Thơlục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi nhưlục bát của Đoạn trường
tân thanhvà gần nhưca dao, có cảthơ đùa cợt kiểu ca dao ( Tuy nhiên, Em có
mặc quần, Lời sơn nữ)Nhiều bài thơcủa Bùi Giáng có giọng thơcủa thơlãng
mạn 1930 – 1945 ( Ly Tao I, Ly Tao III, Màu trời đó ) Cảm hứng chính của
thơBùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Nguyên Xuân,
Cỏhoa hồn du mục, Dưvang )
168 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2949 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Giáng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết nếp nền/Cung vang
lừng bậc điệu đền bù xoang/Mẹ về ngõ vắng vườn hoang/Thừa thiên sông
lạnh kéo sang khu rừng"..."Mẹ nhìn con nữa còn chăng/Mẹ đi đứng gót mẹ
hằng hằng qua/Lúc vui buồn mẹ nhớ nhà/Quận châu xứ sở con đà lãng
quên/Phùng thăng mẹ chớ xui nên/Từng cơn điên dại khôn đền cho con"...
`
"Nghe tin con chết giữa đường/Mẫu thân Phùng Khánh càng thương con
nhiều/Con bèn tái điệp giấn liều/Chết thêm một trận hoang liêu song
trùng/Mẹ càng bất tuyệt nhớ nhung/Ngày đêm mẹ khóc vô cùng vì con"...
"Con thương Phùng Khánh vô ngần/Phùng thăng thân mẫu cũng gần như
nhiên/Nguyệt rừng lộng lẫy man nhiên/Trăng ngàn thơ dại ngậm nghiêng
nghiêng vành"...
Những câu thơ này, dù không được bình thường, nhưng nó lại gieo vào
lòng người đọc một nỗi niềm man mác. Phải chăng trong tiếng gọi mẹ thiêng
liêng ấy là một sự cô độc tận sâu thẳm hồn người ? Nhưng Bùi Giáng là như
vậy. Trong suy tư, trong cảm xúc, trong cuộc đời... ông lúc nào cũng hồn
nhiên như con trẻ.
Thơ tình Bùi Giáng đôi khi có nhắc đến một vài người cụ thể : “Bình
sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà
Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh ( tức Trí Hải Ni Cô) “ ( tiểu sử
tự ghi ) Nhưng những người phụ nữ này được Bùi Giáng tôn vinh như là mẫu
thân sinh đẻ ra mình , tuyệt không có chút gì là quan hệ nhục thể cuả tình yêu
nam nữ , nhớ mong , hờn ghen , đau khổ, hẹn hò, mộng mơ như trong thơ tình
cuả những nhà thơ khác.
Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
( Theo Áng Mây bay )
Những thương nhớ lạnh bao giờ
Đường Thu chia ngã chân trời rộng tênh
( Mai Sau Em về )
`
Kính thưa công chúa Kim Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây .
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
( Kính Thưa )
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
( Thơ Điên )
Chuyện tình yêu chỉ thoáng qua rất nhẹ vậy “ Niềm đau đớn xót xa như
vĩnh quyết “ cuả Bùi Giáng là gì ? Có lẽ xuất phát từ thẳm sâu ý thức về thân
phận thiên tài , số kiếp kẻ phong vận bạc mệnh mà Nguyễn Du nói đến trong
Độc Tiểu Thanh Ký ? Xưa nay người phong vận phải mang lấy những hận sự
, những kỳ oan , như một định mệnh , biết “ hỏi đoạn trường từ đâu “ , “dù có
hỏi trời cũng không có lời giải đáp ” . Cổ kim hận sự thiên nan vấn / Phong
vận kỳ oan ngã tự cư “. Bùi Giáng tự kham lấy những nghiệp chướng ấy
chăng , rồi nín thinh như cỏ cây:
`
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
( Mười Hai Con Mắt )
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
( Chào Nguyên Xuân )
Dấu bèo phong vận nín thinh
Sóng phơi trường mộng bình minh vô thường
Nắng hồng chiếu bóng đài gương
Lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu …
( Vẫn Là Là )
Tình yêu trong thơ Bùi Giáng vô vàn thể điệu và rất nhiều mẫu số. Ông
có Mẫu thân Phùng Khánh, mẹ Trí Hải, Kim Cương Kì Nữ, Nường Monroe,
gái Xiêm La, Gái Tô Châu, Hà Thanh Ca Sĩ, mấy em da Đen Phi Châu, Em
Mọi, Nàng Đạm Tiên, Thuý Vân, Thuý Kiều, Bé Con Bình Thạnh, những chị
miệt quê, Thiếm Năm sáo xã Tân Phong/ Thiếm về chín suối long đong thế
nào.
