LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN. ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. vi
DANH MỤC BẢNG. viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ. viii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN . ix
LỜI MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU THỦY SẢN VÀ GIỚI THIỆU
VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU
(EVFTA).6
1.1. Khái quát về mặt hàng thủy sản và xuất khẩu thủy sản .6
1.1.1. Khái quát về mặt hàng thủy sản.6
1.1.2. Xuất khẩu thủy sản.9
1.2. Một số lý thuyết về đánh giá tác động của hiệp định thương mại đối với
xuất khẩu của các quốc gia thành viên .12
1.3. Khái quát về hiệp định EVFTA và một số quy định liên quan đến xuất
khẩu, thủy sản của Việt Nam sang EU .13
1.3.1. Tiến trình đàm phán, ký kết của hiệp định.13
1.3.2. Những quy định của Hiệp định có liên quan đến XK mặt hàng thủy sản
của Việt Nam sang EU.14
1.4. Khái quát về thị trường thủy sản của EU .20
1.4.1. Quy mô và đặc điểm của thị trường.20
1.4.2. Hệ thống tiêu thụ và xu hướng tiêu thụ thủy sản tại thị trường EU .22
1.4.3. Một số quy định của EU đối với thủy sản nhập khẩu.25
1.4.4. Tình hình nhập khẩu mặt hàng thủy sản của EU .28
CHƯƠNG 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU THỦY SẢN
CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU TRONG BỐI CẢNH THỰC THI
HIỆP ĐỊNH EVFTA .30
121 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Eu trong điều kiện thực thi hiệp định thương mại tự do Việt Nam liên minh Châu Âu (evfta), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hẩu tôm Ecuador sang
EU tăng 0,2%; cá ngừ hộp tăng 60% (Argo, 2017) và hiện nay sản lượng của nước
này xuất sang EU vẫn tăng trưởng đều qua các năm. Từ các yếu tố trên, hoàn toàn có
thể tin tưởng rằng Việt Nam có thể kỳ vọng đạt được kết quả tích cực tương tự đối
với mặt hàng thủy sản xuất khẩu khi EVFTA được thực thi vào tháng 7 năm nay.
Cũng theo nghiên cứu về tác động của hiệp định EVFTA đối với thủy sản đăng
trên Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 125+130 của Trường Đại học ngoại thương, tháng
1/2020 của tác giả Nguyễn Tiến Hoàng và Phạm Văn Phúc Tân thì tác động tạo lập
thương mại lấn át tác động chuyển hướng thương mại khi chiếm khoảng 69% tổng
tác động tức là khi EVFTA có hiệu lực và khi thuế suất nhiều mặt hàng thủy sản được
cắt giảm về 0%, gia tăng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU phần lớn đến từ
việc giá hàng hóa của Việt Nam cạnh tranh hơn hàng từ nội địa EU. Điều đó các
khẳng định hơn nữa việc cắt giảm thuế quan mà EU dành cho mặt hàng thủy sản EU
sẽ đem lại cơ hội rất lớn để chúng ta gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này,
nhất là khi chúng ta đã có nhiều năm kinh nghiệm xuất khẩu vào EU, các sản phẩm
đạt chất lượng , chỉ còn thiếu yếu tố cạnh tranh về giá.
Ngoài những lợi ích từ thuế quan, một lợi ích nữa EVFTA mang lại tạo điều
kiện cho Việt Nam xuất khẩu thủy sản sang EU nhiều hơn là sự thống nhất trong lĩnh
vực quản lý Hải quan giữa EU và Việt Nam nhằm tạo thuận lợi thương mại và minh
bạch hơn trong vấn đề hiểu và áp dụng hàng rào phi thuế quan. Các bên đều cam kết
đảm bảo quy trình và thủ tục hải quan của EU sẽ minh bạch, chính xác và nhanh hơn.
Tới đây, EU sẽ cho phép áp dụng cơ chế một cửa, một bộ chứng từ hải quan duy nhất.
