MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Ý THỨC CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO GIAI CẤP CÔNG NHÂN NƯỚC TA 6
1.1. Ý thức chính trị 6
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân nước ta 24
Chương 2: VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 41
2.1. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân Việt Nam 41
2.2. Những tác động quan trọng của Công đoàn để nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam 51
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÔNG ĐOÀN TRONG VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN NƯỚC TA 74
3.1. Tiếp tục phát triển và củng cố tổ chức Công đoàn 74
3.2. Rút kinh nghiệm để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của Công đoàn có liên quan đến giáo dục ý thức chính trị của giai cấp công nhân 92
3.3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn kết hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị để nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân 99
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
113 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3455 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối lập với Nhà nước của giai cấp bóc lột đã trở thành chỗ dựa, người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Vì vậy, có quyền và nghĩa vụ tham gia quản lý công việc của Nhà nước. Chức năng tham gia quản lý của Công đoàn chính là sự phối hợp hoạt động giữa Công đoàn với các cấp quản lý của Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, chính trị, văn hóa - xã hội theo một mục tiêu thống nhất, vừa bảo vệ lợi ích của GCCN, vừa để công tác quản lý đạt kết quả cao. Lênin đã nói: Sự tham gia của Công đoàn vào công tác quản lý kinh tế, và việc Công đoàn lôi cuốn quần chúng rộng rãi tham gia vào công tác đó đồng thời cũng là biện pháp chủ yếu để đấu tranh chống sự quan liêu hóa bộ máy kinh tế của chính quyền Xô Viết và tạo khả năng thực sự kiểm tra thực tế của nhân dân đối với kết quả sản xuất kinh doanh. Nội dung tham gia quản lý của Công đoàn rất đa dạng, phong phú, tùy theo tính chất của mỗi đơn vị mà có những nội dung tham gia quản lý khác nhau. Chẳng hạn trong các doanh nghiệp nhà nước, Công đoàn có thể tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh, tham gia tổ chức, củng cố bộ máy quản lý của doanh nghiệp...
Chức năng thứ ba là chức năng giáo dục.Đây là chức năng đã có từ khi tổ chức Công đoàn mới ra đời. Trong xã hội cũ Công đoàn giáo dục để công nhân thấy rõ bản chất và từ đó đấu tranh không khoan nhượng với giai cấp bóc lột. Trong giai đoạn hiện nay chức năng giáo dục của Công đoàn là giúp đỡ công nhân không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, làm cho Công đoàn thực sự trở thành trường học CNCS của GCCN. Nội dung giáo dục của Công đoàn rất đa dạng, gồm cả giáo dục chính trị, tư tưởng; giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mỹ; giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức. Tất cả những nội dung đó đều nhằm xây dựng một đội ngũ công nhân có lý tưởng, có văn hóa, có đạo đức và có kỷ luật nhằm thực hiện thành công SMLS của mình.
Ba chức năng trên của Công đoàn có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó chức năng bảo vệ lợi ích là trung tâm, là mục tiêu hoạt động của Công đoàn, chức năng tham gia quản lý là phương tiện để đạt được mục tiêu, chức năng giáo dục là động lực tinh thần để đạt được mục tiêu. Xác định đúng các chức năng của Công đoàn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Về lý luận, nó sẽ phản ánh được đầy đủ và toàn diện bản chất của Công đoàn, về thực tiễn nó tránh được sự trùng lặp, chồng chéo giữa Công đoàn với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác, đồng thời nó cũng làm cho công nhân có niềm tin vào tổ chức Công đoàn, thấy được sự cần thiết của sự tồn tại tổ chức Công đoàn.
Các chức năng trên của Công đoàn được thực hiện thông qua một loạt các hoạt động cụ thể. Những hoạt động đó ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đều tác động đến việc hình thành và nâng cao ý thức chính trị của GCCN Việt Nam, trong đó có những hoạt động sau đây thể hiện rõ vai trò quan trọng của Công đoàn đối với việc giáo dục, nâng cao ý thức chính trị của GCCN hiện nay.
