Luận văn Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: Một số vấn đề về dân tộc và miền núi ở nước ta 8

1.1. Dân tộc và miền núi trong sự nghiệp phát triển đất nước 8

1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ công tác tuyên truyền vấn đề dân tộc thiểu số và miền núi 13

Chương 2: Khảo sát chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 29

2.1. Những đặc điểm của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển 29

2.2.Về nội dung phản ánh chương trình 36

2.3. Về hình thức thể hiện chương trình 52

Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nâng cao chất lượng chương trình tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 66

3.1. Những ưu điểm và hạn chế của chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển 66

3.2. Kiến nghị và giải pháp 77

KẾT LUẬN 91

TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

PHỤ LỤC 98

 

 

 

doc102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới chương trình này, phóng viên đã đề cập đến việc triển khai thực hiện các công trình dân sinh miền núi tại một số địa phương nảy sinh nhiều bất cập, làm giảm hiệu quả mà mục tiêu các công trình đã đề ra, gây lãng phí nguồn vốn đầu tư. Đó là thực tế đáng báo động tại vùng cao một số tỉnh Nam Trung bộ. PS có đoạn: Nhiều địa phương vùng cao các tỉnh miền Trung như xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa tỉnh Phú Yên, bà con phải mua các loại thực phẩm từ các xe bán hàng lưu động khắp làng. Riêng các loại nhu yếu phẩm thì phải về tận trung tâm huyện mới có người bán. Trong khi đó, một khu chợ được xây dựng khá khang trang ngay giữa trung tâm cụm xã thì vắng tanh không một bóng người buôn bán. Ở xã vùng cao còn nhiều khó khăn như Ea Chà Rang, một công trình từ nguồn vốn 135 có giá trị xây dựng hàng trăm triệu đồng nhưng bỏ hoang gần 8 năm qua, hiện nay đang xuống cấp thành nơi chăn thả gia súc. Tình trạng các công trình xây dựng xong rồi bỏ hoang phí đang là vấn đề cần sớm được giải quyết để góp phần cải thiện cuộc sống cho bà con miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (phụ lục 4). Chương trình bắt đầu dẫn dắt những bất cập từ các công trình dân sinh do Nhà nước đầu tư ở vùng cao kém hiệu quả, rồi rút ra bài học kinh nghiệm về sự thiếu đồng bộ trong qui hoạch xây dựng và hiệu quả sử dụng kém ở các công trình tại hai xã Ma Nới và xã Ea Cha Rang một lần nữa cho chúng ta thấy được hầu hết các chương trình đầu tư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số chỉ phát huy hiệu quả khi có sự kết hợp hài hòa giữa việc quan tâm đầu tư của chính quyền địa phương với ý thức của bà con buôn làng. PS "Khó khăn trong việc phổ biến pháp luật ở vùng cao" được phát sóng chương trình ngày 22-07-2008. Đề tài không mới, nhưng PS đã đề cập đến vấn đề quan trọng, tìm được nguyên nhân của gia tăng dân số và đói nghèo dai dẳng ở một số địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đó là nạn tảo hôn. Để hạn chế tình trạng tảo hôn, các hình thức tuyên truyền phổ biến pháp luật đã được tổ chức lồng ghép tại các buổi họp thôn, bản và cũng đưa ra những mức xử lý về vi phạm hành chính như: với trường hợp vi phạm tảo hôn lần đầu thì lập biên bản và xử phạt hành chính 200.000 đồng, nếu lần thứ hai tái phạm, sẽ bị xử phạt 400.000 đồng. Thế nhưng, chính những hạn chế về trình độ dân trí và tập quán