Hải quan giữa Việt Nam và EU sẽ phối hợp với nhau qua hệ thống thông tin điện tử,
mỗi bên đều có đầu mối liên hệ để giải đáp thắc mắc và tiến hành xử lý thông tin
trước khi hàng đến để có thể thông quan ngay khi mà hàng cập cảng. Hai bên cũng
thống nhất loại bỏ các thủ tục không cần thiết làm chậm trễ việc thông quan và giảm
thiếu các chi phí không cần thiết cho xuất khẩu. Qua việc kết nối thông tin hai bên,
45
C/O sẽ được xác minh trong thời gian rất ngắn dựa trên cơ sở dữ liệu điện tử thay vì
mất 2-3 tháng như trước đây. Điều này rất có ý nghĩa với xuất khẩu thủy sản Việt
Nam bởi đã từng xảy ra tình trạng hàng Việt Nam phải đợi vài tháng để được xác
minh nguồn gốc xuất xứ và hưởng ưu đãi thuế, phát sinh các chi phí lưu kho bãi
không đáng có. Bên cạnh đó, nếu như thị trường Mỹ và Australia có cách quản lý
hàng thủy sản nhập khẩu theo giấy phép, điều kiện cho từng loại mặt hàng, đòi hỏi
mất rất nhiều thời gian và cả sự vào cuộc của cả các bộ, ngành, thì EU nêu rất rõ các
quy định về TBT và SPS, công khai tất cả thông tin tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật đối
với mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào EU. Doanh nghiệp thủy sản Việt Nam hoàn
toàn có thể chủ động tìm hiểu và nắm bắt các yêu cầu của EU, sẽ biết ngay cách làm
thế nào để đáp ứng các điều kiện đó và đánh giá được sản phẩm của mình có phù hợp
với thị trường này không, từ đó vận dụng và điều chỉnh chất lượng xuất khẩu phù
hợp với liên minh.
Thực tiễn cũng cho thấy các nước đã ký kết FTA với EU đều đạt được tăng
trưởng trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU rất đáng kể. Tiêu biểu
như Colombia đã tăng kim ngạch xuất khẩu sang EU năm 2014 là 28,4% tức là 1 năm
sau khi hiệp định FTA giữa EU và Colombia có hiệu lực và con số này với Peru là
27,14%. Giai đoạn 2016-2019, dù tình hình xuất khẩu thủy sản trên thế giới gặp nhiều
khó khăn, Colombia tiếp tục giữ mức tăng trưởng là 15-17% mỗi năm và Peru đạt
mức tăng trưởng 14-16%. Đối với các nước phát triển thì tác động của FTA với EU
càng lớn hơn nữa , đem lại mức tăng trưởng xuất khẩu thủy sản cao hơn. Ví dụ như
theo Eurostat thống kê thì Hàn Quốc sau khi ký hiệp định FTA với EU vào năm 2011
thì mức xuất khẩu thủy sản nước này vào EU luôn ở mức bằng 2-2,8 lần so với trước
đó . Các nước kể trên Peru, Colombia và Hàn Quốc ít nhiều đều có điểm tương đồng
với Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu thủy sản như đều có thế mạnh về các mặt
hàng cá, tôm, mực, bạch tuộc và đều đã có kinh nghiệm xuất khẩu sang EU trước khi
ký kết Hiệp định thương mại nên tiềm năng mà EVFTA mang lại cơ hội và tăng
trưởng tích cực về kim ngạch cho thủy sản Việt Nam là tương đối chắc chắn.
Doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất để tăng cạnh tranh vì có
thể tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ phục vụ sản xuất thủy sản của EU nhờ các
46
cam kết mở cửa dịch vụ logistics, bảo hiểm, tài chính của Viêt Nam dành cho các
doanh nghiệp thuộc liên minh EU.