2.2. Những tác động quan trọng của Công đoàn để nâng cao ý thức chính trị của GCCN Việt Nam
2.2.1. Công đoàn trực tiếp giáo dục lý luận chính trị cho GCCN
Giáo dục lý luận chính trị có thể coi là hoạt động quan trọng nhất để nâng cao ý thức chính trị cho GCCN. Trong giai đoạn hiện nay yêu cầu hàng đầu của giáo dục lý luận chính trị là nhằm tăng cường sự thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục tâm trạng bi quan, giảm sút niềm tin về CNXH, xây dựng GCCN vững vàng về chính trị, giác ngộ về giai cấp, thiết tha phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Xuất phát từ những yêu cầu đó mà công tác giáo dục lý luận chính trị cho GCCN của Công đoàn cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Trước hết, phải giáo dục, tuyên truyền để công nhân nhận thức rõ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng nước ta.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng và khoa học, là học thuyết duy nhất trong thời đại ngày nay đã chỉ ra con đường để giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện lý tưởng XHCN và CSCN. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vũ khí vô địch giúp chúng ta giành được thắng lợi to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc và ngày nay chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đang là vũ khí tư tưởng không gì thay thế được trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng VII đã khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động [5, tr. 127]. Đến Đại hội Đảng IX Đảng ta lại tiếp tục khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [9, tr. 20].
Công đoàn với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN, là trường học CNCS của GCCN, phải không ngừng tuyên truyền, phổ biến để GCCN nắm vững được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, công nhân biết đấu tranh chống lại những luận điệu và thủ đoạn đả kích, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của những thế lực thù địch, những kẻ cơ hội. Đây có thể coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN trong giai đoạn hiện nay, như Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ:
Khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng thì đấu tranh để bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta [7, tr. 7-8].
Cùng với việc giáo dục này, Công đoàn có trách nhiệm giáo dục cho công nhân thấm nhuần mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là luận điểm trung tâm, xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Hồ Chí Minh, dân tộc là trên hết, Tổ quốc là trên hết, không có gì quý hơn độc lập tự do. Độc lập tự do là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở vững chắc bảo đảm cho độc lập tự do. Chỉ có độc lập thực sự mới có địa bàn và con người để xây dựng CNXH, và chỉ có xây dựng CNXH mới thực sự có độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cách mạng Việt Nam trong suốt chặng đường hơn 70 năm qua, trên thực tế, đã thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc với sự cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý tưởng XHCN và xây dựng CNXH trên cơ sở nền độc lập dân tộc và cũng để bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: "Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đòi hỏi phải nắm chắc hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc" [7, tr. 9].
Vì vậy, cần giáo dục cho công nhân thấy rõ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam mà Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc ta đã lựa chọn. Chúng ta phải kiên trì con đường đó. Có nhận thức được như vậy, công nhân mới tránh được thái độ bi quan, thiếu tin tưởng vào con đường cách mạng Việt Nam, mới đem hết sức mình phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH nhằm phát triển kinh tế làm cho dân giàu, nước mạnh và cũng không quên đi nhiệm vụ giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Thấm nhuần tư tưởng này GCCN mới thấy rõ lợi ích của giai cấp mình gắn bó chặt chẽ với lợi ích của toàn dân tộc. Có độc lập dân tộc phải tiếp tục xây dựng CNXH, xây dựng CNXH vẫn không quên đi nhiệm vụ giữ vững độc lập dân tộc trước sự chống phá của các thế lực thù địch. Đảng ta chỉ rõ "Lợi ích GCCN thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [9, tr. 86-87].
