành lập Công ty, số thuế Thu nhập doanh nghiệp phải nộp chỉ
212,62 triệu đồng (28% thu nhập), vậy số thuế phải nộp theo Pháp lệnh thuế
TNĐVNCTNC cao hơn 34,85% so với Luật thuế TNDN, đó là chưa kể được trừ các
khoản chi phí hợp lý trước khi tính thuế TNDN nên số thuế nộp còn thấp hơn.
Thứ tư, về việc khấu trừ 25% thu nhập trước khi xác định thu nhập chịu thuế đối
với một số trường hợp đặc thù: ca sỹ, nghệ sỹ xiếc, múa, cầu thủ bóng đá, vận động viên
chuyên nghiệp. Qui định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng nêu trên
duy trì nghề nghiệp bình thường của họ. Tuy nhiên trong thực tế không ít những vướng
mắc khác nhau khi thực hiện qui định này bởi lẽ việc phân định rạch ròi các đối tượng
thuộc diện khấu trừ 25% thu nhập là rất khó. Chẳng hạn: có những ca sỹ vừa tham gia
biểu diễn, vừa sáng tác nhạc hoặc ngược lại thì việc tính thuế thu nhập cá nhân của họ ra
sao, xác định tiêu chuẩn như thế nào để được coi là vận động viên chuyên nghiệp… Hơn
nữa, trong nền kinh tế thị trường một người nay làm việc này, mai làm việc khác là bình
thường.
Thứ năm, theo quy định của chính sách thuế TNĐVNCTNC hiện hành, cấu trúc
bậc thuế còn có sự phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài; cá nhân khác
định cư tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài. Đối với
người Việt Nam và cá nhân khác định cư tại Việt Nam có thu nhập từø 5 triệu đồng/tháng
trở lên chịu mức thuế 10% và thu nhập trên 40 triệu đồng/tháng trở lên chịu mức thuế
40%; còn người nước ngoài và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài có
thu nhập 8 triệu đồng/tháng trở lên mới chịu mức thuế suất 10% và thu nhập trên 80 triệu
đồng/tháng chịu mức thuế 40%. Quy định này không phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra
sự bất bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế cũng như môi trường kinh doanh trước yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ví dụ: Hiện nay, các doanh nghiệp nước ngoài thường trả lương cho người lao
động theo mức thu nhập sau thuế. Sự lựa chọn có lợi nhất cho Công ty này là tuyển người
nước ngoài thay vì tuyển người Việt Nam (vì tiền nộp thuế thay cho người Việt Nam cao
44
hơn người nước ngoài) cho dù trình độ, năng lực có thể tương đương nhau. Điều này hạn
chế sử dụng nguồn nhân lực trong nước có trình độ chuyên môn và tay nghề cao trong khi
khu vực nhà nước chưa đủ sức thu hút đội ngũ này. Điều này được thể hiện qua bảng
minh họa sau:
Bảng 2.6: So sánh mức huy động của thuế TNCN giữa đối tượng là người Việt
Nam và đối tượng là người Nước ngoài.
Đơn vị tính: 1.000 đồng.