2.3.2. Tăng cường thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng, khai thác và chế
biến thủy sản
Hiệp định EVFTA mang lại cho chúng ta kì vọng lớn vào thu hút vốn đầu từ
FDI vào ngành thủy sản Việt Nam từ đó tạo động lực mở rộng và tận dụng hết tiềm
năng phát triển của thủy sản xuất khẩu. Đây là cơ hội lớn với thủy sản Việt Nam vì
xét trong bối cảnh hiện nay thì đầu tư FDI vào ngành thủy sản rất hạn chế và chưa
tương xứng với tiềm năng phát triển của thủy sản. Trong khi Việt Nam đứng số 1
Đông Nam Á và thứ 7 thế giới về xuất khẩu thủy sản thì chủ yếu sản phẩm xuất đi
giá trị chưa cao, chỉ dừng lại chủ yếu nguyên liệu thô, hàm lượng giá trị gia tăng chưa
cao. Năm 2019 GDP thủy sản đạt 205.252 tỷ đồng chiếm 3,4% GDP toàn quốc, tăng
trưởng 6,3% so với năm 2018, bằng 0,89 lần so với tăng trưởng toàn quốc và tăng
trưởng cao gấp 3,13 lần so với toàn ngành nông nghiệp. Nhưng số lượng dự án FDI
và quy mô dự án đầu tư vấn vào thủy sản rất khiêm tốn. Theo tổng cục thống kê, FDI
vào ngành này mới chỉ đạt 1% tổng số vốn đầu tư FDI. Lũy kế tới tháng 4/2019, Việt
Nam đã thu hút được 349 tỷ USD nhưng ngành nông lâm, thủy sản chỉ thu hút được
3.45 tỷ USD (ứng với tỷ trọng 1%), thấp hơn rất nhiều một số ngành khác như ngành
công nghiệp chế biến chế tạo 203 tỷ USD (ứng với tỷ trọng 58.2%), ngành bất động
sản 58.2 tỷ USD (ứng với tỷ trọng 16.7%). Thêm vào đó, quy mô đầu tư FDI vào thủy
sản chưa lớn. Các dự án đầu tư vào thủy sản hiện nay vẫn chỉ đang dừng lại ở quy mô
nhỏ, bình quân chỉ hơn 7 triệu USD/dự án so với mức bình quân chung là 12,4 triệu
USD/dự án. Trong số 18 quốc gia đầu tư FDI vào thủy sản Việt Nam thì chủ yếu tập
trung ở 5 quốc gia: Hồng Kong, Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản và Trung Quốc.
Chưa có nhiều nhà đầu tư khối liên minh Châu Âu đầu tư vào lĩnh vực thủy sản Việt
Nam với quy mô lớn. Liên minh châu Âu (EU) mặc dù thuộc một trong các thị trường
xuất khẩu chủ lực, đem lại thặng dư xuất khẩu lớn cho Việt Nam song vốn FDI từ các
thị trường này vào Việt Nam còn hạn chế, chỉ chiếm 8,2%.Vì vậy rất cần kêu gọi
thêm đầu tư FDI để nâng cao năng lực sản xuất nuôi trồng, năng lực chế biến nhằm
47
gia tăng giá trị sản phẩm thủy sản theo chiều sâu, đặc biệt là thu hút đầu từ từ mạnh
về công nghiệp chế biến thủy sản như liên minh Châu Âu.
EU là đối tác đầu tư FDI lớn thứ tư tại Việt Nam với các dự án đầu tư FDI
trong thời gian qua tập trung vào lọc hóa dầu, dệt may, điện tử, phương tiện vận tải
Việc ký kết EVFTA được mong đợi sẽ gắn kết chặt chẽ hơn nữa mối quan hệ giữa 27
nước EU và Việt Nam. Với các cam kết về ưu đãi thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi
về đầu tư qua các quy định về bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài thì môi trường đầu tư
của Việt Nam sẽ ngày càng thuận lợi vá hấp dẫn hơn với các công ty FDI.
Trên thực tế, các nước trong liên minh EU có năng lực mạnh và lợi thế trong
lĩnh vực thủy sản công nghệ cao ví dụ như Hà Lan, Đức, Iceland. Bằng việc đầu tư
vào lĩnh vực thủy sản của Việt Nam, các nước EU sẽ được hưởng lợi rất nhiều. Chính
những lợi ích này sẽ là động lực mạnh mẽ khuyến khích các nước châu Âu rót thêm
vốn cho ngành thủy sản chúng ta. Đầu tiên các doanh nghiệp EU có thể tận dụng được
các lợi thế phát triển thủy sản của Việt Nam đang có sẵn mà không tốn thời gian và
chi phí để nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, từ đó giảm thiểu được rủi ro và phát sinh
trong đầu tư. Các doanh nghiệp FDI có thể khai thác tiềm năng sẵn có của nguồn lợi
thủy sản phong phú mà EU không thể nuôi trồng do đặc thù về môi trường sinh trưởng
như cá tra, cá ba sa cá nục hoặc phải nhập khẩu do hạn chế về giới hạn sinh học như
cá ngừ, khai thác điều kiện khí hậu và tài nguyên thiên nhiên phù hợp với phát triển
thủy sản nhiệt đới. Đồng thời, họ có thể tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng đã có sẵn
của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản trên cơ sở đó chỉ cần nâng cấp lên
cho phù hợp với mục đích sử dụng thay vì phải xây dựng lại từ đầu. Các nhà đầu tư
EU còn có thể tận dụng các phụ phẩm dư thừa từ quá trình chế biến thủy sản để làm
thành các sản phẩm giá trị gia tăng như: Chế biến dầu Diesel từ mỡ cá tra cá basa,
tách chiết omega 3 từ phụ phẩm cá ngừ để làm dầu cá hay sản xuất thức ăn cho cá và
tôm từ bột gan mực, từ đó bán ra thị trường nội địa để gia tăng lợi nhuận.
