Luận văn Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975

Khác với các thể loại khác, ký luôn đòi hỏi sự có mặt trực tiếp của tác giả trong tác phẩm.

Trong kí tự sự, người đọc không chấp nhận cách khai thác gián tiếp. Người kể chuyện

là người trong cuộc, chứng kiến, quan sát, lắng nghe và tham dự trực tiếp một phần vào công việc.

Trong kí trữ tình “cái tôi nhiều khi trở thành một trong những trung tâm tác động qua

lại với những điển hình về người thật việc thật trong cuộc sống. Ở đây cái tôi hiện hình như

một nhân vật trữ tình để thu về những ấn tượng mạnh mẽ của cuộc đời và phát biểu ra những

cảm xúc, suy nghĩ”[16/47].

pdf102 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5133 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm của tùy bút, bút kí trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến cái đằm đất, từ hai người cầm chuôi đằm rút xuống chỉ còn một người, và một người ấy lại đằm được gấp bốn lần công sức bốn người kia.”[86/119]. Cũng vì thế nên Nguyễn Tuân hiểu được niềm vui của những người công nhân trẻ ở mỏ than Quỳnh Nhai khi nấu thành công những mẻ than đầu tiên – rất nhẹ, rất trắng đến nỗi thích quá “liền rủ nhau thịt chung một con cầy, góp nhau mua rượu ăn mừng.”[86/283]. Giản dị đấy mà ý nghĩa biết nhường nào. Đó là những anh chiến sĩ biên phòng ở đồn Tây Trang, nơi mà “tất cả bốn mùa trong một ngày, là chỉ có gió, gió Lào”, cái thứ gió khắc nghiệt ấy không làm vơi đi cái lòng yêu Tổ quốc, say mê bảo vệ biên giới của những người chiến sĩ nơi đây. Dù thiên nhiên khắc nghiệt, dù thiếu thốn tình cảm nhưng “cái khó khăn gian khổ tình cảm anh em đã dấn lên được bằng cái lòng yêu thương đối với Tổ quốc ta xã hội chủ nghĩa này”[86/110], ở cái khoảnh núi cheo leo xa xôi vòng quanh tịt mù này cái tiếng nói của Tổ quốc truyền qua đài mỗi buổi phát thanh, nhất là mỗi buổi hoàng hôn vẫn là cái tiếng nói mà anh em cho là ấm áp tin cậy nhất. Với họ hạnh phúc giản đơn là thế, để rồi có những người như người tiểu đội trưởng của đồn, anh đã “ăn liền mấy cái Tết ở đồn Tây Trang […], anh đã liền liền đón mấy cái xuân hòa bình; ở đồn này anh đã liền liền đón lấy tuổi giời, tuổi quân và tuổi Đảng.”[86/111]. Dù được các tác giả miêu tả ở góc cạnh nào thì đẹp nhất vẫn là con người luôn ở thế chủ động, anh Lễ trong Bám biển chủ động trước thời tiết thất thường, anh công an viên đồn Ngư Thủy trong tùy bút Chế Lan Viên chủ động trong việc đem ánh sáng khoa học cho người dân, còn ông lái đò trên dòng Sông Đà chủ động trước thiên nhiên hung dữ. Nguyễn Tuân trong Sông Đà đã dành rất nhiều tâm huyết để miêu tả hình ảnh người lái đò sông Đà – một hình ảnh tiêu biểu cho lớp người mới đang khai phá vùng đất Tây Bắc. Ông lái đò Lai Châu ấy đã gần bảy mươi rồi nhưng “cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun.”[86/63], là người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình trong tình thế chiến đấu với thiên nhiên hiểm nguy, dữ dội để từ đó mà bật lên được sức mạnh, tài năng. Có khi “đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sóng đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà đá dàn trận địa sẵn.”