MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 4
1.1. Khái niệm chứng cứ 4
1.2. Khái niệm về chứng minh 13
1.3. Một số nét về lịch sử hình thành các quy định và chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam 23
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH 28
2.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng minh 28
2.2. Trách nhiệm của Tòa án nhân dân 35
2.3. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ 47
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 51
3.1. Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 51
3.2. Thực tiễn xét xử 56
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện 67
KẾT LUẬN 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7898 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í mật Nhà nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư... mà pháp luật quy định đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ không giao nộp không được coi là căn cứ để xét xử bất lợi cho họ. Trong trường hợp này, dù đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án. Do vậy không lưu trong hồ sơ chứng cứ này, các đương sự khác không được biết cụ thể chứng cứ này nhưng để việc xét xử đúng đắn phải cho thẩm phán xét xử vụ án biết được nội dung của chứng cứ đó.
Trước đây, pháp luật không có quy định cụ thể việc thu thập chứng cứ, nên khi đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ cho tòa án, các thẩm phán đưa vào trong hồ sơ và không thể hiện rõ tài liệu hồ sơ đó từ đâu đến; do ai thu thập, do ai nộp... Từ đó mà đã gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá các tài liệu đó, có tài liệu đã bị thất lạc mà không biết... Chính vì vậy tại khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã quy định rõ trách nhiệm của Tòa án khi tiếp nhận chứng cứ; khi đương sự giao nộp chứng cứ. Tòa án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số hàng của tài liệu chứa đựng chứng cứ, thời gian nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp; ký nhận và đóng dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành 02 bản, một bản giao cho đương sự, một bản lưu giữ trong hồ sơ vụ việc dân sự. Sở dĩ việc giao nộp chứng cứ phải làm theo đủ thủ tục nêu trên là nhằm không bị đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc hành vi thủ tiêu chứng cớ... Đồng thời, nó đảm bảo giá trị pháp lý trong quá trình sử dụng. Thực tế, do thói quen áp dụng pháp luật cũ trước đây, trong một số vụ án cụ thể Tòa án đã quên viết biên bản giao nộp chứng cứ, còn yêu cầu đương sự đã cung cấp chứng cứ gốc, giả sử chẳng may Hồ sơ án bị mất cắp, bị hỏa hoạn thì quyền của đương sự coi như mất hết, ví dụ như tài liệu đất đai có giá trị tranh chấp rất lớn thì gây tổn thất cho đương sự là quá lớn, tòa không có cách khắc phục được. Chính vì vậy, tòa phải có nhiệm vụ làm biên bản; nên chỉ yêu cầu đương sự nộp bản phô tô, hoặc công chứng (đối chiếu với bản gốc để đương sự đưa bản gốc về) khi cần tòa yêu cầu đương sự cung cấp lại bản gốc. Có như vậy mới đảm bảo chắc chắn nhất để bảo vệ chứng cứ. Đương sự phải tìm hiểu để biết được một số quy định pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích của chính bản thân mình đồng thời góp phần bảo vệ pháp luật.
Trong quá trình thu thập chứng cứ để giao nộp cho tòa mà đương sự không thể tự mình thu thập được; đương sự phải có văn bản đề nghị tòa án thu thập. Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ:
1. Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân và địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.
Ví dụ: Nếu biết bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản tranh chấp trong vụ án thì nguyên đơn có thể yêu cầu với tòa án; nhưng nguyên đơn phải chứng minh bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản đó. Nhưng thực tế cụ thể có trường hợp lại mang tính hình thức. Ví dụ trong vụ án ly hôn: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kiều Nga, sinh năm 1962 - bị đơn anh Văn Đức Hoàng, sinh năm 1965 trú tại Quỳnh Dị, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tài sản, con cái, tình cảm, nợ, cho nợ là những vấn đề quan tâm để đưa ra giải quyết. Chị Nga là nạn nhân của bạo hành trong gia đình (vũ lực và tinh thần) lấy nhau có hai con Văn Thu Hiền, sinh năm 1989, và Văn Thị Anh Dương, sinh năm 2003; khi sinh con gái út anh Hoàng thường xuyên đánh đập vợ, bài bạc, rượu chè, trai gái. Tài sản vợ chồng từ bàn tay trắng khi lấy nhau sau đó đã khấm khá. Thấy cảnh chồng đánh đập, dùng tài sản tích lũy đánh bạc. Chị Nga làm đơn xin ly hôn, được Tòa án nhân dân Quỳnh Lưu thụ lý; biết vợ nộp đơn ly hôn anh Hoàng đuổi vợ và con đi khỏi nhà, chị Nga phải đi nếu không bị đánh đập.