Hai là tận dụng được nguồn nhân lực giá rẻ có sẵn tại địa phương. Thủy sản là
ngành cần rất nhiều nhân công để sản xuất. Việc sử dụng lao động có sẵn ở địa phương
sẽ giúp doanh nghiệp FDI tiết giảm chi phí lao động rất nhiều vì hiện nay Việt Nam
đang là nước có nguồn lao động gần như rẻ nhất trong khu vực ASEAN. Hơn nữa các
48
lao động cũng đã có nhiều năm kinh nghiệm tiếp xúc làm việc về thủy sản, tay nghề
cao và hiểu rõ các quy định sản xuất của ngành. Doanh nghiệp FDI sẽ không phải tốn
thời gian tuyển dụng và đào tạo lại từ đầu.
Ba là tận dụng tốt cam kết thuế quan của EVFTA để vừa hưởng ưu đãi về thuế,
vừa góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu cho EU. Khi Việt Nam giảm thuế quan cho
thức ăn hải sản (tôm, cá ba sa và cá tra), máy móc thiết bị, thuốc thú y và phương tiện
vận tải chuyên dụng thì doanh nghiệp EU đầu tư tại Việt Nam có thể nhập khẩu những
mặt hàng này từ quốc gia mình vào Việt Nam.
Bốn là có thể đầu tư sản xuất ở Việt Nam và sau đó xuất sản phẩm thủy sản về
ngược lại EU để hưởng mức thuế 0%. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư luôn
mong muốn tận dụng tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam để thu lợi nhuận cao khi
xuất thủy sản sang EU. Bằng việc áp dụng công nghệ khai thác và chế biến chuyên
sâu của các nước EU, sản lượng thủy sản Việt Nam có thể tăng lên thậm chí gấp đôi,
từ đó gia tăng thêm nguồn lợi thu được từ xuất khẩu.
Năm là có cơ hội tiếp cận với thị trường rộng lớn. Một điểm thu hút của Việt
Nam với dòng vốn châu Âu là Việt Nam tham gia nhiều FTA kết nối với các thị
trường khác như CPTPP, ASEAN với các đối tác thì các nhà đầu tư châu Âu sẽ có
điều kiện tiếp cận không chỉ với 100 triệu dân ở thị trường Việt Nam mà còn 600
triệu dân ở thị trường khu vực ASEAN và còn rất nhiều quốc gia đối tác khác. Các
nhà đầu tư châu Âu khai thác được các thuận lợi, ưu đãi của các hoạt động thương
mại đối với các khu vực thương mại tự do khác mà Việt Nam tham gia.
2.3.3. Tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiến bộ và hiện đại
Cùng với vốn đầu tư, công nghệ là yếu tố quan trọng để xây dựng một nền sản
xuất thủy sản xuất khẩu tiên tiến, hiện đại. Các quốc gia muốn có công nghệ phải đầu
tư cho nghiên cứu và phát triển hoặc nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài. Đây là khó
khăn lớn đối với các nước đang và kém phát triển do hạn chế về cả nguồn vốn và
thiếu nguồn nhân lực mạnh về R&D. Do vậy, với Việt Nam thì nguồn cung cấp công
nghệ hiện đại chính cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng là
qua kênh chuyển giao công nghệ từ các dự án FDI và kênh nhập khẩu trực tiếp máy
móc từ EU.