Những con người hữu hình, những em vô hình, những nàng sương
bóng. Bây giờ em ở nơi đâu/ cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao?, đã mang mác
thị trùng trong một Bùi Giáng tha thiết đến tê điếng, điên ngây. Bàng hoàng
đuổi bắt một bản lai diện mục ẩn huyền. Mỗi Phùng Khánh Trí Hải, mỗi Kiều
Nhi, mỗi Em Mọi là mỗi trận đại cuồng mê đế đằm đìa phủ chụp người thơ
trong bàng hoàng nương náu. Bàng hoàng thể phách, mộng hoài đêm Da Đen
`
tới Rú Rừng, Da Trắng, Apollinaire tìm người yêu có thật, dấn mình trong
diễm ảo nhu cầu. Bùi Giáng hư vô hoá tất cả trong miên trường vọng kĩ nhân
hề thiên nhất phương. Nhân vật Em trong thơ Bùi Giáng thấp thoáng bóng
hình một con người của thực tại, của kỷ niệm yêu thương, nhưng cũng là
huyễn hoặc “sương bóng” tâm tưởng để Bùi Giáng giãi bày:
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên
( Mộng)
Xin ngó lại bàn chân em bước
Vì em đi vào lúc gió đương bay
Năm ngón nhỏ như sương đầm lá ứot
Em đưa tay anh vói bắt chừng này
Ngồi kểlại chuyện ngày xưa cũ kĩ
Em không nghe vì anh cũng không nghe
( Nhiên tượng)
Bây giờ em đứng nơi đâu
Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao?
Gắng thu xếp gấp rồi vào
Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?
Trong này thiên hạ rất đông
Ăn mặc thật đẹp nhưng trong không mặn mà bằng em..
Nhà thơ buồn nhớ không biết em giờ ở đâu và “ngọn cỏ trong mình
mẩy” của em “sầu ra sao?”. Câu thơ đầy ẩn ý, hư hư thực thực, trần thế mà
phiêu bồng, rồi “Tấm quần năm trước phai màu rồi phải không?" Tại sao là
`
“tấm” mà không là “cái”, là “chiếc” hay chỉn chu hơn là ”manh” (tấm áo,
manh quần). Chữ “tấm“ ở đây rất dân giã thể hiện được cái nghèo của đối
tượng nhưng phủ đầy sự thân thương của tác giả .Chao, thi sĩ tuy mơ màng
nhưng câu hỏi ở đây, rất thực, rất chân tình, có cái gì như bẽ bàng như trách
móc mà cũng đầy thương yêu!“Trong này thiên hạ rất đông” - người thành
phố mà, ăn mặc cũng thật đẹp nhưng tác giả không thấy “mặn mà” như em
nơi thôn dã ( chắc em ở miệt ngoài chân quê). Con người bao năm mơ màng
nơi phố phường nhưng tận sâu trong lòng vẫn da diêt một thâm tình quê
kiểng, nâng niu vẻ đẹp mặn mà nguyên sơ .Và với một tình cảm như vậy nên
từ khi cất bước “khắp bến giang hà” thì ở đâu cũng không nghĩ đến ai khác
ngoài em thân thuộc, ngọc ngà “Nơi nào cũng thấy ngọc ngà đèo truông”.
Câu thơ gợi cả hai trường nghĩa đen và nghĩa bóng ! Còn thì nhớ nhung , mất
thì xa xót, cái tình người của Bùi cũng rất nhân thế. Người bạn tấm mắn của
Bùi Giáng qua đời đã ngót nửa thế kỷ, có lẽ cảnh chia biệt đó đã tạo cho ông
những xót xa buồn khổ, để rồi từ đó ông thổ lộ một cách vô cùng sâu sắc trên
những trang thơ, dựng nên bóng dáng ấm áp của những người em, người vợ .
Một nỗi nhớ nhung xa xót khôn nguôi, đôi tình nhân lỗi hẹn:
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em ..