Trong thời gian chị Nga nộp đơn xin ly hôn đến khi đưa ra xét xử gần 05 tháng; thời gian này chị Nga đã làm đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản. Nhưng chị Nga không chứng minh được, Tòa án hướng dẫn chị Nga về nhà Công an xã giải quyết, nhưng công an xã đến lại bảo chỉ xử lý về an ninh còn kê biên tài sản không có thẩm quyền. Khi vụ án đưa ra xét xử tài sản trong nhà anh Hoàng đã tẩu tán gần hết (bởi trong các lần hòa giải, lấy lời khai anh Hoàng không thừa nhận). Đây là một thực tế tồn tại đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Nên chăng, nếu việc tranh chấp tại địa phương ở cách xa, Tòa án đương sự yêu cầu Tòa án bằng việc có công văn để tránh việc tẩu tán vật tranh chấp trong vụ kiện dân sự? thực tế xét xử còn nhiều vấn đề cần bàn.
* Trong vụ kiện dân sự, việc cung cấp chứng cứ giữa các đương sự hoàn toàn bình đẳng với nhau, bình đẳng ở đây được hiểu là:
Thứ nhất: Pháp luật tố tụng dân sự tạo các cơ hội như nhau cho các đương sự để các chứng cứ của các đương sự được đến với Tòa án. Thẩm phán hoặc bất kỳ cá nhân, cơ quan nào cũng không được cản trở các đương sự cung cấp chứng cứ hoặc không thu nhận các chứng cứ do các đương sự cung cấp dưới bất kỳ hình thức nào. Các đương sự có quyền đưa ra mọi chứng cứ theo ý chí của họ.
Thứ hai: Tất cả các hoạt động của Tòa án phải nhằm tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đương sự phải được hướng dẫn, giải thích từ phía Tòa án để biết các quy định pháp luật liên quan.
Khi làm đơn khởi kiện, việc cung cấp chứng cứ kèm theo là nghĩa vụ của nguyên đơn. Trước hết, nguyên đơn phải tự mình thu thập (hoặc đã có chứng cứ trong tay), chưa có mà không thể tự mình thu thập được thì trình báo cho Tòa án, phải có đơn đề nghị Tòa thu thập. Nguyên đơn phải xác định rõ nếu không cung cấp được, không thu thập được hoặc có chứng cứ không đầy đủ thì có thể bị bác bỏ quyền yêu cầu.
Về phía bị đơn, là người bị kiện, có quyền cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình trước tòa.
Phía bị đơn trong thực tế có thể nắm giữ một số tài sản, tài liệu là đối tượng tranh chấp, cần hợp tác với Tòa án để giải quyết đúng đắn vụ án. Bị đơn có quyền bác bỏ, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn nhưng phải chứng minh được.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, họ có nghĩa vụ thu thập, cung cấp, bảo vệ chứng cứ để giao nộp cho tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình. Ví dụ Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu là đối tượng tranh chấp không thuộc sở hữu của nguyên đơn hay bị đơn thì họ phải chứng minh, trong trường hợp này thì quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của họ cũng giống như quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn để chứng minh cho yêu cầu của mình. Hoặc họ không có yêu cầu độc lập, nếu đứng về một trong hai phía bị đơn, hay nguyên đơn thì họ cung cấp chứng cứ để làm sáng tỏ cho vụ án.
Đương sự có quyền được dùng mọi biện pháp chứng minh, có quyền đề xuất và xuất trình chứng cứ trong bất cứ giai đoạn nào. Đó có thể là giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ kiện và các vật chứa đựng chứng cứ phải được trực tiếp giao nộp cho tòa án. Trong quá trình cung cấp chứng cứ, đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết như xem xét tại chỗ, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan cung cấp tài liệu cần thiết, lấy lời khai, triệu tập thêm nhân chứng, đối chất để thu thập thêm chứng cứ, xác minh cho lời khái và những chứng cứ của mình hoặc để xác định lại giá trị chứng minh của chứng cứ mà phía bên kia cung cấp.