49
Trong thời gian vừa qua, các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành
kinh tế quan trọng của Việt Nam, các dự án đầu tư của EU có hàm lượng và tỷ lệ
chuyển giao công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến, đóng góp đáng kể vào
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Trước khi có hiệp định EVFTA, chúng ta đã có
các dự án hợp tác ở lĩnh vực thủy sản với một số nước EU, chủ yếu là các nước Bắc
Âu ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản bền vững nhằm đáp ứng yêu cầu xuất khẩu như:
Dự án với Hà Lan và Oxfarm về phát triển bền vững và toàn diện chuỗi giá trị nghêu
tại Việt Nam theo tiêu chuẩn MSC. Trong giai đoạn EVFTA sắp đi vào hiệu lực, Việt
Nam cần phải tăng cường hợp tác hơn nữa với quốc gia EU, nhất là những nước khu
vực Bắc Âu vốn đã có quan hệ hợp tác lâu dài từ trước để tiếp cận càng nhiều với
khoa học kỹ thuật. Ví dụ như với Na Uy là quốc gia có thế mạnh về công nghệ quản
lý, công nghệ nuôi trồng thủy sản biển bền vững. Việt Nam có thể hướng đến hợp
tác, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới trong nuôi trồng thủy sản như : Công
nghệ dò tìm đàn cá, công nghệ xử lý nước biển bằng sử dụng điện phân và “siêu âm”,
các hệ thống công nghệ về xử lý và vận chuyển cá, hệ thống cho ăn tự động và giám
sát cho các trại nuôi cá, hệ thống camera kiểm soát sự ăn mòn cho tàu thuyền, hệ
thống xử lý nước thải, thiết bị loại bỏ chất hữu cơ trong lồng nuôi hay các loại vắc-
xin cho cá. Ngoài ra, Na Uy cũng nổi tiếng với công nghệ và thiết bị chế biến phụ
phẩm cá, tôm thành các sản phẩm có chất lượng cao áp cho các lĩnh vực như dược
phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng, điển hình là khô dầu. Việt Nam có thể thu
hút đầu tư chuyển giao công nghệ về chế biến phụ phẩm của Na Uy thông qua tiếp
cận với các công ty đứng đầu lĩnh vực này như là: công ty Firmenich Bjørge Biomarin
AS và Tripple Nine. Hay học tập từ Đan Mạch quốc gia có thế mạnh về công nghệ
và giải pháp nuôi trồng cá bền vững. Theo FAO Đan Mạch đã giải quyết vấn đề môi
trường bằng cách đầu tư phát triển công nghệ nuôi tuần hoàn (Recirculating
aquaculture system còn gọi là RAS) cho các loại cá nuôi. Hệ thống tuần hoàn là hệ
thống nuôi khép kín ít thay nước hoặc không thay nước. Nước thải trong hệ thống
RAS từ bể nuôi được thải ra và làm sạch trở lại, được tái sử dụng liên tục và ổn định
chất lượng bằng cơ chế sinh học, lý học, từ đó hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng
năng suất nuôi trồng.
50
Với cam kết FTA mang lại, ngành thủy sản Việt Nam sẽ ngày càng trở thành
thị trường hấp dẫn với thuế suất 0% cho các máy móc, thiết bị phục vụ cho ngành
chăn nuôi thủy sản. Đây là cơ hội hiếm có cho thủy sản Việt Nam được tiếp cận với
công nghệ chăn nuôi và công nghệ chế biến công nghệ cao của các nước trong liên
minh. Đó là công nghệ môi trường sinh học, công nghệ thông tin. Với cơ hội lớn được
tiếp cận với các công nghệ tiên tiến đến từ châu Âu, chắc chắn rằng thủy sản Việt
Nam sẽ ngày càng được tạo điều kiện để phát triển.
2.3.4. Góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm thủy sản xuất khẩu
Là một trong các cường quốc về sản xuất và xuất khẩu thủy sản với nhiều thế
mạnh như khí hậu, tài nguyên nuôi trồng thủy sản rộng lớn và phong phú (chiều dài
bờ biển gần 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km2 và diện tích mặt nước
ngọt và nước lợ rộng lớn), đa dạng về nguồn lợi thủy sản, thậm chí có những thủy
sản mà các quốc gia châu Âu khó có thể nuôi trồng nhưng do cách làm chưa hiệu
quả mà mặt hàng thủy sản Việt Nam chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô sơ, giá trị chế
biến chưa nhiều, chưa sâu dẫn đến sức cạnh tranh thấp so với các đối thủ khác như
Thái Lan, Trung Quốc, Philipines và Indonesia. Nâng cao chất lượng luôn là điểm
mà thủy sản Việt Nam cần phải tập trung.