lạc hậu vẫn còn tồn tại trong đời sống của đồng bào đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và thực hiện chính sách pháp luật (phụ lục 4). PS "Chương trình 135 giai đoạn 2” phát sóng ngày 12-06-2008, phóng viên đã chọn được vấn đề là tập trung khai thác những cách làm hay của mỗi địa phương ở một hợp phần của chương trình 135. PS dẫn dắt bằng sự thay đổi cuộc sống của người dân ở huyện Mù Cang Chải rồi mở rộng vấn đề là làm sao để chương trình 135 thật sự phát huy hiệu quả của nó. Đó là cần thực hiện triệt để nguyên tắc dân chủ ở cơ sở khi đầu tư bất cứ một công trình hạng mục nào, dù lớn hay nhỏ. Mọi việc đều được đưa ra lấy ý kiến của người dân trực tiếp hưởng dự án đó. Cho nên hiệu quả, tốc độ và chất lượng công trình đã đảm bảo chất lượng. Một nội dung mới trong 135 giai đoạn 2 là giao quyền cho xã làm chủ đầu tư các công trình. Đây là vấn đề gây ra nhiều nghi ngờ về tính hiệu quả của nó vì trình độ quản lý của cán bộ nhiều xã bất cập chưa thể làm tốt vai trò đó. Các phóng viên đã chọn những mô hình thành công ở Thanh Hóa và Sơn La để chứng minh rằng nếu có phương án, tổ chức tốt và quyết tâm của xã lẫn huyện thì vẫn thành công. Mặc dù, việc triển khai và thực hiện chương trình 135 hiện còn nhiều vướng mắc cần giải quyết, nhưng chương trình phát sóng đã đưa ra những mô hình, cách làm hay rất đáng để nhiều địa phương học tập, rút kinh nghiệm. Nhiều chương trình đã tập trung vào tính phát hiện đề tài, có tính dự báo, cảnh báo và tìm kiếm gợi mở những giải pháp trong những vấn đề được phản ánh. Đây là điểm mạnh nhờ biết chọn vấn đề của chương trình. Trao đổi vấn đề này, nhà báo Đỗ Quốc Khánh - Phó Ban truyền hình tiếng dân tộc cho biết: Với tiêu chí là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và đồng bào, cán bộ vùng dân tộc miền núi, chúng tôi đã hết sức cố gắng để nâng cao chất lượng từng chất lượng chương trình phát sóng. Làm sao mỗi số lên sóng buộc đồng bào, cán bộ phải chú ý đón xem chương trình và có những suy nghĩ, nhận thức mới nhằm cải thiện cuộc sống của mình. Đó cũng là điều mong mỏi của tất cả các anh chị em phóng viên, biên tập viên làm chương trình. Chính vì thế, chúng tôi xác định phải đầu tư tìm kiếm các đề tài mới, lạ, gắn chặt với miếng cơm manh áo, cuộc sống của người dân. Có như thế, mỗi chương trình là một thông điệp mạnh mẽ đến với tất cả các khán giả xem đài, những người có trách nhiệm. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng cố gắng tìm kiếm các biện pháp giải quyết khi phản ánh từng vấn đề. So với các chương trình trước năm 2008 thì các chương trình sau này cải thiện từng bước. Và từ năm 2009 đến nay, nó đã trở thành một yêu cầu bắt buộc của phóng viên, biên tập viên khi thực hiện một vấn đề nào đó. Làm việc này không ngoài mục đích nâng cao chất lượng của chương trình. Nó còn là gợi mở cho các nhà chuyên môn và người dân cùng suy ngẫm, bàn bạc tìm cách giải quyết triệt để vấn đề (phụ lục 2). Chương trình phát sóng ngày 12-04-2009 có PS "Cuộc sống mới cho đồng bào vùng sâu tỉnh Gia Lai". Chương trình này có nội dung hấp dẫn chứng tỏ cái nhìn sắc sảo của người thực hiện, có ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta. Tất cả từ chọn vấn đề, phản ánh đến hình ảnh và thể hiện đều mang đậm sắc thái dân tộc. Câu chuyện kể về cuộc sống của đồng bào huyện vùng sâu Krông Pa, tỉnh Gia Lai từng bị cái nghèo đeo bám dai dẳng, nay khá lên nhờ được hưởng lợi từ các công trình 135. Với cái nhìn toàn diện trong cách phát hiện vấn đề, tác giả đã lý giải một điều cần giải quyết đó là: cùng với việc xây dựng Trung tâm cụm xã, trường học, các hạng mục công trình cơ bản phục vụ dân sinh cần phải được đầu tư bài bản. PS này có đoạn viết: Ngoài việc mỗi xã có một trạm y tế, tại trung tâm cụm xã còn được đầu tư xây dựng Phòng khám khu vực. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trên địa bàn đến khám chữa bệnh. Nhờ vậy, hủ tục tìm thầy lang cúng mỗi khi ốm đau giờ đây không còn nữa. Thay vào đó họ đã đến trạm xá. Đặc biệt, phụ nữ ở các buôn làng đã bỏ được thói quen sinh đẻ tại nương rẫy, trẻ em được chăm sóc cẩn thận hơn. Nhờ vậy, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và các dịch bệnh truyền nhiễm khác đã giảm hẳn (phụ lục 4). Qua phóng sự này, chúng ta có thể thấy rằng: các chương trình đầu tư của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào vùng sâu là điều kiện quan trọng mang lại đời sống ấm no cho đồng bào các dân tộc ở vùng cao tỉnh Gia lai. Qua đó không chỉ giúp cho họ có cuộc sống ổn định phát triển hơn mà còn làm thay đổi được nếp nghĩ, cách làm của bà con trong việc tổ chức cuộc sống theo đà phát triển chung của đất nước Chương trình "Tuyên Quang phát triển kinh tế bền vững" phát sóng ngày 08-02-2009 có nội dung thiết thực đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi mở ra cách vươn lên làm giàu cho chính gia đình họ. PS đã nêu: Để nhân rộng và phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững, Hàm Yên đã quy hoạch vùng trồng cam tập trung, chọn giống, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân và xây dựng cơ chế chính sách phát triển cây cam một cách đồng bộ. Chính quyền đã ưu tiên giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các trang trại đủ điều kiện, trên cơ sở đó thực hiện việc cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại. Huyện chủ trương thực hiện chặt chẽ việc liên kết "bốn nhà" để nâng cao hiệu quả kinh tế, ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm và chế biến sản phẩm sau thu hoạch (phụ lục 4). Qua thâm nhập thực tế, phóng viên đã phát hiện ra vấn đề: Mặc dù nằm ở vị trí không mấy thuận lợi, tỉnh Tuyên Quang đã tự mở lối từng bước thoát khỏi tình trạng một tỉnh miền núi chậm phát triển. Việc tập trung phát triển công, nông nghiệp và du lịch dựa trên những thế mạnh đang là bước đi đúng hướng của tỉnh Tuyên Quang. Để triển khai thành công định hướng này, vấn đề quan trong hiện nay là vốn và nguồn nhân lực, sự kết hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học với người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, những người còn thiếu kinh nghiệm sản xuất. Nhờ có cái nhìn thấu đáo, cách phản ánh mới, lạ, chương trình đã giúp đồng bào giải quyết những vấn đề bức xúc trong cuộc sống hàng ngày một cách thiết thực. Đó là tìm lối ra trước vấn đề thiếu đói quanh năm, thiếu nhà ở, đất sản xuất, nước sạch, thiếu dụng cụ sinh hoạt, xây dựng kết cấu hạ tầng vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa… Chương trình "Người Mã Liềng ở Quảng Bình" phát sóng ngày 12-08-2008. PS kể về cuộc vận động định canh định cư đối với đồng bào Mã Liềng ở Quảng Bình được tiến hành từ cuối những năm 1980 vẫn gặp không ít khó