2.2. trách nhiệm của tòa án nhân dân
2.2.1. Xác định chứng cứ
Theo quy định tại Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ là phải được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; do đó, việc giao nộp chứng cứ và việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo đúng quy định tại các điều luật tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn (Nghị quyết 04...).
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn chuẩn bị chứng cứ để giúp tòa án có cơ sở giải quyết đúng đắn vụ kiện. Đây là giai đoạn tòa án kiểm tra lại toàn bộ các chứng cứ của vụ kiện đã có. Tại Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và NQ04/2005-NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về "chứng minh và chứng cứ" như sau:
* Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thầm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản sao được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp về thừa kế: bản di chúc phải là bản gốc, bản công chứng nếu đương sự xuất trình bản phô tô coi như không có căn cứ để chia thừa kế theo di chúc.
* Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, phim, ảnh... Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên, thì tài liệu nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp cho tòa không được coi là chứng cứ. Quy định này để tránh xảy ra việc cắt, chụp, sao chép, ghép hình giả dối - Ví dụ ông A cho ông B vay năm trăm triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng ông A lại ghi âm được toàn bộ nội dung thỏa thuận của hai bên về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền, thời điểm thanh toán. Đến hạn ông B không trả tiền, ông A làm đơn khởi kiện. Trường hợp này cùng với việc giao nộp băng ghi âm ông A phải gửi văn bản trình bày về việc liên quan tới việc thu âm đó.
Ví dụ: Anh C mượn anh D chiếc xe máy Future trong lúc anh D mượn xe của anh C có anh H đứng gần đó, tiện máy điện thoại di động (có chức năng quay ghi hình, âm) anh H quay luôn cảnh anh D mượn xe và hẹn chiều đưa lại trả. Do sơ suất anh D bị mất trộm xe; do điều kiện kinh tế không thể hoàn trả, nên anh D đã phủ nhận việc mượn xe. Anh C kiện anh D ra tòa nhờ có việc ghi hình của anh C và D trong việc mượn có đầy đủ lời nói hẹn trả của anh D. Trường hợp này anh C gửi kèm theo việc sao hình thì máy điện thoại. Cùng bản tường trình sự việc, có anh H ký và làm chứng.
* Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.
Ví dụ: Chiếc xe đạp bị xe ô tô cán hỏng, thì phải có chiếc xe đạp đó để xác định thiệt hại, chiếc xe giao nộp phải là chính chiếc xe bị ô tô cán hỏng.
Vật chứng được tòa án bảo quản trong suốt quá trình xem xét và giải quyết vụ kiện. Giá trị chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các vật đó (phân biệt với vật cùng loại. Nếu tòa án không bảo quản tốt để giữ gìn tính đặc định của vật thì vật chứng sẽ mất hết giá trị chứng minh. Khi được giao nộp các vật chứa đựng chứng cứ, tòa phải lập biên bản miêu tả chi tiết hình thức và các đặc tính chất lý hóa của vật.
* Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục nhờ có bản xác nhận xuất xứ của tài liệu này kèm theo về việc không trực tiếp khai báo cho tòa án.
Lời khai của đương sự thông thường gồm hai loại: Lời khai về những tình tiết, sự kiện pháp lý mà dựa vào đó các đương sự đề xuất, các yêu cầu được bảo vệ; lời thừa nhận của một bên đương sự - khẳng định có hay không có những sự kiện mà đáng ra phía đương sự bên kia phải chứng minh. Bởi có một số trường hợp vì một số áp lực làm lý nào đó dẫn đến việc thừa nhận không theo ý chí, không đúng sự thật khách quan của vụ án. Biết rằng tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự; tuy vậy, với trách nhiệm của mình - Tòa án nên làm rõ đánh giá lời thừa nhận đó.
Với người làm chứng là người biết được thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại không có quyền lợi trong vụ kiện đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện được yếu tố khách quan hơn. Mặc dù, trong lời khai của người làm chứng chứa đựng nhiều thông tin về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ kiện.
* Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Pháp luật Giám định tư pháp (ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua 29 tháng 9 năm 2004 - Hiệu lực ngày 01/01/2005) và Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp.
Sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được thể hiện bằng văn bản (có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi lời khai biên bản đối chất). Nếu thực hiện đầy đủ yêu cầu, quy định của pháp luật quy định khi đó kết luận giám định mới được coi là chứng cứ. Lưu ý kết luận giám định có chính xác - thật - giả?
* Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89, thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án phải báo trước cho đương sự việc xem xét thẩm định tại chỗ, phải lập thành văn bản và có đủ thành phần tham gia.
* Nếu đương sự viện dẫn chứng cứ là phong tục tập quán phải xác định rõ; tập quán nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận; nếu có đủ điều kiện thì tòa mới chấp nhận đó là chứng cứ để bảo vệ yêu cầu của đương sự.
Có thể hiểu phong tục tập quán là những thói quen đã được mọi người tuân thủ lại một địa phương trong một hoàn cảnh bắt buộc phải chấp nhận lề thói ấy như một phần luật pháp của địa phương. Hiện nay, tập quán vẫn tồn tại như một chuẩn mực xử sự trong các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình. Nó không chỉ tác động đến sinh hoạt đời thường mà còn ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ việc dân sự. Thực tế cho thấy, tòa án nhân dân ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa - trong hoạt động xét xử đã gặp nhiều tập quán, tục lệ cùng với các chứng cứ khác để chứng minh các "tình tiết" vụ án tranh chấp. Trong một số trường hợp thì phong tục - tập quán là chứng cứ chính để giải quyết vụ án.
2.2.2. Thu thập chứng cứ
Theo quy định tại khoản 2 điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự thì phải có hai điều kiện sau đây, tòa án mới tiến hành một hoặc một số biện pháp được quy định trong BLTTDS để thu thập chứng cứ thay cho đương sự, đó là:
- Đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ.
- Đương sự phải có đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Do đó, khi nhận được yêu cầu của đương sự, thẩm phán yêu cầu đương sự trình bày rõ việc đương sự tự thu thập chứng cứ ra sao, lý do tại sao không thể tự mình thu thập được chứng cứ và những biện pháp đương sự đã áp dụng mà vẫn không có kết quả. Trên cơ sở đó để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Nếu có cơ sở kết luận đương sự chưa tự mình chủ động thu thập chứng cứ, chưa áp dụng khả năng mà đương sự có thể thu thập chứng cứ, thì thẩm phán không chấp nhận yêu cầu của đương sự và thông báo cho đương sự biết. Việc thông báo đó phải bằng văn bản. Vấn đề thu thập chứng cứ của Tòa án cần phải đặt ra trên một số quan điểm sau:
ở nước ta, các quyền cơ bản của công dân được pháp luật quy định một cách tương đối đầy đủ và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng nhiều biện pháp có hiệu quả. Với tư cách là hình thức tồn tại của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng dân sự bằng các quy định cụ thể điều chỉnh các hành vi tố tụng của tòa án và những người tham gia tố tụng, buộc các chủ thể này phải thực hiện quyền và nghĩa vụ nhất định nhằm đạt được mục đích của việc xét xử là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Pháp luật tố tụng dân sự buộc đương sự có nghĩa vụ cung cấp, thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình tại tòa án, đây là quy định để bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trong quá trình tố tụng tòa án nhân dân phải chủ động trong việc tìm ra chân lý khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân xuất phát từ một số cơ sở sau:
Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng xét xử, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết lập lại trật tự các quan hệ nội dung bị vi phạm hay tranh chấp, bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp của công dân. Trong các vụ kiện, không phải đương sự nào cũng xác định đúng quyền lợi của mình và thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định cho họ. Trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được chứng cứ, mặc dù đã hết sức cố gắng thu thập nhưng vẫn không được mà có đơn yêu cầu thì tòa án nên chấp nhận để thu thập cho đương sự. Có thể một số vụ kiện cụ thể, tòa án không được máy móc cho rằng khi các đương sự chưa đưa ra đủ yêu cầu hay chưa cung cấp đủ các chứng cứ thì tòa án không giải quyết vụ kiện, tòa án có thể phải chủ động trong việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ kiện để giải quyết vụ kiện đúng đắn.