EVFTA mở ra cơ hội lớn cho thủy sản Việt Nam vì thông qua đó chúng ta có
thể thu hút vốn đầu tư, tiếp cận khoa học kỹ thuật hiện đại qua các hợp tác chuyển
giao công nghệ, cung cấp máy móc chế biến thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học
trong nuôi trồng phát triển con giống, học hỏi các mô hình nuôi trồng công nghệ cao
và năng suất cao, chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý, chế biến và bảo quản thủy sản.
Các yếu tố đem lại từ FTA sẽ góp phần lớn vào nâng cao chất lượng nuôi trồng, hiện
đại hóa công nghệ chế biến từ đó sẽ cải thiện chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu
đáng kể. Tham gia EVFTA đồng nghĩa với việc Việt Nam đã đồng ý tuân thủ các cam
kết về hàng rào kỹ thuật (TBT) và các biện pháp an toàn kiểm dịch động vật (SPS)
cho các sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Điều này vừa là thách thức vừa là cơ hội cho
thủy sản Việt Nam khi phải đáp ứng các quy định về chất lượng ngặt nghèo của EU.
Các yêu cầu nghiêm ngặt, khắt khe về chất lượng, tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực
phẩm và kiểm dịch động vật sẽ là các yêu cầu bắt buộc thủy sản chúng ta phải vượt
51
qua. Nó sẽ là động lực để các doanh nghiệp thủy sản và toàn ngành thủy sản Việt
Nam phải cải tiến, loại bỏ những yếu kém và thay đổi, cải tổ để đạt được các tiêu
chuẩn EU đặt ra. Nếu không thay đổi, nếu đứng im thì đồng nghĩa doanh nghiệp sẽ
tự loại mình ra khỏi cuộc chơi và chịu thua các đối thủ khác. Và nếu nâng cao chất
lượng sản phẩm thành công, kim ngạch xuất khẩu gia tăng và nguồn lợi kinh tế thu
về là rất lớn. Với sức ép mạnh mẽ như vậy từ các yêu cầu kỹ thuật của EU, thủy sản
Việt Nam sẽ phải tái cơ cấu và có các biện pháp cụ thể để gia tăng giá trị cho các sản
phẩm xuất khẩu. Với nền kinh tế hội nhập sâu, với một thị trường già và khó tính như
EU, không có gì ngoài chất lượng sản phẩm sẽ đảm bảo cạnh tranh cho thủy sản Việt
Nam. Thực tế, Việt Nam đã đang xuất khẩu các mặt hàng chủ lực cá tra, cá ngừ, tôm,
bạch tuộc và mực sang EU trong suốt 10 năm qua và đã có kinh nghiệm trong việc
đáp ứng các tiêu chí kỹ thuật khắt khe của EU đưa ra. Hiện chỉ còn tồn tại một số hạn
chế lớn như lượng tồn dư kháng sinh trong thủy sản nuôi trồng, việc truy xuất nguồn
gốc của thủy sản đánh bắt. Tin rằng với kinh nghiệm sẵn có, với sức ép từ hiệp định
EVFTA thì doanh nghiệp thủy sản Việt Nam sẽ càng có thêm động lực mạnh mẽ để
thay đổi và nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.3.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng thủy sản XK của Việt Nam
Hiệp định EVFTA được ký kết đã mở rộng cánh cửa cho thủy sản Việt Nam
xâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường EU. Việc thực thi hiệp định FTA này có ý
nghĩa rất quan trọng, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh các mặt hàng của Việt
Nam tại thị trường EU, trong đó bao gồm cả mặt hàng thủy sản. Nhờ các cam kết cắt
giảm, xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thủy sản Việt Nam có điều kiện
thuận lợi hơn về thuế suất và giảm giá thành, có đà hợp tác phát triển ổn định hơn và
minh bạch về thông tin hơn khi tiếp cận với các quốc gia trong liên minh châu Âu.
So với một số đối thủ cạnh tranh tại thị trường châu Âu chưa đạt được hiệp định
thương mại tự do FTA với EU thì Việt Nam đang có lợi thế nhiều hơn trong xuất
khẩu tôm. Hiện nay, các nước xuất khẩu tôm nhiều vào EU như Ấn Độ, Ecuador,
Trung Quốc và Thái Lan lần lượt chiếm 15,1%, 10,9%, 9,1% và 7,9%; đều chưa có
hoặc đang trong thời gian đàm phán FTA.