[86/71]. Thế nhưng tất cả rồi cũng sẽ qua, “Trên dòng sông Đà, ông xuôi ngược trên một trăm lần rồi và lần nào con người ấy cũng “cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó” ở sự bình tĩnh, ở sự chủ động, và cả ở cái bề dày kinh nghiệm của trăm lần vượt thác. Nguyễn Tuân miêu tả người lái đò sông Đà không phải là ở tư thế của người bình thường nữa mà đó là người nghệ sĩ, với bàn tay và trí tuệ của người lao động trên sông nước, ông thực hiện những đường múa tuyệt đẹp trong cuộc chiến đấu với sự hung dữ của thiên nhiên. “Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng”[58/569]. Nhưng có một điều lạ là sau những cuộc chiến đấu sinh tử trên dòng sông, họ trở bình yên như chưa hề có một giây phút hiểm nguy đã từng đến với họ trước đó. Và cái hạnh phúc của họ là hạnh phúc khi coi lại thành quả lao động mà mình vừa đạt được “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá đầm xanh, về những cái hầm cá, cái hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”[86/73], bởi vì “cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông đà dữ dội, ngày nào cũng dành lấy cái sống từ tay những cái thác nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ…”[86/73]. Đó là cái ung dung, thư thái của những con người làm chủ cuộc sống. 2.2.2. Con người anh hùng, bất khuất, quật cường trong chiến đấu Con người thời kì chống Mĩ trở thành đối tượng trung tâm tạo nên nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Hình tượng con người trong kí nói chung và trong tùy bút, bút kí nói riêng là những con người có thật gắn với những sự kiện có thật, địa chỉ có thật, có tên hoặc không tên. Vì thế hầu hết trong khắp các tùy bút, bút kí chống Mĩ đều xuất hiện hình tượng con người anh hùng – bất khuất, quật cường trong chiến đấu. Nhưng điều đặc biệt đáng nói ở đây kiểu con người anh hùng không phải kiểu con người to lớn, vĩ đại kiểu sử thi mà họ là những con người bình thường, họ anh hùng trong chính đời thường của mình, trong hành động, trong suy nghĩ ngay trên chính mảnh đất của mình, chất anh hùng cũng được biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Các nhà văn “đã tìm ra giữa cái biển mênh mông của cuộc chiến tranh nhân dân thần kì này những hạt muối mặn kết tinh – những điển hình anh dũng thoạt mới đầu tưởng như không có gì đáng kể đến.”[20/52]. Trong tùy bút, bút kí chống Mĩ hầu hết các tác giả xây dựng nhân vật anh hùng dựa trên một nguyên tắc chung - đó là con người với tư cách là một công dân tích cực – con người kết tinh những gì đẹp đẽ nhất của xóm làng, của đoàn thể của dân tộc. Đó là những con người rất bình thường, rất thật, rất giản đơn nhưng ý chí, phẩm chất của họ rất cao cả, khí phách, sống ở tư thế người anh hùng, ở khả năng tự ý thức. Tập bút kí chính luận nhưng cũng rất trữ tình Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên thấm đẫm chất anh hùng ca cách mạng, những con người đi vào trang văn của ông hầu hết là những con người như thế. “Anh để nhân vật đến với chúng ta với diện mạo thường ngày, trong y phục thường ngày từ những vị trí thường ngày của họ.”[39]. Đó là cô Chao Cẩm Tú – phục vụ viên ở cửa hàng ăn Nam Phát “đã từng dưới mưa đạn, đem bia ra trận chiến hào cho bộ đội.”