khăn. Đến năm 1998, khi chương trình 135 của Chính phủ về phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi được thực hiện thì vấn đề định canh định cư của đồng bào Mã Liềng mới thực sự khởi sắc. Yêu cầu đặt ra cho các chương trình dự án là không chỉ cung cấp lương thực cho bà con mà phải hướng dẫn bà con cách thức sản xuất, tự giác vươn lên xóa đói, giảm nghèo. Ban định canh định cư huyện Tuyên Hóa đã cử cán bộ cắm bản, cùng ăn cùng ở và hướng dẫn bà con sản xuất.Nhờ đó bà con từng bước nắm bắt được kỹ thuật canh tác, chăn nuôi. Đời sống của mỗi hộ gia đình được cải thiện và từng bước nâng cao (phụ lục 4). Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển như người bạn tâm tình giúp đồng bào xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu bằng những gương sản xuất giỏi và mô hình làm ăn kinh tế hay. Chương trình: "Ngày Xuân đến với những gia đình nông dân vùng cao sản xuất giỏi" phát sóng ngày 02-04-2008 giới thiệu 4 gương điển hình sản xuất giỏi, làm giàu trên quê hương của mình. Ông Lý Phù Sinh người Lào Cai chọn cây thảo quả và cây hồi làm bước đột phá. Lấy ngắn nuôi dài, ông đã chăn nuôi thêm trâu bò lợn gà. Từ những kết quả ban đầu, ông mạnh dạn cải tạo diện tích ruộng lúa nương thành ruộng lúa nước và vận động nhân dân xây dựng mương dẫn nước. Điều này đã giúp bản ông thoát khỏi nạn đói triền miên. Làm theo ông Lý Phù Sinh, đời sống của bà con đã khá lên, có cái tích trữ hoặc mua bán ngoài chợ. Đối với Ama Ben ông chủ của rừng cao su ở phía Nam thì khác. Với nguồn thu nhập 1,5 tỷ đồng từ 85ha cao su, ông đã tạo công ăn việc làm cho gần 100 con em người dân tộc trong buôn làng. Tự học, cứ thử rồi biết, không biết thì hỏi. Đó là phương châm của ông tỷ phú này. Những gương tốt như Lý Phù Sinh, Ama Ben xuất hiện ngày càng nhiều. Phong trào nông dân thi đua làm ăn, sản xuất giỏi đã phát triển khắp cả nước, đặc biệt là vùng sâu vùng xa (phụ lục 4). Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, có tới 58% khán giả cho rằng chương trình "Gương sáng giữa cộng đồng" có nội dung hay và hấp dẫn đồng bào nhất; 27% ý kiến nhận xét bình thường và 15% đánh giá là nhàm chán. Đây là một chuyên mục trong chương trình, với nội dung chủ yếu giới thiệu các gương làm ăn sản xuất kinh doanh giỏi và mô hình làm ăn kinh tế hay được số đông chấp nhận (phụ lục 1). Điều đó cho thấy, Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển đang đi đúng hướng, đáp ứng được nhu cầu của đồng bào. Sự khác biệt của các Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển năm 2008, 2009 so với chương trình này trước đây chính là sự phản ánh thông tin đa chiều và có tính chiến đấu. Trao đổi về vấn đề này, nhà báo Đỗ Quốc Khánh - Phó Ban truyền hình tiếng dân tộc cho biết: Tạp chí Dân tộc và Phát triển là một kênh thông tin làm nhiệm vụ tuyên truyền chuyên về vùng dân tộc miền núi. Lâu nay, chúng ta thường quan niệm nói cho đồng bào phải là nói tốt, nói chính sách của Đảng của Chính phủ là như thế này theo kiểu cầm tay chỉ việc. Đó là câu chuyện của vài năm trước khi ấy nhận thức của đồng bào còn hạn chế nên chúng ta cần phải tuyên truyền như thế. Nhưng bây giờ khác rồi. Cuộc sống được nâng lên, kéo dân trí, nhận thức lên theo. Họ được tiếp cận với những luồng thông tin khác nhau. Trách nhiệm của chúng ta là phải nói đầy đủ mọi thông tin liên quan đến đời sống