52
Với việc tham gia EVFTA, thủy sản Việt Nam đang đứng trước cơ hội được
nâng cao năng lực cạnh tranh về giá thành khi doanh nghiệp sẽ giảm được giá thành
sản phẩm nhờ được hưởng ưu đãi về thuế. Cụ thể, tôm xuất khẩu của Việt Nam vào
khu vực EU có mức thuế trung bình là 6 - 20%, mặt hàng cá ngừ cũng có mức thuế
từ 11 - 20% sau hiệp định tất cả các nhóm này sẽ về 0%. Với mặt hàng cá ngừ, Thái
Lan, Trung Quốc đang là hai đối thủ lớn nhất của Việt Nam, nắm giữ nhiều thị phần
xuất khẩu nhất nhưng cả hai quốc gia trên đều chưa ký kết FTA với EU. Điều này
đồng nghĩa với mặt hàng cá ngừ của Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về thuế so với hai
nước trên tại khu vực thị trường lớn là EU khi thuế giảm về 0%.Tương tự với mặt
hàng tôm, Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu tôm với thị phần
14%, đứng đầu là Ấn Độ với 15% thị phần. Sau khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam
sẽ được cắt giảm thuế nhập khẩu tôm nguyên liệu và cả thuế xuất khẩu tôm chế biến
vào EU; trong khi đó quá trình đàm phán FTA giữa Ấn Độ và EU cũng đang bị tạm
ngưng. Đây được xem là cơ hội để sản phẩm tôm xuất khẩu Việt Nam vươn lên cạnh
tranh vị trí xuất khẩu hàng đầu với Ấn Độ. Theo EVFTA, thuế nhập khẩu hầu hết tôm
nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) vào EU sẽ được giảm từ mức thuế cơ bản 12-
20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, thuế nhập khẩu tôm chế biến sẽ về
0% sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Về lợi thế cạnh tranh thuế nhập khẩu
vào EU so với các nước sản xuất khác, lợi thế rõ rệt với tôm sú, tôm chân trắng đông
lạnh xuất khẩu khi tôm sú được giảm từ mức thuế GSP 4,2% về 0% ngay khi hiệp
định có hiệu lực, tôm chân trắng đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm, trong khi
Thái Lan không được hưởng GSP, không ký FTA, bị mức thuế cơ bản 12%, Ấn Độ
không có FTA chịu thuế GSP 4,2%, Indonesia hưởng thuế GSP4,2%, Ecuador thuế
cơ bản 12%.
Ngành cá tra cũng được nâng cao sức cạnh tranh hơn khi thuế nhập khẩu cá tra
từ Việt Nam vào EU giảm từ 5% xuống 0% nhờ Hiệp định EVFTA) và tại thời điểm
năm 2019-2020, các loại cá thịt trắng khác đang tăng giá mạnh, khiến cho các nhà
máy chế biến của EU có thể sẽ cân nhắc thay thế một phần bằng cá tra. Vì vậy khi
EVFTA có hiệu lực, việc cắt giảm các dòng thuế sẽ giúp sản phẩm thủy sản Việt Nam
hạ giá thành đáng kể. Các ưu đãi thuế quan và đơn giản hóa thủ tục trong chứng minh
53
xuất xứ ở hiệp định EVFTA cũng sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa nguồn
cung, tiết kiệm chi phí và nâng cao cạnh tranh về giá. Ví dụ về ngành tôm Việt Nam
có thể tham gia chuỗi cung ứng khu vực EU hoặc phạm vi các nước có FTA với EU
như Singapore, Hàn Quốc. Cụ thể, tôm xuất khẩu mang mã HS 0306.17 đang phải
nhập 80% nguyên liệu tôm. Khi tham gia EVFTA, ngành tôm đã có thể đa dạng hóa
nguồn cung nguyên liệu từ trong khu vực EU với lợi thế từ việc ưu đãi thuế. Việc đa
dạng hóa nguồn nguyên liệu giúp Việt Nam không bị phụ thuộc vào một nhà cung,
từ đó nắm được quyền chủ động trong đàm phán, không bị ép mua với giá cao, có cơ
hội lựa chọn nhà cung với mức giá hợp lý.