[92/96]. Đó còn là anh Bổng dân quân ở Tây Thôn – đang nằm cách tác giả hai cái chiếu đã hạ máy bay phản lực Mĩ bằng súng bộ binh thường, anh dũng là thế, tài năng là thế nhưng khi vợ rầy la anh cũng chỉ cười trừ. Đó còn là “o bán cháo thường hay ngồi dưới gốc đèn nhà bưu điện”[92/103] ở thị xã Đồng Hới, “thằng Jonxon lỡ tay phí đi 40 quả bom mà chẳng làm vỡ được một miếng cái nồi cháo cá ấy” để rồi sau đó khi chiều về o lại “đủng đỉnh đung đưa gánh cháo qua phố khác.”[92/103]. Tuy nhiên những con người ấy không bao giờ tự nhận mình là anh hùng, vì thế khi xuất hiện trong không gian xã hội, gắn với các sự kiện có thật và các mối quan hệ xã hội, trong thời gian hiện – thời gian của sự kiện họ càng lớn thêm về kích thước và đẹp hơn trong các mối quan hệ. Trong bút kí Chế Lan Viên, đồng chí bí thư tỉnh Quảng Bình được Hồ Chủ Tịch tặng danh hiệu anh hùng lại khâm phục những thành tích chiến đấu của nhân dân Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Vĩnh Linh và phong trào sản xuất ở Thái Bình. Còn các chiến sĩ ngoài mâm pháo lại cho là nhân dân mới thực sự anh hùng “nghĩ mình có súng đánh với giặc đã đành rồi, nhưng nhân dân không có súng cũng dám đứng xem mình đánh thế mới cừ cho chứ. Cứ nghe tàu bay ù ù thôi thế là bà con ùn ùn gánh lá, gánh vải lau đạn ra trện địa rồi ở luôn tại đó…”[92/104], còn bà con Nhân Trạch anh hùng lại thấy bà con nông dân mới thật là giỏi “cả ngày cả đêm cứ giữa đồng mênh mông bát ngát mà gặt mà hái mà cấy mà cày.”[92/105]. Tất cả họ, dù mỗi người với một cách thể hiện mình khác nhau nhưng đều có một điểm chung đó là sự hi sinh tất cả cho Tổ quốc, cho cuộc chiến tranh cứu nước. Chế Lan Viên viết: “Tôi kể bao giờ cho hết những sự việc như thế. Các mẹ, các chị, các anh, các em bé, những anh hùng vô danh có hàng vạn như thế chết ở bên bụi bờ, trong kênh rạch, nhưng sự nghiệp cao cả của họ còn mãi trên đài thiêng của Tổ quốc, trong trí nhớ giống nòi”[92/23]. Cảm hứng chủ đạo trong tùy bút, bút kí 1954 – 1975 vẫn là cảm hứng ca ngợi, đề cao, trân trọng những con người bình dị mà cao cả. Mạch cảm hứng nối liền với cảm hứng của tùy bút, bút kí 1945 – 1954 nhưng có khác chăng là bây giờ chúng ta gặp nhiều con người anh hùng ở nhiều nơi hơn, và khác chăng là bây giờ vị trí nhà văn dường như đứng thấp hơn rất nhiều so với đối tượng phản ánh của mình để mà ngưỡng mộ, để mà khâm phục. Nhưng sự ngợi ca ấy cũng rất giản dị, không ồn ào nhưng sâu lắng để từ đó thấy được sự chiêm nghiệm của nhà văn, như Chế Lan Viên viết “Có kính yêu người chiến sĩ ngoài trận địa thì cũng chớ quên cái o bán cháo ở góc phố này.”[92/104]. Với sự kiện thật, con người thật, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các tác giả xây dựng nhân vật lí tưởng của mình mà không cần kĩ thuật tưởng tượng, hư cấu như trong tiểu thuyết hay truyện ngắn. Tuy nhiên dưới con mắt của những người viết tùy bút, bút kí những con người ấy phải là những con người có nhiều đóng góp, nhiều công lao, kết tụ nhiều vẻ đẹp tinh thần và đạo đức. Dù đã trở thành nhân vật văn học nhưng vẫn phải tuân thủ theo quy tắc viết kí – người thật, việc thật. Phải thể hiện sự phát triển của tính cách sát đúng với cuộc đời nhân vật, với