Thu nhập sau
thuế của người
lao động
Cơ quan chi trả thu
nhập nộp thuế TNCN
thay cho người Việt
Nam
Cơ quan chi trả thu
nhập nộp thuế TNCN
thay cho người Nước
ngoài
Số chêch lệch
(1) (2) (3) (4) = (2) - (3)
10.000 555,56 222,22 333
20.000 2.500,00 1.500,00 1.000
30.000 6.428,57 4.000,00 2.429
50.000 19.166,67 10.285,71 8.881
63.800 28.366,67 16.200,00 12.167
70.000 32.500,00 20.333,33 12.167
100.000 52.500,00 40.333,33 12.167
150.000 85.833,33 73.666,67 12.167
Thứ sáu, tính lũy tiến trong biểu thuế chưa hợp lý nên đã hạn chế vai trò điều tiết
kinh tế của thuế TNCN. Trong biểu thuế chênh lệch giữa mức thu nhập chịu thuế tối đa
và mức thu nhập chịu thuế tối thiểu là không lớn, xét biểu thuế áp dụng đối với người
Việt Nam và cá nhân khác định cư ở Việt Nam thì mức chênh lệch về thu nhập chịu thuế
giữa bậc thấp nhất là 5.000.000 đồng và bậc cao nhất là 40.000.000 đồng là 8 lần, còn
biểu thuế áp dụng đối với người nước ngoài và cá nhân Việt Nam làm việc, công tác ớ
nước ngoài thì mức chênh lệch về thu nhập chịu thuế giữa bậc thấp nhất là 8.000.000
đồng và bậc cao nhất là 80.000.000 đồng là 10 lần. Điều này dẫn đến mức độ điều tiết
45
về thuế tăng nhanh trong khi mức độ tăng thu nhập không lớn. So sánh với biểu thuế của
các nước thường có mức chênh lệch trên 20 lần, dẫn chứng như Thái Lan đến 80 lần (
mức thu nhập thấp nhất chịu thuế là 50.000 bath và cao nhất là 4.000.000 bath), Trung
Quốc đến 200 lần ( mức thu nhập thấp nhất chịu thuế là 500 RMB và cao nhất là 100.000
RMB)… Sự chênh lệch quá ít giữa các bậc thuế như hiện nay thể hiện mức độ lũy tiến cao
làm cho mức đóng thuế tăng rất nhanh. Với tốc độ đó, sự giao động trong biểu thuế lũy
tiến sẽ rất lớn khi thực hiện chuyển bậc. Rõ ràng, khi mức giao động thuế tăng quá nhanh
so với mức thu nhập sẽ không kích thích động lực tăng thu nhập của cá nhân.
Thứ bảy, chính sách thuế hiện hành chưa quy định các khoản chiết giảm gia cảnh
một cách hợp lý và có hệ thống để đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ nộp thuế giữa
các cá nhân có hoàn cảnh gia đình khác nhau. Mức khởi điểm chịu thuế ngày nay được
xem như là phần chiết giảm gia cảnh của cá nhân nộp thuế, tuy nhiên mức khởi điểm này
được cào bằng cho tất cả các cá nhân. Vì vậy, tạo gánh nặng thuế không công bằng đối
với cá nhân độc thân và cá nhân có gia đình hay có người phụ thuộc khi họ phải chịu
chung một mức thu nhập chịu thuế.
Thứ tám, cơ chế quản lý thuế còn một số bất cập, chưa được cải cách kịp thời.
Trước hết là cơ chế kê khai thu nhập chưa được áp dụng rộng rãi để bổ sung cho cơ chế
khấu trừ tại nguồn. Hiện tượng trốn thuế, lậu thuế còn khá phổ biến đối với các cá nhân
có nhiều nguồn thu nhập, cá nhân hành nghề tự do (ca sỹ, nghệ sỹ, người cung cấp các
dịch vụ tư vấn độc lập…). Thực tế hiện nay cho thấy chế độ sử dụng và lưu giữ hoá đơn,
chứng từ, sổ sách kế toán còn chưa được áp dụng rộng rãi, minh bạch và công khai ở cấp
độ cá nhân, hộ kinh doanh. Mặc dù thực tế có quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan
thuế, người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan, nhưng trên thực tế phát sinh
nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan thuế, đặc biệt là vấn đề xác định thu
nhập, quyền định đoạt tài sản, thu hồi giấy phép kinh doanh trong trường hợp có hành vi
vi phạm pháp luật về thuế, các quy định về khiếu nại, tố cáo. Do đó, trên thực tế, chính
sách thuế đối với thu nhập của cá nhân hiện hành nhìn chung còn chưa phát huy được vai
trò vốn có của nó trong việc tham gia quản lý và kiểm soát thu nhập của các cá nhân
trong xã hội.
Thứ chín, tên gọi thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là không chuẩn xác
46
vì giữa thu nhập cao và thu nhập thấp không có ranh giới rõ ràng. Quan niệm thu nhập
nhập cao chỉ mang tính chất tương đối và phụ thuộc vào từng giai đoạn, có thể giai đọan
này cao nhưng thấp ở giai đoạn sau. Hơn nữa khái niệm “thu nhập” theo Pháp lệnh là thu
nhập gộp chứ chưa phải là thu nhập ròng, chưa xét đến hoàn cảnh cụ thể của đối tượng
nộp thuế.