Đặc biệt, phải giáo dục cho công nhân nhận thức rõ về SMLS của mình. Trước sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, nhiều người đã dao động hoài nghi về SMLS của GCCN. Nhân cơ hội này các thế lực thù địch ra sức phê phán, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin mà trọng điểm là phủ nhận SMLS của GCCN và vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Họ cho rằng GCCN chỉ giỏi phá hoại cái cũ, không biết xây dựng xã hội mới. Thời đại ngày nay là thời đại của "văn minh trí tuệ" cho nên trước hết phải trao quyền lãnh đạo xã hội cho đội ngũ trí thức. Những quan điểm đó là không đúng cả về lý luận và thực tiễn nhưng nó lại tác động không nhỏ đến GCCN, làm cho chính một bộ phận GCCN cũng hoài nghi về SMLS của giai cấp mình. Đây là điều hết sức nguy hại. GCCN không thể hoàn thành được SMLS của mình nếu không nhận thức đúng về sứ mệnh ấy.
Lúc này hơn lúc nào hết, Công đoàn cần giáo dục, tuyên truyền để công nhân thấy rằng, trước đây cũng như hiện nay, GCCN luôn là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Vì vậy GCCN là giai cấp duy nhất mà không một lực lượng xã hội nào có thể thay thế, nhiệm vụ to lớn là lật đổ chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới - XHCN và CSCN. Trước đây, thông qua Đảng tiền phong của mình, GCCN đã lãnh đạo nhân dân ta giành được thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng XHCN, GCCN vẫn là lực lượng nòng cốt, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua những khó khăn thử thách vững bước trên con đường đi lên CNXH. Những thành công của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã chứng tỏ năng lực lãnh đạo của GCCN, chứng tỏ vai trò không thể thay thế của nó trong sự nghiệp lãnh đạo nhân dân ta xây dựng đất nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc.
Có nhận thức được như vậy, GCCN mới thoát khỏi mặc cảm tự ti, mới thấy tự hào về giai cấp mình, thấy được trách nhiệm nặng nề nhưng vẻ vang của mình, từ đó mà có ý thức vươn lên về mọi mặt để xứng đáng với vị trí và vai trò này.
Giáo dục cho GCCN nhận thức rõ về tầm quan trọng của khối liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong việc giáo dục lý luận chính trị cho GCCN. GCCN Việt Nam có SMLS vô cùng to lớn và phức tạp. Thế nhưng, GCCN chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong dân cư và lực lượng lao động xã hội. Vì vậy, để hoàn thành SMLS của mình, GCCN phải biết nhân sức mạnh của mình bằng việc liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, phải tập hợp được chung quanh mình tất cả những giai cấp và tầng lớp xã hội có chung lợi ích cơ bản, lâu dài để có lực lượng đủ mạnh. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng nếu giai cấp vô sản tiến hành đấu tranh một cách đơn độc chống giai cấp tư sản, thì không giữ được vai trò lãnh đạo cách mạng, không thể có đủ sức mạnh để giành thắng lợi cho cách mạng, thậm chí thất bại đau đớn.
Trước đây, GCCN đã xây dựng tốt khối liên minh này nên cách mạng nước ta đã giành thắng lợi to lớn. Ngày nay, liên minh này phải được mở rộng một cách toàn diện và đặc biệt là liên minh về kinh tế. Liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức nhưng dưới sự lãnh đạo của GCCN. Điều này, trong thực tế, thể hiện trong việc giữ vững được vai trò quan trọng của công nghiệp, vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước, và sự gương mẫu của GCCN trong quá trình liên minh.