của họ vừa là cái tốt, cái chưa được; nói làm sao để họ hiểu ra vấn đề, họ phân biệt cái đúng cái sai. Còn về tính chiến đấu trong nội dung tác phẩm phát sóng, đây là điều đang thiếu. Lâu nay tâm lý tuyên truyền, phản ánh hiện thực theo dạng nói tốt, kêu khó của phóng viên đã hình thành. Thời gian qua, chúng tôi chỉ có một số ít chương trình thực hiện được nội dung này. Tới đây, chúng tôi sẽ cố gắng cho ra đời những chương trình có tính chiến đấu cao (phụ lục 2). Chương trình "Nóng bỏng ma túy vùng cao" phát sóng ngày 28-08-2008, có nội dung khá ấn tượng, được người xem truyền hình quan tâm. Câu chuyện nói về việc tiêu diệt đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy tổng hợp từ khu vực "Tam giác vàng" vượt qua sông Mê Kông, tập kết ban đầu tại Thà Khẹc, sau đó qua Cửa khẩu quốc tế Cha Lo (Quảng Bình) trung chuyển về thành phố Đồng Hới. Từ đây, ma túy tổng hợp được chuyển cho các "thị trường" tiêu thụ phía Nam. Khi bị phát hiện, đối tượng liều chết, chống trả rất quyết liệt bằng vũ khí nóng. Công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy với Bộ đội biên phòng là rất cam go, quyết liệt. Do nắm chắc địa bàn, thu thập và xử lý kịp thời thông tin về hoạt động tội phạm ma túy nên lực lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm ma túy - bộ đội biên phòng Điện Biên đã xây dựng được kế hoạch tác nghiệp phù hợp với từng diễn biến hoạt động của tội phạm ma túy. Nhiều chuyên án đấu tranh với nhiều đường dây, toán nhóm, tụ điểm, đối tượng mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy qua biên giới được tiến hành. Từ năm 2005 đến nay, Bộ đội Biên phòng Điện Biên đã điều tra, phát hiện bắt giữ 203 vụ với 286 đối tượng có hành vi mua bán, tàng trữ vận chuyển trái phép chất ma túy, thu giữ trên 20kg hêrôin, gần 30kg thuốc phiện, trên 50.000 viên ma túy tổng hợp cùng nhiều phương tiện hoạt động và các loại vũ khí nóng được tội phạm ma túy dùng để chống trả quyết liệt lực lượng biên phòng khi bị vây bắt (phụ lục 4). Đây là vấn đề có nội dung hấp dẫn và có tính chiến đấu cao, thu hút người xem nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nói chung, cho đến nay chương trình đã đáp ứng được nhu cầu của khán giả. Mỗi lần phát sóng, chương trình đều cố gắng mang đến một cái mới, cái độc đáo, bổ ích cho đồng bào. Tuy nhiên, nhiều Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển chưa khai thác sâu các vấn đề mà bà con quan tâm, hoặc là vấn đề quá lớn chưa thiết thực với bà con. Ví dụ: Chương trình: "Giúp nông dân sản xuất nông nghiệp hàng hóa và hội nhập WTO" phát sóng ngày 01-06-2008. Chương trình sẽ khá hay nếu dành cho những người nông dân ở miền xuôi. Song, đối với đồng bào dân tộc thì rất ít người hiểu WTO và cạnh tranh là gì. Vì vậy, ngay khi đọc tên chương trình nhiều người đã chuyển kênh. Bởi vì quá nhiều đồng bào đồng còn quen cung cách phát triển kinh tế, sản xuất được Nhà nước bảo trợ. Họ chưa quan tâm đến những chủ đề to tát như vậy. Chương trình "Tín dụng vi mô thoát nghèo" phát sóng ngày 02-09-2009. đề cập đến nhóm tín dụng vi mô bán chính thức bao gồm các chương trình, dự án do các tổ chức trong và ngoài nước tài trợ. Họ chia kỳ trả nợ rất ngắn. Vì thế, khoản tiền phải trả mỗi lần cũng rất nhỏ vì tổng số tiền cho vay nhỏ hơn nhiều so với mức cho vay của nhóm chính thức. Thông thường, nhóm chính thức cho vay