Thứ mười, hiệu quả quản lý thuế còn yếu, chưa có qui định cụ thể về thuế khấu
trừ tại nguồn, cơ quan thuế chưa thực hiện quyết toán thuế cho từng đối tượng nộp thuế,
còn rất nhiều trường hợp trốn thuế, lách thuế… Chính vì vậy, về mặt lâu dài phải phát
triển mạnh các hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội cũng như các qui
định bắt buộc về thanh toán thu nhập theo hướng chủ động, áp dụng công nghệ hiện đại
và xã hội hóa. Đồng thời với việc sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại thì việc kiểm
soát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, phạm vi hoạt động cũng như qui định về cơ chế
phân chia tài chính, phân chia thu nhập, hạch toán… được xem như biện pháp không
những góp phần quản lý tốt thuế thu nhập cá nhân mà còn làm lành mạnh các quá trình
hoạt động, đảm bảo công bằng giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
2.4 Kết luận chương 2
Nội dung chương 2 tập trung vào hai vấn đề chính.
Một là, nêu lên một số nội dung cơ bản của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao hiện đang áp dụng tại Việt Nam.
Hai là, đánh giá thực trạng việc áp dụng chính sách thuế TNĐVNCTNC ở nước ta
qua 15 năm thực hiện. Qua đó, có thể khẳng định sự thành công của Nhà nước trong việc
thực thi chính sách thuế TNĐVNCTNC. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế mà
nguyên nhân chính bao trùm là chính sách thuế chưa đồng bộ, chưa thống nhất đối với
các nguồn thu nhập, còn phân biệt đối xử đối với các đối tượng nộp thuế, hiệu lực thi
hành chưa cao, thất thu thuế còn phổ biến… Cần phải tiếp tục xây dựng các giải pháp
hoàn thiện chính sách thuế TNĐVNCTNC để góp phần thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới.
47
CHƯƠNG 3:
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM
3.1 Sự cần thiết ban hành Luật thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam
Xuất phát từ tinh thần của Nghị quyết Đại Hội Đảng IX và X đã xác định “Áp
dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm
công bằng xã hội và tạo động lực phát triển” và “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế
theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ … Điều chỉnh chính sách thuế theo
hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Thực
hiện các Nghị quyết này, Chính phủ có Quyết định số 201/QĐ-TTg triển khai thực hiện
chiến lược cải cách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra việc ban hành Luật
thuế TNCN còn xuất phát từ những sự cần thiết sau:
- Thực hiện thuế thu nhập cá nhân góp phần tăng cường công tác kiểm soát, phân
phối thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế – xã hội.
+ Thuế thu nhập cá nhân động viên trực tiếp vào thu nhập cá nhân, thể hiện rõ
nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc “lợi ích”,
“công bằng”, và “khả năng nộp thuế”. Theo nguyên tắc lợi ích thì mọi người trong xã hội
đều được hưởng những thành quả phát triển của đất nước về luật pháp thể chế, cơ sở hạ
tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,… đồng thời cũng có nghĩa vụ đóng góp một phần thu
nhập của mình cho xã hội thông qua việc nộp thuế. Nguyên tắc “công bằng” và “khả
năng nộp thuế” thể hiện ở chỗ: người có thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người
có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn, mỗi cá nhân
dù có thu nhập từ các nguồn khác nhau đều được điều chỉnh thống nhất trong một chính
sách thuế; người có thu nhập thấp chưa phải nộp thuế.
+ Bên cạnh đó, trong thời gian qua ở nước ta, cùng với sự phát triển của kinh tế,
thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên, nhưng khoảng cách chênh lệch thu nhập
giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng
ngày càng tăng (trong thời gian từ 1993 đến 2004, khoảng cách này đã tăng lên từ 3,7 lần
lên đến 13,5 lần). Như vậy, việc áp dụng thuế TNCN sẽ góp phần đảm bảo tính hợp lý,
48
công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế và hạn chế sự gia tăng khoảng cách
chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Đồng thời với việc thực hiện Luật thuế
này, Nhà nước sẽ nắm được thông tin về TNCN, thông qua đó vừa thực hiện động viên
nguồn lực, vừa góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
- Ban hành thuế TNCN nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
+ Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực tiến tới toàn cầu hoá kinh tế là
tất yếu khách quan, tạo cơ hội thuận lợi cho nước ta tập trung vào phát triển mọi mặt kinh
tế, làm cho nền kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, có cơ hội
thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình. Ngược lại, xu
hướng hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực, tiến tới toàn cầu hoá kinh tế sẽ làm tăng
sức ép cạnh tranh giữa các nước. Sự cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia và các tầng
lớp dân cư trong một quốc gia ngày càng tăng, phân phối của cải xã hội sẽ có nguy cơ tập
trung và bị chi phối mạnh bởi các thế lực kinh tế. Tình trạng bất bình đẳng trong phân
phối ở nhiều cấp độ là vấn đề lớn đặt ra trước vai trò và nhiệm vụ của một nhà nước.