Nhận thức được tầm quan trọng trong việc giáo dục, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho GCCN, Công đoàn Việt Nam luôn khẳng định nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục của mình là "Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về giai cấp và chính trị cho giai cấp công nhân, giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh" [42, tr. 84-85]. Công đoàn đã tiến hành một loạt hoạt động mà đặc biệt là việc tổ chức học tập những bài giảng chính trị cơ bản cho công nhân trong hệ thống Công đoàn cả nước, nhằm trang bị cho công nhân những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ban Tư tưởng và Văn hóa của Tổng liên đoàn đã tổ chức biên soạn và xuất bản cuốn sách: "Những bài giáo dục chính trị cơ bản trong công nhân lao động", đồng thời tổ chức màng lưới báo cáo viên là các nhà khoa học, lý luận chuyên sâu về GCCN và tổ chức Công đoàn ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tư tưởng và Văn hóa Trung ương, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, trường Đại học Công đoàn, Tổng liên đoàn... giúp các tỉnh, thành phố và Công đoàn ngành Trung ương tổ chức tập huấn báo cáo viên, giảng viên để triển khai ở cơ sở. Kết quả, tính đến tháng 12 năm 2000, trong cả nước đã có 1.720.000 công nhân, viên chức và lao động được học tập 5 bài giáo dục chính trị cơ bản trong công nhân lao động. Nhiều Công đoàn ngành, Liên đoàn Lao động địa phương có tỉ lệ công nhân tham gia học tập cao và tổ chức học tập có chất lượng như Ban Công đoàn Quốc phòng 100%, Công đoàn ngành Đường sắt 92%, Công đoàn tỉnh Đồng Tháp 91%, Phú Thọ 90%, Lâm Đồng 85%... [53, tr. 4].
Có thể nói, việc tổ chức học tập những bài chính trị cơ bản cho công nhân lao động trong tình hình hiện nay là đúng đắn, kịp thời và bổ ích. Nó góp phần bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, công nhân đã được qua các lớp học tập chính trị trước đây, đồng thời nó cũng trang bị những kiến thức lý luận chính trị cơ bản cho đội ngũ công nhân trẻ mới được bổ sung từ học sinh phổ thông, bản thân chưa hiểu biết nhiều về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về SMLS của GCCN. Từ đó, góp phần định hướng, củng cố niềm tin của công nhân vào con đường đi lên CNXH ở nước ta; nâng cao ý thức về SMLS của GCCN, trách nhiệm của công nhân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho công nhân, tích cực tham gia vào nhiệm vụ đấu tranh chống các âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, công tác giáo dục lý luận chính trị cho GCCN của Công đoàn cũng còn những hạn chế, đó là các bài giảng còn quá dài, còn thuần túy lý luận mà chưa có liên hệ với thực tiễn địa phương, cơ sở, nhất là những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, việc làm, đời sống, quan hệ lao động mà công nhân quan tâm. Hơn nữa, nội dung bài giảng còn chưa phù hợp với từng đối tượng (cả những công nhân đã được học tập chương trình lý luận Mác - Lênin lẫn những công nhân trẻ chưa qua đào tạo cơ bản đều học cùng một nội dung). Hình thức tuyên truyền cũng chưa phù hợp với từng đối tượng. Nhiều tỉnh, thành, Công đoàn ngành Trung ương tỷ lệ công nhân được học tập lý luận chính trị còn rất thấp. Đến tháng 12 năm 2000 tỉnh Thanh Hóa chỉ đạt 40%, tỉnh Cà Mau: 40%; tỉnh Bạc Liêu chỉ đạt 5%; ngành Xây dựng: 21% [53, tr. 4]. Bên cạnh đó, chất lượng học tập ở một số nơi chưa cao, do không có thời gian nên học theo kiểu đối phó, chương trình bị dồn nén, cắt xén. Có nơi học tất cả các bài lý luận chính trị trong một buổi. Việc giáo dục lý luận chính trị cho công nhân mới chỉ cho công nhân trong các doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn, vì vậy còn rất nhiều công nhân ở các doanh nghiệp không có tổ chức Công đoàn chưa được học tập.
2.2.2. Công đoàn giáo dục về đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước cho công nhân
Giáo dục về đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm làm cho công nhân hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, nêu cao tinh thần trách nhiệm công dân. Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam đã xác định một trong những nội dung tuyên truyền, giáo dục của Công đoàn là: "Tuyên truyền về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để công nhân, viên chức và lao động không ngừng nâng cao hiểu biết, phấn đấu hoàn thành nghĩa vụ công dân và biết tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình" [42, tr. 85].