khoảng 2 triệu đồng trở lên. Nhóm bán chính thức chỉ cho vay 1 khoản là năm trăm ngàn đến 1 triệu đồng, thậm chí nếu khách hàng có nhu cầu vay hai trăm ngàn cũng được đáp ứng. Thời hạn cho vay của nhóm bán chính thức thường là 10 tháng đến 12 tháng. Trong thời gian đó thì họ chia số tiền trả nợ theo tuần, 2 tuần hoặc theo tháng (phụ lục 4). Đây là chương trình khá hay nếu dành cho những người nông dân năng động ở miền xuôi. Nhưng với đồng bào dân tộc, rất ít người biết và hiểu tài chính vi mô là gì? Vì vậy, sức cuốn của chương trình bị hạn chế. Bên cạnh đó, Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển còn nghiêng về tính một chiều. Ví dụ như: "Chương trình 135 giai đoạn 2" phát sóng ngày 12-06-2008. Tuy đề cập đến những cách làm hay của địa phương nhưng cách dẫn dắt khiến người xem đôi lúc như đang xem một buổi họp báo cáo. Phóng viên thực hiện phóng sự nặng về một chiều, thiếu thông tin phản biện. Vì vậy, không tạo sự hấp dẫn cho khán giả. Qua khảo sát cho thấy còn một hạn chế nữa của Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển. Đó là, tính chiến đấu của vấn đề được phản ánh chưa cao. Trong 12 tháng, với 52 chương trình phát sóng, duy chỉ có một chương trình "Nóng bỏng ma túy vùng biên” như phân tích ở trên là có tính chiến đấu cao, phản ánh mặt trái của xã hội vùng biên giới. Ngoài ra, một số chương trình mới dừng ở thiên hướng chiến đấu, như: "Bộ đội biên phòng với công tác chống buôn lậu qua biên giới", "Tái định cư và ổn định đời sống đồng bào dân tộc", "Giải quyết đất ở đất sản xuất cho đồng bào dân tộc"…Nguyên nhân là phóng viên chưa theo đến cùng sự việc, chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh và phát hiện vấn đề. 2.3. VỀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 2.3.1. Thể loại, tác phẩm Ngay từ tên gọi "Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển", chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy thể loại tác phẩm được thể hiện trong chương trình này là thể loại Tạp chí. Hiện nay, có nhiều sách đưa ra khái niệm tạp chí nhưng chưa thống nhất được định nghĩa về thể loại tạp chí. Tác giả cũng chỉ nêu ra một vài quan niệm thường sử dụng. Đó là: Tạp chí là báo xuất bản có định kỳ trong đó có nhiều mục khác nhau. Tạp chí là xuất bản phẩm định kỳ có 1 kết cấu chủ đề ổn định, đăng tải thông tin về một lĩnh vực trong đời sống xã hội. Tạp chí truyền hình là chương trình phát sóng có định kỳ của truyền hình, chuyển tải những chủ đề thuộc cùng một lĩnh vực tri thức nào đó. Theo nhà báo Đỗ Quốc Khánh – Phó trưởng Ban truyền hình tiếng dân tộc: Tất cả các dạng chương trình phát sóng định kỳ hàng tuần trên VTV1 từ đầu 2007 đều lấy tên là Tạp chí như Tạp chí Phụ nữ, Tạp chí Khoa học xã hội nhân văn… Đây là yêu cầu của lãnh đạo kênh. Bởi vì thực hiện các chương trình theo thể loại Tạp chí sẽ chuyển tải nhiều nội dung khác nhau trong cùng một chương trình. Điều này giúp cho những người sản xuất chương trình hoàn toàn chủ động trong việc xây dựng kết cấu, chủ đề của một chương trình phát sóng. Nếu xét kỹ, Chương trình Dân tộc và Phát triển hoàn toàn đáp ứng 4 tính chất đặc trưng của thể loại Tạp chí. Đó là tính định kỳ, tính chuyên ngành, tính đặc thù nhóm khán giả và tập hợp thông tin đa chiều về một nhóm chủ đề. Thực tế khi thực hiện, đội ngũ phóng viên, biên tập viên không gặp khó khăn gì, ngược