Đây là thách thức lớn trong tiến trình cải cách thuế vừa đạt được mục tiêu công bằng,
vừa đạt được mục tiêu hiệu quả.
+ Mở rộng hội nhập quốc tế một mặt tạo ra nhiều cơ hội, một mặt đặt ra những
thách thức lớn đối với nền kinh tế: nguồn thu từ thuế nhập khẩu sẽ giảm dần do phải cắt
giảm thuế quan theo hiệp định tham gia vào khối thị trường tự do Asean và tổ chức
thương mại thế giới WTO. Bên cạnh đó, thị trường nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt của thị trường ngoại nhập làm cho các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ
phá sản, giá cả hàng hoá thấp, tiêu thụ ứ đọng. Nguy cơ này sẽ làm giảm các khoản thu
từ thị trường nội địa. Sự suy giảm nguồn thu này sẽ phải được bù đắp bằng các nguồn thu
khác. Gánh nặng này phần nhiều hướng vào khả năng tăng tỷ trọng huy động từ các loại
thuế tiêu dùng nội địa, thuế thu nhập và thuế tài sản ở những mức độ hợp lý.
+ Sự hiện diện này ngày càng rõ nét của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập
quốc tế sẽ làm cho các mối quan hệ kinh tế ngày càng trở nên phức tạp và khó khăn
nhận dạng hơn những mối quan hệ truyền thống. Thực tế này sẽ đặt ra những vấn đề hóc
búa đối với công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thu thuế nói riêng. Đây cũng
49
là một thách thức nữa đối với công tác hoạch định chính sách thuế vì vừa phải thực hiện
yêu cầu đơn giản, dễ hiểu lại vừa phải đảm bảo bao quát nguồn thu và tính chất điển
hình trong nội hàm chính sách.
Chính quá trình hội nhập kinh tế quốc ngày càng sâu rộng đã tạo ra cơ hội đồng
thời cũng tạo ra những áp lực đối với cải thuế ở nước ta, trong đó có thuế TNCN. Vì vậy,
việc xây dựng Luật thuế TNCN của nước ta thay thế cho Pháp lệnh thuế TNĐVNCTNC
là tất yếu khách quan, chính sách thuế trong tương lai cần phải xây dựng sao cho vừa phù
hợp với tiến trình hội nhập, phải đảm bảo bao quát các nguồn thu, tạo nguồn thu chính
cho NSNN, đồng thời thực hiện công bằng xã hội, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính ổn định nguồn lực cho ngân sách
nhà nước. Như phân tích ở trên, nguồn thu từ thuế nhập khẩu chắc chắn sẽ giảm dần theo
lộ trình cắt giảm thuế quan, nguồn thu của nhà nước sẽ phải bù đắp bởi các chính sách
thuế nội địa trong đó có thuế TNCN. Hơn nữa nền kinh tế nước ta đang trên đà tăng
trưởng cao, thu nhập quốc dân ngày càng cải thiện, sắc thuế này sẽ mang lại nguồn thu
ổn định cho ngân sách nhà nước.
3.2 Quan điểm, mục tiêu xây dựng Luật thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam
Luật thuế thu nhập cá nhân phải thực hiện theo quan điểm sau:
- Xây dựng môi trường pháp lý thống nhất về thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối
với mọi đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc quy định mức thu phù
hợp với cấu trúc phân bố thu nhập và mức thu nhập của các tầng lớp dân cư, đảm bảo
yêu cầu động viên nguồn thu cho NSNN, điều tiết thu nhập một cách hợp lý, khuyến
khích mọi cá nhân ra sức lao động, sản xuất kinh doanh, gia tăng thu nhập làm giàu hợp
pháp và tránh gây ra tác động tiêu cực đến nỗ lực lao động của các tầng lớp dân cư.
- Bảo đảm công bằng xã hội thông qua việc quy định đối tượng chịu thuế bao quát
mọi khoản thu nhập và mọi cá nhân có thu nhập kết hợp với việc quy định các khoản
khấu trừ, miễn giảm một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước.
- Phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và thông lệ quốc tế cũng như
các cam kết quốc tế và Việt Nam đã ký kết, tham gia; kế thừa có chọn lọc những quy
50
định trong chính sách thuế TNĐVNCTNC hiện hành, qua đó đảm bảo phát huy vai trò
thuế TNCN đối với nền kinh tế - xã hội cũng như góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng nộp thuế thông qua các quy định đơn
giản, dễ hiểu, dễ áp dụng về kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế với những biện pháp
khuyến khích hợp lý nhằm tiết kiệm thời gian và giảm chi phí cho đối tượng nộp.
- Góp phần thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế
thông qua việc đa dạng hóa các phương pháp kê khai, nộp thuế với các giải pháp phù
hợp với từng loại thu nhập nhằm nâng cao hiệu quả và tiết kiệm chi phí quản lý thu thuế.
Luật thuế Thu nhập cá nhân phải đảm bảo các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Đảm bảo huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước, góp phần cải cách cơ cấu
nguồn thu ngân sách, đảm bảo tính cân đối, ổn định lâu dài.
- Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, tạo điều
kiện cho người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với đất nước, góp phần hạn
chế khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế
là một trong những yêu cầu cơ bản của Luật thuế Thu nhập cá nhân ở nước ta trong thời
gian tới. Đối với một nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, yêu cầu cải cách hành chính
và hiện đại hóa công tác quản lý thuế đang đặt ra như là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp
bách của ngành tài chính nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế và tránh những
tác động ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
- Luật thuế TNCN phải đảm bảo tính đơn giản, minh bạch, rõ ràng trong quy trình
thủ tục kê khai, nộp thuế và quản lý hành chính thuế, từng bước áp dụng công nghệ
thông tin hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế; qua
đó cũng góp phần thúc đẩy quá trình cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản
lý thu thuế. Đây cũng là những yêu cầu cơ bản của quá trình quốc tế hóa hệ thống chính
sách thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay và trong những năm tới.
51
3.3 Giải pháp xây dựng chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam
3.3.1 Về đối tượng nộp thuế
Đưa đối tượng nộp thuế là cá nhân kinh doanh, chủ hộ gia đình sản xuất, kinh
doanh trong các lãnh vực, ngành nghề hiện đang được điều chỉnh bởi Luật thuế TNDN
vào đối tượng điều chỉnh của Luật thuế TNCN. Vì: các đối tượng trên không phải là
doanh nghiệp, hoạt động với qui mô nhỏ, vốn của cá nhân nên việc áp dụng thu thuế
theo Luật thuế TNDN là không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế, hơn nữa thuế
suất của hai luật thuế này (TNDN và TNCN) là không giống nhau sẽ không đảm bảo
công bằng trong nộp thuế đối với cá nhân kinh doanh và cá nhân làm công ăn lương. Cho
nên với xu thế hội nhập việc chuyển đối tượng hộ kinh doanh vào diện điều chỉnh của luật
thuế TNCN nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và thuận tiện cho việc so sánh chính
sách điều tiết thuế TNCN giữa các nước.
Vậy: Đối tượng nộp thuế là cá nhân người Việt Nam, người nước ngoài có thu
nhập chịu thuế, bao gồm cá nhân làm công ăn lương, tự hành nghề độc lập, cá nhân tự
kinh doanh, chủ hộ gia đình và người đại diện gia đình sản xuất, kinh doanh trong các
lãnh vực, ngành nghề.
3.3.2 Về đối tượng chịu thuế
3.3.2.1 Thu nhập thuộc diện chịu thuế
Về nguyên tắc, phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập cá nhân phải bao gồm toàn
bộ thu nhập từ mọi nguồn phát sinh trong năm tính thuế của cá nhân. Tuy nhiên, để xác
định chính xác thu nhập chịu thuế cần tiến hành phân loại thu nhập nhằm xem xét đặt
điểm của từng nguồn để có chính sách điều tiết hợp lý, cách phân chia dựa vào các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất của từng loại thu nhập. Mỗi loại thu nhập có tính
chất thu nhập khác nhau. Đánh thuế theo tính chất của từng loại thu nhập sẽ đảm bảo
công bằng về nghĩa vụ thuế.
Thứ hai, xem xét khả năng động viên đối với từng loại thu nhập.
Thứ ba, căn cứ vào khả năng quản lý các loại thu nhập. Dựa vào tiêu thức này có
thể nắm bắt được nguồn hình thành thu nhập và xem xét khả năng có thể động viên được
52
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 45356.pdf