Đường lối của Đảng bao gồm nhiều nội dung trong nhiều lĩnh vực. Nhưng quan trọng nhất là Công đoàn phải giáo dục để công nhân nhận thức rõ đường lối của Đảng về con đường cách mạng Việt Nam; về phát triển kinh tế - xã hội; về cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; về xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Về con đường cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định "... quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [9, tr. 20]. Công đoàn cần giúp công nhân hiểu rõ đây là con đường đúng đắn mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Tuy nhiên, sự bỏ qua này không phải bỏ qua một cách siêu hình, đào hố sâu ngăn cách giữa CNTB và CNXH, mà bỏ qua một cách biện chứng, tức là chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Con đường đi lên CNXH ở nước ta không phải dễ dàng mà đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều thời gian với nhiều chặng đường, nhưng đó là con đường đưa nhân dân ta đến cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Về đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế của nước ta là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh [9, tr. 24].
Với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Công đoàn cần giúp công nhân hiểu rõ định hướng phát triển của Đảng đối với từng ngành, vùng, thành phần kinh tế như thế nào. Đồng thời cũng chỉ rõ cho công nhân thấy tư tưởng của đường lối này là phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, để từ đó công nhân thấy được cần phải góp sức mình vào việc thực hiện đường lối phát triển kinh tế đó, vì lợi ích của bản thân mình, gia đình mình và của xã hội.
Về đường lối cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Đảng ta khẳng định phải đổi mới thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật,kỷ cương, tăng cường pháp chế; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. Công đoàn cần quán triệt những quan điểm này của Đảng đến với công nhân, để công nhân có ý thức trong việc chống tham nhũng, quan liêu, thủ tục hành chính rườm rà, góp phần xây dựng bộ máy trong sạch nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Về đường lối xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Đảng ta khẳng định phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng, củng cố các tổ chức Đảng; đổi mới công tác cán bộ, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Công nhân cần nhận thức rõ những quan điểm này của Đảng để góp sức mình vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Trong những năm qua, Công đoàn đã rất chú trọng đến hoạt động tuyên truyền giáo dục đường lối của Đảng cho công nhân. Công đoàn đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục mang tính chất quần chúng:bồi dưỡng hàng nghìn báo cáo viên, tuyên truyền viên từ trung ương đến cơ sở; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình của Công đoàn ở trung ương và địa phương để phổ biến các Nghị quyết Hội nghị Trung ương, các Nghị quyết Đại hội Đảng; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về Bác Hồ. Cụ thể như các cấp Công đoàn đã tích cực tuyên truyền, vận động, tổ chức cho công nhân tham gia cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2, khóa VIII). Tháng 3 năm 2001, để thiết thực chào mừng Đại hội lần IX của Đảng, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phối hợp với Ban Tư tưởng và Văn hóa Trung ương biên tập cuốn tài liệu hỏi - đáp "Sự nghiệp đổi mới của Đảng với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam", nhằm giới thiệu những nét cơ bản về thành tựu đổi mới của Đảng ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, các Nghị quyết của Đại hội VI,VII,VIII của Đảng và Văn kiện dự thảo trình Đại hội IX của Đảng... để tăng thêm lòng tự hào, niềm tin của công nhân vào sự lãnh đạo của Đảng, tự giác phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Từ tháng 12 năm 2000 đến tháng 3 năm 2001, Ban Tư tưởng và văn hóa Trung ương đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức cuộc thi tìm hiểu "Đường lối đổi mới và thành tựu đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam" để chào mừng Đại hội IX của Đảng đã thu hút được gần 3 triệu người lao động dự thi. Đây là cuộc thi có quy mô rộng lớn nhất và có số công nhân, viên chức, lao động dự thi nhiều nhất từ trước đến nay do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tổ chức [68, tr. 1]. Sau Đại hội IX của Đảng, Công đoàn đã tổ chức nghiên cứu và tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết Đại hội trong công nhân. Bên cạnh đó, các cấp Công đoàn còn rất quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng và phát triển Đảng trong công nhân ưu tú. "Trong năm 2000, đã có hàng ngàn đoàn viên công đoàn được kết nạp vào Đảng" [44, tr. 44]. Ngoài ra, Công đoàn còn tổ chức hàng loạt các phong trào thi đua như phong trào "Lao động giỏi", "Lao động sáng tạo", "Giỏi việc nước, đảm việc nhà"... trong công nhân, viên chức, lao động nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế - xã hội do Đảng đề ra.