Đối với những lô hàng tôm gộp xuất đi hơn một nước trong EU đều được giữ
xuất xứ Việt Nam như ban đầu dù lô hàng nằm một thời gian ở nước đầu tiên. Ví dụ,
một container tôm xuất khẩu từ Việt Nam đi EU và đưa về kho ngoại quan tại Bỉ.
Trong đó, 1/3 lô hàng được đưa vào Bỉ vào dịp lễ Noel, 1/3 được đưa vào Đức vào
dịp Tết Dương lịch và 1/3 được đưa sang Pháp vào dịp Tết Âm lịch. Dù lô hàng được
xuất vào các nước vào thời gian khác nhau từ kho quan ngại của Bỉ nhưng doanh
nghiệp xuất khẩu chỉ cần chứng minh xuất xứ một lần. Thay vì chứng minh xuất xứ
3 lần thì nay chỉ cần thực hiện một lần sẽ tiết kiệm hơn cho doanh nghiệp rất nhiều
chi phí và thời gian.
Hiệp định EVFTA đi vào thực thi cũng sẽ giúp các doanh nghiệp thủy sản
giảm giá thành nguyên liệu đầu vào, giảm các chi phí trung gian như chi phí vận tải,
chi phí hải quan, giảm giá thành trong nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất,
chế biến thủy sản từ các nước EU kết hợp với thuế nhập khẩu vào EU nên giá hàng
thủy sản Việt Nam sẽ được giảm nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng. Doanh nghiệp
có nhiều lợi nhuận hơn sẽ có thêm nguồn vốn để đầu tư vào nghiên cứu thị trường,
xúc tiến thương mại, thay đổi mẫu mã sản phẩm, mở rộng các kênh phân phối. Tất cả
các yếu tố này sẽ giúp cho thủy sản nước ta có sức cạnh tranh với các đối thủ khác
tại thị trường EU.
2.4. Thách thức đối với xuất khẩu thủy sản sang EU
2.4.1. Cạnh tranh gay gắt tại thị trường thủy sản EU
54
EU là thị trường lớn với tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người lên đến
24.35kg/người và kim ngạch nhập khẩu năm 2018 là 12.9 triệu tấn và trong số đó
62,5% là thủy sản nhập khẩu. Với sức tiêu thụ và quy mô thị trường như vậy có rất
nhiều nước thúc đẩy xuất khẩu thủy sản vào EU vì thế Việt Nam sẽ phải cạnh tranh
gay gắt với nhiều đối thủ khác.
Về mặt hàng tôm xuất khẩu sang EU, hai đối thủ cạnh tranh của Việt Nam ở
phân khúc tôm chế biến (tôm thẻ hấp, tôm thẻ chế biến/bảo quản) là Indonesia và
Thái Lan. Giá thành cao một bất lợi lớn của ngành tôm, khi nó làm giảm đi sức cạnh
tranh của con tôm Việt Nam so với các nước. Đây là thực trạng chung, dù trình độ
nuôi tôm của nông dân Việt Nam không hề thua kém các nước nhưng do hầu hết chi
phí đầu vào, như: Con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học đều cao hơn các nước,
nên giá thành tôm nuôi của Việt Nam thường cao hơn 20% – 30%. Đơn cử là giá bán
ra trung bình tôm Việt Nam so với Indonesia và Thái Lan cao hơn 10.000.000-
30.000.000 VND/ tấn. Indonesia được xem là đối thủ lớn nhất vì hiện nay nước này
có kim ngạch xuất khẩu tôm sang EU đang tăng với tốc độ khá nhanh (khoảng 9%).
Indonesia có chi phí giá thành sản xuất tôm rẻ hơn Việt Nam do tỷ lệ nuôi tôm thành
công rất cao 70%, gấp đôi so với Việt Nam, giá tôm giống đầu vào của Indonesia là
50,000 đồng/con chỉ chưa bằng 1 nửa giá thành tôm giống của Việt Nam (105,000
đồng/con). Thái Lan cũng là đối thủ đáng gờm khi tập hợp nhiều lợi thế như: Có các
nhà máy chế biến tôm sẵn, tôm lạnh, tôm hấp rất hiện đại và nguồn nguyên liệu đầu
vào giá rất rẻ do nguyên liệu đầu vào 100% là từ nguồn tôm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_xuat_khau_thuy_san_cua.pdf