những trình tự không gian và thời gian xác định, với các thành tích ở những chặng đường khác nhau. Tuy nhiên không phải vì thế mà các tác giả ôm nguyên cuộc đời nhân vật vào tác phẩm của mình mà quan trọng là phải lựa chọn đúng những thời điểm nổi bật nhất để làm nổi bật tư chất anh hùng của nhân vật đó, hay có khi chỉ là một khoảnh khắc làm nên điều kì diệu. “Người anh hùng không phải chỉ là một điển hình xã hội được khâm phục bằng một loạt những thành tích cộng lại theo kiểu thống kê số học mà hiện ra như một tính cách có bản lĩnh độc đáo, có phẩm chất cao đẹp và nhiệt tình tham gia vào cuộc đếu tranh xã hội với hết sức mình.”[16/217]. Đây chính là nguyên tắc điển hình trong kí. Chính vì thế các tác giả đã lựa chọn được những giây phút tiêu biểu, theo đó nhân vật anh hùng xuất hiện trong tác phẩm không những không bị đóng khung trong khuôn khổ của nó, mà trái lại trở thành hình tượng văn học rất sống động, hấp dẫn. Đó là cái bình thản trước cái chết của một anh thợ đốt lò trong bút kí Anh Đức, “Có lần tôi đã nhìn thấy một anh thợ đốt lò chiến đấu với khẩu súng tự tạo, lấy lò than của mình làm công sự, sau khi cùng toàn đội đẩy lùi trận càn, anh bị thương nặng từ trong lò than bò ra, người anh bám đầy than đen, ngực anh đầm đìa những máu. Trước lúc chết anh bảo vợ bồng đứa con gái nhỏ lại gần, anh kề miệng hôn đứa con gái mình lần cuối.”[13]. Chất anh hùng đó đôi khi cũng là cái lạc quan điềm nhiên vô tư của các mẹ, các chị trước giờ nổ súng. “Khí thế chính trị của ta là ở cái mái chèo vỗ sóng vỗ nước, ở rừng xuồng ghe lao mũi tới như tên bắn, ở sự ung dung tự tin của các bà mẹ ngồi trên xuồng đi đấu tranh vẫn điềm nhiên ngoáy trầu ăn và các cô gái vừa bơi vừa sửa lại khăn đội đầu cho ngay ngắn”[13]. Cũng trong Bức thư Cà Mau, con người Nam Bộ còn được Anh Đức miêu tả ở cái hăng hái, dũng cảm xông pha đánh giặc của những người chiến sĩ giải phóng quân – “Trong trận tiêu diệt chi khu Cái Nước tôi có tham dự, chiến sĩ giải phóng quân ở nhà anh nào anh nấy coi hiền lành củ mỷ củ mỳ hiền lành lắm. Đóng quân trong xóm các anh bị các cô trêu cứ đỏ mặt lên hết. Thế mà ở mặt trận thì họ khác hẳn, anh nào coi cũng dữ, họ hét, họ tuốt lê lao lên, họ dồn từng tên địch vào góc tường rồi xốc tới, trói nghiến lấy.”[13]. Anh Đức viết bút kí không nhiều nhưng qua những Bức thư Cà Mau, Thư tháng bảy, Vào mùa nắng…và những tác phẩm khác trong văn học cách mạng, chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều những người anh hùng cả hữu danh, cả vô danh. Ở họ, lúc nào tác giả cũng bắt gặp sự lạc quan, hồn nhiên, ở niềm tin bất diệt vào chiến thắng. Khác với những tiểu thuyết, truyện ngắn của ông như Hòn đất, Đất… hình ảnh người anh hùng trong cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước được ông miêu tả trong cả một quá trình thì trong bút kí tác giả chỉ phát hiện và chọn lọc những nét điển hình, những khâu chủ yếu, đó chính là bí quyết của sự miêu tả mà Anh Đức đã sử dụng và thành công. Theo quan niệm của các nhà văn viết tùy bút, bút kí thời kì này, anh hùng không hẳn là người làm những việc trọng đại, anh hùng có khi là những con người với những việc làm rất nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa, những em bé với hành động, suy nghĩ rất trẻ con, những bà già, thậm chí cả bà già điên với những lời nói tưởng chừng như mơ hồ nhưng là một sự phản ứng mạnh mẽ với giặc, một lòng yêu nước thiết tha và sự ngưỡng mộ, kính phục lãnh tụ vô bờ bến… Tập bút kí Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh phản ánh những nét điển hình của phong trào đồng khởi Bến Tre vào lúc phong trào cách mạng đang cuồn cuộn dâng cao theo làn sóng căm thù và tinh thần yêu nước. Tác giả biểu dương nhiều nhân vật anh hùng từ chị Mười Lí, cô Thanh Hồng cho đến ông Mai, ông già ấp Bắc, dù hình bóng nhân vật anh hùng của ông chưa gây được sức hấp dẫn nhiều nhưng người đọc hẳn sẽ không bao giờ quyên được ý chí, khí phách của họ. Như hình ảnh của bà Năm Điên trong Ngọn lửa Mỏ Cày, một con người vì căm thù giặc mà điên, điên từ thời kháng chiến chống Pháp, và cũng dựa vào bệnh điên của mình để chửi thẳng vào mặt giặc và tìm cách tuyên truyền để giác ngộ bà con. Đó là cách yêu nước của người điên và lời phát biểu của bà thì khiến cho bao người tỉnh phải nghĩ suy “uống thuốc của tôi phải tưởng nhớ lá quốc kì, không được làm xấu quốc kì. Ốm đau mà tư tưởng “cờ sọc dưa” thì bịnh không lành, chỉ có nước chết”[46/23], và sự khảng khái của bà khi đáp lại sự chọc ghẹo của bọn lính “Tụi bây sống nhăn đó nhưng đã chết rồi. Còn Cụ Hồ thì không bao giờ! Đồng bào còn đánh tây, đánh Mĩ thì Cụ còn! Người như Cụ thì lúc nào cũng còn!…”[46/21]. Trần Hiếu Minh đã cho thấy mảnh đất miền Nam ấy “ra ngõ gặp anh hùng”, từ cụ già cho tới em bé đều nồng nàn một tình yêu đất nước, yêu quê hương và một lòng căm thù giặc sâu sắc. Ghi lại trung thành một số hình ảnh của Bến Tre đồng khởi, Trần Hiếu Minh đã có nhiều nhận xét có tính khái quát về tính cách, tinh thần của con người Nam Bộ “Đấu tranh đã thành nếp sống hàng ngày và lẽ sống hứng thú nhất của đồng bào ta hiện nay” [46/268]. Những con người ấy yêu nước một cách hồn nhiên, anh hùng mà không ai ngờ tới. Tinh thần lạc quan anh hùng đó như đã sẵn có trong máu trong thịt, trong ánh mắt, hơi thở, bước đi của họ. Họ không đắn đo suy nghĩ, cứ vậy mà lao vào công tác, vào chiến đấu, nhẹ nhõm, tưng bừng. “Những nét tính cách ấy gắn liền với nội dung của cuộc kháng chiến chống Mĩ hiện nay và gắn liền với truyền thống đạo đức của người Nam Bộ, những con người trọng nhân nghĩa, ghét áp bức”[68/289]. Nhưng trên tất cả, trong tùy bút và bút kí chống Mĩ, đẹp nhất và nổi bật nhất vẫn là hình ảnh những người phụ nữ kiên trung, chung thủy và người anh hùng giải phóng quân…. Những hình tượng đó đều được khai thác từ những điển hình xã hội tiêu biểu. Đó là những nguyên mẫu rất đẹp, giàu tính thẩm mĩ. Mỗi nhân vật, ngoài thành tích và những đóng góp lớn cho phong trào cách mạng còn bộc lộ những vẻ đẹp rất đa dạng trong nhiều mối quan hệ xã hội. Hạnh trong bút kí Ước mơ của đất của Nguyễn Thi – một hình tượng phụ nữ rất đẹp mà Nguyễn Thi xây dựng khá công phu, cụ thể. Cuộc đời con người và cuộc đời cách mạng của cô được đặt trong lòng quần chúng, lớn lên từ lòng quần chúng. Đó là một người cán bộ quần chúng, bám dân đánh giặc trong phong trào chống âm mưu địch lập ấp chiến lược ở