lại được tự do sáng tạo để chương trình có sức tác động mạnh với công chúng khán giả (phụ lục 2). Về hình thức phản ánh, qua khảo sát chương trình cho thấy, so với nghiên cứu cách đây 5 năm [1], phần phong phú đã tăng lên 16%, phần nhàm chán, đơn điệu đã giảm từ 31% xuống còn 4%. Như vậy, chúng ta cũng có thể thấy đó là tín hiệu vui. Chương trình đang dần khẳng định được vị thế của mình và quan trọng hơn là chiếm được cảm tình số đông đối tượng công chúng là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Biểu đồ 2.2: Ý kiến nhận xét của công chúng về hình thức phản ánh của chương trình năm 2005 và năm 2009. 2.3.2. Hình ảnh Đối với thể loại báo chí truyền hình, hình ảnh là ngôn ngữ đặc trưng nhất. Đây cũng là phương tiện chuyển tải thông tin mạnh mẽ đến với công chúng khán giả. So với ngôn ngữ đặc trưng của các loại hình báo chí khác, ngôn ngữ hình ảnh tạo ra hiệu quả nhận thức, tâm lý và hành vi trực tiếp nhất, nhanh nhất. Đó là nguyên nhân diễn ra sự phát triển vũ bão của loại hình báo chí truyền hình so với các loại hình báo chí khác. “Việc sử dụng đa dạng các khuôn hình, cỡ cảnh trong các cảnh quay giống như sử dụng biện pháp tu từ trong ngôn ngữ, nó làm cho hình ảnh trở nên sống động, uyển chuyển, mượt mà, thông tin nhẹ nhàng đi vào lòng người xem và để lại ấn tượng sâu sắc” [15, tr. 307]. Một tác phẩm báo chí truyền hình thành công hay không hình ảnh chiếm vai trò rất lớn. Muốn có hình ảnh tốt yêu cầu cơ bản đầu tiên là: khuôn hình, bố cục, góc máy, ánh sáng và màu sắc phải chuẩn. Tiếp đến là: cảnh quay then chốt. Cảnh quay then chốt là chi tiết tiêu biểu không thể thiếu của tác phẩm báo chí truyền hình. Một tác phẩm có sức lôi cuốn, hấp dẫn khán giả hay không, phóng viên, quay phim phải tìm ra cho được 2 - 4 cảnh then chốt. Và muốn làm được điều đó, “người phóng viên phải luôn rèn luyện kỹ năng quan sát, phân tích, đánh giá, thẩm định mọi sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội, tích luỹ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, năm vững kỹ thuật và nghệ thuật dựng hình” [15, tr.310]. Qua khảo sát, hầu như chương trình nào cũng biết khai thác cảnh quay then chốt. Người quay phim đã chọn được những cảnh quay chân thực, mới lạ và sống động đầy ấn tượng chỉ có ở vùng dân tộc miền núi. Nhìn chung trong tất cả các chương trình, yếu tố thẩm mỹ của cảnh quay đã đạt yêu cầu. Nhiều chương trình có chất lượng hình ảnh tốt. Bảng 2.3: Ý kiến khán giả nhận xét về chất lượng hình ảnh và âm thanh của Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển (phụ lục 1) Hình ảnh Âm thanh Rõ nét 79% Tốt 72% Bình thường 19% Bình thường 24% Kém 2% Kém 4% Hình ảnh trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển được ghi hình, khai thác sinh động, sát với thực tế. Ví dụ Chương trình: "Giải quyết đất ở đất ở đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số" phát sóng ngày 03-08-2008. Chương trình nêu mặt tích cực của chương trình 134 với đồng bào dân tộc, đồng thời cũng nêu một số mặt tồn tại cần giải quyết trong năm 2008. Cảnh quay những căn nhà mới được dựng lên và niềm hạnh phúc vui sướng hiện trên nét mặt của các hộ nghèo ở Hà Giang là hình ảnh đẹp. Đây là chương trình có tính nhân văn, khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, chính quyền của địa phương, cũng như mong muốn thiết thực của đồng bào. Về