Cùng với việc giáo dục đường lối của Đảng, Công đoàn phải tuyên truyền chính sách, pháp luật của Nhà nước cho công nhân, mà trước hết là những chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của công nhân như chính sách việc làm, chính sách tiền lương, chính sách trợ cấp xã hội, chế độ bảo hiểm xã hội...; các luật quan trọng như Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn, Luật Doanh nghiệp... Có hiểu biết những vấn đề cơ bản trong các văn bản đó, công nhân mới có cơ sở để đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp cũng như thực hiện tốt những nghĩa vụ của mình, nêu cao tinh thần làm chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Công đoàn cũng đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền như biên soạn tài liệu có nội dung thiết thực, mở các chuyên mục hỏi - đáp trên các bản tin, sổ tay Công đoàn và phát hành rộng rãi đến tận tổ Công đoàn, Công đoàn bộ phận...; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến các chính sách, pháp luật của Nhà nước để công nhân hiểu rõ, hiểu đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công đoàn còn tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về các bộ luật, thu hút được nhiều công nhân tham gia như cuộc thi tìm hiểu Bộ luật Lao động do Liên đoàn Lao động Quảng Ninh tổ chức đã thu hút được 68.014 người tham gia, liên đoàn lao động thành phố Hồ Chí Minh tổ chức thu hút được 34.554 người tham gia, cuộc thi tìm hiểu "Bộ luật hình sự năm 1999" đã thu hút 753.000 công nhân tham gia [60, tr. 4].
Công đoàn còn tổ chức các lớp học để trang bị những kiến thức cơ bản về chính sách và pháp luật của Nhà nước. Theo báo cáo kết quả điều tra xã hội học về tình trạng GCCN Việt Nam đến thời điểm 1999, của Viện Công nhân và Công đoàn, thì tỉ lệ công nhân được học tập những luật, những chính sách liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của công nhân khá cao, như Luật Công đoàn: 76,99% công nhân đã được học, Luật Lao động: 82,62%, chính sách bảo hiểm xã hội: 74,80 %; chính sách bảo hiểm y tế: 73,79% [54, tr. 25].
Đặc biệt, Công đoàn còn tuyên truyền phổ biến cho công nhân về ký kết hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện phương châm: "công nhân biết, công nhân bàn, công nhân làm, công nhân kiểm tra". Kết quả ở một số địa phương, số doanh nghiệp đã ký hợp đồng lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Tính đến 1997, ở tỉnh Bà Rịa - Vũng tàu gần 90% đã ký hợp đồng lao động, trong đó, doanh nghiệp nhà nước địa phương đạt tỷ lệ 98,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 100%, doanh nghiệp tư nhân đạt 71,9%. Tỉnh Bình phước: 91,7% doanh nghiệp đã ký hợp đồng, trong đó doanh nghiệp nhà nước 96,7%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 60%. Tỉnh Hà Tây có 100% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ký hợp đồng lao động, 81% doanh nghiệp nhà nước và 79% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã giao kết hợp đồng lao động. Về ký thỏa ước lao động tập thể, thì tính đến 1997 có 58,8% số doanh nghiệp đã ký [57, tr. 3]. Về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, thì tính đến năm 2001 có 96,68% công nhân lao động được tuyên truyền phổ biến, 95,73% doanh nghiệp đã triển khai xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế dân chủ [62, tr. 4].
Nhờ những hoạt động tích cực của Công đoàn mà trình độ nhận thức của công nhân về Đảng, về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được nâng lên rõ rệt và công nh