Trong thực tế, có những trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế mà đương sự không tự chứng minh được hoặc có nhưng việc mà đương sự không thể không nhờ đến sự can thiệp của Tòa án. Ví dụ: Đương sự không thể yêu cầu Sở Tài nguyên và môi trường, cơ quan lưu trữ, ủy ban nhân dân hay cơ quan hải quan cung cấp những văn bản, giấy tờ, tài liệu cần thiết; hay lấy lời khai, trưng cầu giám định, xem xét lại chỗ... Với vai trò là cơ quan bảo vệ, giữ gìn ổn định trật tự, kỷ cương, công lý xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân trong quá trình giải quyết vụ kiện, tòa án phải xem xét mọi chứng cứ mà các bên đương sự giao nộp. Tòa án phải biết rõ để giải quyết từng vụ việc dân sự cụ thể mà cần có những chứng cứ để chứng minh nào? Cần cài gì, cái gì thì không? Vì vậy, tòa án có trách nhiệm hướng dẫn các bên đương sự cung cấp chứng cứ, có nghĩa vụ xác minh chứng cứ mà các bên đưa ra. Khi giải quyết vụ kiện, nếu thấy cần thiết tòa án nên chủ động thu thập thêm chứng cứ để làm sáng tỏ tình tiết của vụ kiện, để hoàn thành thời hạn theo quy định của tố tụng dân sự và giải quyết đúng đắn vụ án.
Khi có đơn của đương sự yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ hoặc Tòa xét thấy cần phải thu thập thêm chứng cứ, Tòa án có thể áp dụng một trong các biện pháp sau đây:
* Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng tòa án muốn làm sáng tỏ được vụ kiện đương sự phải tiến hành lấy lời khai. Dù cho các bên đương sự đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự đã thừa nhận một trong các yêu cầu của phía đương sự bên kia thì tòa án cũng phải kiểm tra lại và làm rõ hơn. Khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung của bản khai chưa đầy đủ, thì thẩm phán yêu cầu đương sự phải tự viết bản khai hoặc bản khai bổ sung và ký tên của mình. Chỉ trong trường hợp đương sự không tự viết được, thì thẩm phán tự mình hoặc thư ký tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản, sau đó đọc lại cho họ nghe và ký tên hoặc điểm chỉ. Phải để cho đương sự sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai của họ. Biên bản trên cùng lời khai của tòa án phải có chữ ký của người được lấy lời khai, người ghi biên bản và đóng dấu của tòa án, nếu có nhiều trang thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Nếu biên bản lấy lời khai được lập ngoài trụ sở của Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập biên bản. Trường hợp lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ sáu (06) tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự; hoặc đương sự là người từ đủ sáu (06) tuổi đến chưa đủ mười lăm mười (15) thì phải tiến hành lấy lời khai với sự có mặt của người đại diện hợp pháp của đương sự đó.
Việc lấy lời khai của đương sự phải do thẩm phán tiến hành. Thư ký tòa án chỉ có thể giúp thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại tòa án. Chỉ trong trường hợp đương sự không thể đến tòa án vì những lý do khách quan, chính đáng như đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, bị ốm đau, bệnh tật... thì thẩm phán có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở tòa án. Ví dụ: Lấy lời khai của đương sự đang bị tạm giam phải được trại tạm giam bố trí... và sau đó xác nhận của Giám thị trại giam.
Lấy lời khai của người làm chứng, trong trường hợp đương sự có yêu cầu bằng văn bản lấy lời khai của người làm chứng thì tòa án tiến hành lấy lời khai của người làm chứng đó. Khi xét thấy cần thiết tuy đương sự không có yêu cầu, thẩm phán có thể tiến hành lấy lời khai của người làm chứng. Được coi là "cần thiết" nếu việc lấy lời khai của người làm chứng bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được toàn diện, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bởi lẽ, khác với các đương sự, người làm chứng biết được thông tin về vụ kiện nhưng lại không có quyền lợi trong vụ kiện đó nên lời khai của họ sẽ khách quan hơn. Thẩm phán phải lấy lời khai của người làm chứng tại trụ sở tòa án và thực hiện thủ tục lấy lời khai như các đương sự.
* Trưng cầu giám định.