một xã trọng điểm của tỉnh Long An. Nguyễn Thi đã xây dựng hình ảnh người cán bộ quần chúng từ ngày chị đi tìm cách mạng cho đến ngày chị được biểu dương. “Hạnh gắn liền với quần chúng trong đời sống hàng ngày, trong nguyện vọng, ước mơ cũng như trong từng nhịp thở”[68/228] nhưng không vì thế mà Hạnh hòa lẫn với mọi người, Hạnh hiện lên chói sáng như ngọn đuốc trong đêm đen dẫn mọi người đi tìm ánh bình minh cho cuộc sống. Đó là một người phụ nữ thâm trầm nhưng rất dũng cảm. Tác giả rất thành công khi xây dựng hình tượng người phụ nữ này dưới nhiều nét khác nhau, mà ở góc độ nào Hạnh cũng rất đẹp, rất đáng trân trọng. Từ việc gài mìn, cắt kẽm, bắn súng cho đến việc các em du kích Mẫn, Khỏe, Ngọt…, đến cả việc thuyết phục, lấy lòng các ông cụ, bà cụ, đến cả việc chỉ huy bộ đội. Không những thế Hạnh còn là người giải quyết cả những rắc rối của mọi người trong đời sống thường nhật, như ghen tuông, như trâu lạc đàn…. Hạnh làm được việc đến nỗi cô cũng phải ngạc nhiên về chính mình. Đặc biệt Nguyễn Thi đã để cho nhân vật có những phút giây suy nghĩ rất đời thường mà ông gọi đó là “duyên thầm”. Như cái giây phút Hạnh suy nghĩ về anh Chẩn – chồng chị và chị Tư – người đồng chí, người chị của chị trong phút giây chờ giặc đến. “Cả hai người đều đã để lại trong lòng Hạnh những tình cảm yêu thương kính trọng, một người hiền hậu thủy chung, ôm con trong bụng tất tưởi đi diệt bót, giải phóng xã nhà, một người là chồng có những kỉ niệm của tinh yêu và những câu chuyện từng trải lạ lùng về mặt biển. Nhưng cả hai người đều như còn xa, Hạnh chưa với tới được. Lời thề của họ để lại cho chị chính là việc sống chết cũng phải bám lấy bà con, đánh giặc ở nơi đây. Không bao giờ Hạnh sai lời thề đó. Nhưng muốn được vậy thì làm sao diệt cho được cái đồn này, làm sao cho bộ đội giấu quân đừng lộ, làm sao cho cô bác bớt đi lại, làm sao dời đống đá và đuổi con bò kia đi và làm sao cho bọn giặc ngoài thị trấn đừng thình lình vào bắt mình…một trăm cái làm sao không tên không tuổi khi bước vào giây phút đợi chờ nổ súng bỗng hiện ra bề bộn, sắc sảo canh cánh trong kẽ mắt.”[79/121]. Dù không phải là những trang miêu tả nội tâm sâu sắc vì đặc trưng của bút kí là ghi chép nhanh, nhân vật anh hùng, chủ yếu được khai thác ở hành động, ngôn ngữ, phần nội tâm nhân vật ít được nói đến, mặt khác, do phẩm chất khiêm tốn và tinh thần tôn trọng người khác nên những con người này rất ít muốn phô bày nội tâm. Việc miêu tả nội tâm nhân vật anh hùng thường được thực hiện chủ yếu qua phần cảm nghĩ và ngôn luận trực tiếp của nhân vật. Tuy nhiên không vì thế mà trong tùy bút, bút kí thiếu đi những dòng cảm nghĩ ấy. Đó là những trang văn đẹp đầy cảm xúc. Cũng chính những trang văn này mà nhân vật anh hùng hiện lên không khô khan, sống sượng trái lại rất sinh động, chân thật và hấp dẫn, gần gũi. Trong bút kí của Bùi Hiển, hình ảnh người phụ nữ đẹp ở tinh thần trách nhiệm, luôn lạc quan và tin tưởng, dám vượt lên khó khăn để giữ lấy quyền sống không phải cho mình mà cho dân tộc. Bùi Hiển kể về cô gái Nguyễn Thị Minh Sinh – nữ nhân viên bưu điện hai mươi tuổi nhỏ nhắn, e thẹn trước khách lạ nhưng những gì cô làm thì không hề nhỏ một chút nào “chung quanh bom đạn nổ rền, nền nhà và tổng đài rung chuyển, bụi rơi lả tả từ trên trần. Cô nhân viên điện thoại chỉ có một suy nghĩ: nghe, cố nghe cho rõ để cắm số thật nhanh và không bị nhầm lẫn. Ngay bên dưới chân ghế có sẵn một cái hầm xây lúc cần chỉ việc mở cái nắp gỗ tụt xuống. Nhưng cô đã quên cả nghĩ tới hầm.”