khó khăn trong vấn đề giao đất sản xuất cho bà con, chương trình đã quay được cảnh đồng bào Hà Giang không còn đất tra ngô phải lên vùng núi cao, đào đất ven hốc núi, vốc đất chen lẫn đá để tra ngô. Chương trình: "Tài nguyên nước ở vùng cao" phát sóng ngày 22-05-2008, có đoạn: Khi trời mưa, thầy trò trường bán trú dân nuôi ở Hà Giang đã huy động tất cả những gì có thể để hứng nước. Các em học sinh thì lấy bát ăn cơm của mình ra hứng nước. Một dãy dài người lớn, trẻ em ướt sũng dưới mưa hứng nước. Hạt mưa rơi xuống bát, xô, chậu…tạo nên những âm thanh thật lạ tai với đầy đủ âm vực, như tấu một khúc nhạc buồn thương (Phụ lục 4). Ngôn ngữ hình ảnh tác động mạnh và trực tiếp, cụ thể, sinh động đến nhận thức của công chúng, đặc biệt là đồng bào dân tộc. Ngôn ngữ hình ảnh trong các chương trình về đề tài dân tộc miền núi thể hiện khá thành công qua việc khai thác tâm lý, tập quán truyền thống, những vấn đề hiện tại liên quan tới cuộc sống của bà con. Xét một cách tổng thể, chúng ta ghi nhận ngôn ngữ hình ảnh của chương trình đang được nâng cao hơn hẳn so với trước đây. Qua khảo sát thực tế, với 500 phiếu thăm dò ở một số địa phương như: Hà Giang, Điện Biên, Cần Thơ và Gia Lai cho thấy kết quả: 79% công chúng cho rằng chất lượng hình ảnh của chương trình rõ nét; 19% bình thường và chỉ có 1% kém chất lượng. Như vậy, so với ngày đầu ra đời và đặc biệt là 5 năm gần đây, chương trình đã có sự thay đổi khá nhiều không chỉ về nội dung, mà còn cả về chất lượng ngôn ngữ hình ảnh. Vì thế, chương trình ngày càng khẳng định được vị thế của mình và chiếm được tình cảm yêu mến của đại đa số công chúng là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, cũng theo đánh giá từ kết quả khảo sát, chương trình còn bộc lộ một số hạn chế như: nhiều chương trình đặt vấn đề thực hiện ở vùng núi, nhưng hình ảnh về vấn đề liên quan lại quá ít, thiếu thực tế, dẫn đến kết quả thuyết phục bạn xem truyền hình chưa cao. Chương trình: "Bà con Khmer Sóc Trăng vui đón Tết Chul Chnam Thmây" phát sóng ngày 01-05-2008, phản ánh sự thay đổi cuộc sống của bà con Khmer sau 3 năm thụ hưởng chương trình 134 của chính phủ. Bà con phấn khởi đón một năm mới đang về với bao sự thay đổi. Nếu hình ảnh của chương trình này có cảnh then chốt chẳng hạn như cảnh làm bánh, cảnh tập múa thì hiệu quả sẽ hay hơn. Phóng viên đã thâm nhập thực tế nhưng chưa nhấn được những hình ảnh đặc trưng của một cuộc sống mới. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ thấy những hình ảnh bình thường hay gặp trong cuộc sống. Đó là cảnh bà con đang sửa soạn cho nhà chùa ăn Tết, làm nhà 134, sản xuất hoa màu, cảnh phum sóc, nhà cửa khang trang đẹp đẽ 2.3.3. Lời bình Lời bình trong tác phẩm báo chí truyền hình giúp bổ sung, cung cấp thêm thông tin cho hình ảnh để khán giả tiếp nhận đầy đủ, trọn vẹn thông điệp của những người thực hiện. Lời bình phải hỗ trợ hình ảnh, nhấn mạnh, cung cấp bối cảnh, thu hút sự chú ý tới các chi tiết hay báo sự thay đổi hướng hành động. Với chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển, đối tượng chính là đồng bào dân tộc thiểu số trình độ nhận thức và tư duy còn thấp, khả năng nghe nói tiếng phổ thông hạn chế, vì vậy, lời bình của chương trình phải dễ nghe, dễ hiểu, ngắn gọn. Theo nhà báo Đỗ Quốc Khánh -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV.doc
  • docbia moi.doc