Sự thỏa thuận của các bên đương sự hay có yêu cầu của một trong các bên đương sự yêu cầu tòa án trưng cầu giám định thì phải được thể hiện bằng văn bản. Thẩm phán muốn có quyết định yêu cầu cơ quan chuyên môn có chức năng giám định thì phải thực hiện đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng về giám định và căn bản liên quan. Ví dụ: Trong vụ án đòi nợ, trong giấy vay tiền ông A đã ký tên vào giấy vay, nhưng khi bị kiện ông A không chấp nhận chữ ký đó là của mình thì tòa hướng dẫn ông A làm đơn đề nghị tòa có quyết định giám định chữ ký tại cơ quan có thẩm quyền giám định tư pháp.
* Xem xét, thẩm định tại chỗ.
Khi đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét thấy có căn cứ, thì thẩm phán quyết định tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ; quyết định xem xét thẩm định tại chỗ phải được gửi cho ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định kèm theo văn bản đề nghị ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức cử đại diện tham gia việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Vào ngày, giờ đã quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ, nếu chưa có đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán liên hệ để họ có mặt. Trường hợp vắng mặt đại diện của ủy ban nhân dân hoặc cơ quan, tổ chức thì thẩm phán hoãn việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ phải được giao hoặc gửi cho đương sự để họ biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định tại chỗ. Tuy nhiên, nến có đương sự vắng mặt thì việc xem xét, thẩm định tại chỗ vẫn được tiến hành theo thủ tục chung.
* Việc ủy thác thu thập chứng cứ nếu xét thấy đối tượng tranh chấp, một trong các bên đương sự, ở xa nơi tòa án mình đang thụ lý giải quyết; hay các tài liệu… ở tại một địa phương quá xa thì thẩm phán có quyền ủy thác thu thập chứng cứ để tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác chấp nhận thu thập chứng cứ. Như trong trường hợp thu thập chứng cứ phải tiến hành ngoài lãnh thổ Việt Nam thì tòa án làm thu thư ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc cơ quan tiến hành tố tụng dân sự của nước ngoài mà nước đó và Việt Nam đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp hoặc cùng Việt Nam tham gia điều ước quốc tế có quy định về vấn đề này. Ví dụ: Chị A xin ly hôn anh B, A có nơi cư trú tại Hoàn Kiếm - Thành phố Hà Nội, B đang có nơi cư trú tại Bảo Lộc - Lâm Đồng, trong trường hợp này để lấy lời khai của B, tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm phải làm quyết định ủy thác Tư pháp cho tòa án Bảo Lộc điều tra, xác minh; trong quyết định ủy thác thu thập chứng cứ nơi có tài sản, hoặc sự việc liên quan tòa án Quận Hoàn Kiếm phải về sự việc cần làm (theo mẫu số 01e (ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 9 năm 2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao).
2.2.3. Bảo quản chứng cứ
Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo quản chứng cứ trong tố tụng dân sự nếu đã được giao nộp cho tòa, hay tòa thu thập được phải có trách nhiệm bảo quản chứng cứ đó. Trường hợp chứng cứ đang lưu giữ ở cá nhân, tổ chức thì người đó có trách nhiệm bảo quản. Trong trường hợp cần giao cho người thứ ba bảo quản thì thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về việc bảo quản chứng cứ đó.
Chứng cứ phải được bảo quản lâu dài không để bị mất, thất lạc hoặc giảm giá trị chứng minh. Chứng cứ có thể do đương sự hoặc tòa án lưu giữ. Trường hợp tòa án lưu giữ thì tòa cần có biện pháp lưu giữ cẩn thận, chu đáo; Bởi, khi giao nhận chứng cứ tại tòa, tòa án phải có biên bản giao nhận chứng cứ với các đương sự, nếu để mất, thất lạc, làm giảm hoặc mất giá trị chứng minh thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về tòa án dù dưới bất kỳ một nguyên nhân nào. Ví dụ trong vụ án tranh chấp về Hợp đồng vay tài sản; đương sự cung cấp cho tòa bản gốc hợp đồng vay, nếu tòa chẳng may để nước làm nhàu nát dẫn đến mất giá trị chứng minh, tòa án phải chịu trách nhiệm. Trong một số trường hợp đương sự giao nộp cho tòa được ghi vào biên bản giao nhận c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van.doc
- muc luc.doc