[28/158]. Để rồi sau đó mọi liên lạc đã được thông suốt, việc làm to lớn là vậy nhưng cô lại nghĩ đó là việc rất bình thường. Rõ ràng “Tinh thần trách nhiệm đã khiến cho cô gái điện thoại viên trở nên gan dạ lạ lùng. Một cái gan dạ rất có ý nghĩa mà cũng rất tự nhiên, gần như đã thấm sâu vào máu thịt.”[28/158]. Đó là một trong những gương mặt điển hình trong số rất nhiều, rất nhiều gương mặt mà tác giả đã gặp, đã trân trọng, kính phục. “Quả thật, tinh thần trách nhiệm, chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã thấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Đế quốc Mĩ tưởng những trận mưa bom mưa đạn của chúng có thể phá hoại cuộc sống bình thường của nhân dân ta nhưng chúng lầm to. Với những con người anh hùng của dân tộc anh hùng, cuộc sống của chúng ta vẫn tiến tới.”[60]. Đó còn là những chị Thuận – “người con gái ấy, cũng chính là chân lí của chúng ta”[73/79]; là chị Hai, chị Ba chị Bảy trong Sóng Cửu Long của Trần Hiếu Minh, bị bắt giam hết nhà lao này đến nhà lao khác nhưng vẫn một lòng kiên trung với Đảng, là Nghị - cô gái mà trong ngày cưới không có mặt chú rể và khi mang thai mới được một tháng lại nghe tin chồng hy sinh nhưng vẫn vẹn toàn bổn phận làm dâu và việc nước…. “Họ nhẹ nhàng lướt trên tất cả như những cánh chim kia bay bổng lên trên những tầng mây khói lâng lâng giữa trời xanh. Họ cứ vậy mà chiến đấu để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước, bảo vệ tuổi trẻ và hạnh phúc của họ đang bị đe dọa từng giờ từng phút. Họ là những lớp sóng mới dấy lên từ chủ nghĩa anh hùng mới, quốc phong mới, thời đại mới của dân tộc và đang cuồn cuộn kéo theo muôn ngàn lớp khác nối tiếp nhau qua bao thế hệ như nước kia, sóng kia không ngừng cuồn cuộn trên dòng Cửu Long”[46/282]. Hình tượng người anh hùng giải phóng quân cũng là hình tượng rất đẹp được các nhà văn quan tâm. Trong tùy bút, bút kí chống Mĩ, hình tượng ấy trở nên sinh động và chân thật hơn bao giờ hết. Đó là những con người này rất đa dạng, tuổi đời, tuổi quân không giống nhau, sinh trưởng trên nhiều vùng đất khác nhau của đất nước, hoàn cảnh sinh sống cũng như điều kiện chiến đấu không giống nhau, hình dáng và tính cách mỗi người một vẻ. “Nhưng họ đều có một nét nổi bật giống nhau và cũng là nét đẹp tập trung nhất: đó là ý chí tiêu diệt địch, lòng tin tuyệt đối vào thắng lợi và quyết tâm sắt đá chiến thắng quân thù. Ý chí đó, lòng tin đó, và quyết tâm đó được biểu hiện bằng muôn vàn hành động dũng cảm, mưu trí, sáng tạo.”[63]. Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Khánh Vân … đều dành những trang văn đẹp nhất cho hình tượng nhân vật này. Trong đó rất nhiều anh hùng được nêu tên như Lê Văn Nghiêu, như Kơ Lơng… trong các tác phẩm như Người dũng sĩ dưới chân núi Chư Pông, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đại hội anh hùng, Những câu nói ghi trong đại hội…. Đọc Người dũng sĩ dưới chân núi Chư pông, ta thấy hiện lên hình ảnh tuyệt đẹp của Kpa Kơ Lơng – người con của rừng núi Tây Nguyên bạt ngàn, hùng vĩ. “Mới mười tám tuổi Kơ Lơng đã đi gần suốt đời của dân tộc mình, của các dân tộc Tây Nguyên, từ những ngày tăm tối cho đến những ngày bừng sáng, từ căm uất nghẹn đầy cho đến rung rung đứng dậy, từ những ngày tay trắng cho đến những ngày cầm súng và cái cách cầm súng của anh cũng rất Tây Nguyên, rất Việt Nam”[73/62]. Con người ấy mang trong mình tất cả mối hận thù của cha anh, của cả dân tộc Gia-rai với một trái tim “bằng thép”. Anh biết đánh giặc từ năm mười ba tuổi và vào du kích năm mười bốn tuổi, dù nhỏ tuổi nhưng lại luôn không bằng lòng với cách đánh mỗi viên đạn, một quân thù, để rồi sau đó anh đã tìm ra cách đánh mới, rất Kơ Lơng – bắn xâu táo – mỗi viên đạn bắn được rất nhiều tên giặc. Trong cuộc đời ấy cho đến lúc đứng trên bục danh dự anh đã “giết được một trăm hai mươi bốn tên Mĩ – Ngụy, phá tan được tám xe cơ giới.”[73/72]. Sức mạnh của con người đó không phải ngẫu nhiên mà có, đó là sức mạnh “dồn lại trong những ngày nghiền ngẫm về mối thù của cha, mối thù Pắc-dố, về nỗi đau lâu dài ghê gớm của dân tộc.”[73/70]. Vẻ đẹp của anh còn được thấy ở sự coi thường cái chết, coi cái chết thật giản đơn, thật nhẹ nhàng “em rút rồi ai chặn giặc cho các anh lui. Lúc đó em bị thương rồi, em ở lại em chết cũng được, em còn nhỏ, làm được ít việc. Các anh phải sống, các anh là cán bộ, làm được nhiều việc cho dân tộc mình.”[73/71]. Với giọng điệu tôn sùng, ngợi ca, các nhà văn đã tạc những bức tượng đẹp về người chiến sĩ giải phóng quân. “Nó không chỉ là nguồn cổ vũ của quân và dân miền Nam mà còn là những hình tượng cụ thể và sinh động, những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, có sức rung cảm mãnh liệt và tác dụng giáo dục to lớn đối với quân và dân miền Bắc.”[63]. Trong các tác phẩm viết về anh hùng, chiến sĩ trong kháng chiến chống Mĩ, những tác phẩm có giá trị văn học thực sự chưa nhiều, tuy nhiên những tùy bút, bút kí của Anh Đức, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Chế Lan Viên, Bùi Hiển chính là những tác phẩm vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học và gây nhiều ấn tượng với bạn đọc vì những ưu điểm khá cơ bản, vì không chỉ các tác giả đã “chọn lọc được những điển hình xã hội tiêu biểu, người viết không rơi vào lối kể thụ động hoặc tình trạng ghi chép tự nhiên chủ nghĩa. Các tác giả chủ động trên sườn của sự kiện và cốt truyện đã tái hiện những bức tranh cụ thể và sinh động.”[16/217] mà trong đó tác giả còn bộc lộ rất nhiều những cảm xúc chủ quan của mình, của nội tâm nhân vật. Họ - những người anh hùng trong chống Mĩ cứu nước có điểm xuất phát khác nhau, những biểu hiện tư chất anh hùng cũng khác nhau nhưng đó những con người anh dũng, bất khuất, quật cường trong chiến đấu, đều là những tính cách sinh động và vẹn toàn về phẩm chất, góp phần cùng cả dân tộc đánh thắng giặc Mĩ xâm lược đem lại tự do cho dân tộc, họ rất đáng được ca ngợi, kính phục. 2.2.3. Hình ảnh “chúng nó” trong tùy bút, bút kí viết về chiến tranh Nếu như viết về con n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH016.pdf