…Một hôm nào em mở cửa đầu khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả tả
Bông lúa chín trong rừng kêu tiếng lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng bây giờ …
Em là cái chân dung toàn thiện toàn mỹ của người nữ trong cuộc đời :
em ở khắp nẻo đường, em là mây gió, là cây lá, là sông hồ..Tác giả nâng hình
ảnh em lên tầm hoàn vũ :
`
…Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng !
Những câu thơ vừa thực vừa ảo. Những câu thơ nói về một người con
gái đẹp đẽ, thánh thiện nhưng là của một tình yêu chiêm bao, một tình yêu
khoáng dật vô thường !
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên mắt
… Ồ thưa em ta thấy mộng không thường .
Cái chất Bùi Giáng huyễn hoặc thể hiện ở cái “mộng không thường”
này. Em như sương khói, như suối nguồn, em đến làm dịu mát tâm hồn thi sĩ
nhưng em không hiện hữu trong đời thực, dẫu “ôm em trong vòng tay” thì “
em vẫn trôi”, “vẫn chảy lọt qua hai vòng tay khép chặt” !
Ta thả một chiếc lá, chiếc lá trôi
Ta thả một con thuyền giấy, con thuyền giấy trôi
Ta ôm em trong vòng tay,
Em vẫn trôi…
Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong thơ Bùi Giáng, suốt
một nửa thế lỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ
cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy mà
đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường. Gái Núi, hay Em Mọi
Nhỏ, còn có tên Duồng Mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và
có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một Sử Lịch sơ
khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói. Gái Núi là một khai thị,
khai tâm, khai tứ, khai từ:
`
Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
( Mười hai con mắt)
Mở mắt để tiếp thu Mùa Xuân Tinh Thể:
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non quanh
Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã
tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết
lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo:
Em ở trong rừng
Mọi chị Mọi em
Sinh bình quây quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em Mọi
Em ở đâu rồi
( Tặng em Mọi, Mười hai con mắt)
Mọi chị Mọi em, vị chi là nhiều em Mọi.Tình yêu trong thơ Bùi Giang,
đối với chúng ta vẫn như một định đề muôn thuở , vừa quen vừa lạ. Quen vì
nó mang đến cho hồn ta sự ngọt ngào của tình người như rượu ngọt và cũng
mặn chát bẽ bàng như thuốc đắng, mà thiếu nó vũ trụ sẽ không hồn. Nó lạ vì
khác những tình yêu mà ta đã gặp hoặc nồng nàn như Xuân Diệu, bẽ bàng
như Huy Cận, phiêu du như Vũ Hoàng Chương…, tất cả đều rất thực , thực
đến mức “cắn”vào được, nhưng cáí tình của Bùi lại lưỡng phân vừa thực vừa
mộng, vừa đời vừa đạo ,vừa chạm tay vào đã sương khói bay xa, đôi lúc ảo
giác và cuồng vọng gần với Hàn Mặc Tử …Có lẽ nói mãi cũng không hết
`
được chuyện Bùi Giáng làm thơ về những người đẹp. Cho nên ta hãy đọc mấy
câu thơ mà ông "phân loại đánh giá người đẹp" trong bài Quốc sắc Việt Nam
sau đây: "Nam Phương Hoàng hậu đẹp một cách thong dong/Kim Cương
Nương tử đẹp một cách thoải mái/Hà Thanh Công chúa đẹp một cách cởi
mở/Trí Hải Ni cô đẹp một cách không lời". Bài thơ này còn dài nhưng chỉ
trích dẫn chừng này câu cũng đủ cho thấy "vị giám khảo cuộc thi Người đẹp
Việt Nam" này có con mắt tinh đời lắm. Bên cạnh những người em rất thực
thì thơ Bùi cũng thường nói nhiều đến những người em rất mộng - nguồn tạo
sinh muôn màu trong cuộc thế ! Những vần thơ xinh tươi diễm ảo đầy sức
khêu gợi nói về cây cỏ , mặt trời , chim chóc …tất cả đều trào dâng sức sống
, đều từ em, nhờ em mà sinh sôiTình yêu của Bùi Giáng là một một tình yêu
chiêm bao, một tình yêu khoáng dật vô thường ! Cái cách gọi tên nhân vật trữ
tình của nhà thơ cũng là cả một sự lạ lùng, những “em mọi”, “con”, “bé
con”.
Một sắc thái khác của thơ tình Bùi Giáng không thể không nói đến, bên
cạnh cái đằm thắm , cái ảo huyền lại còn nữa cái đuà cợt châm biếm . Một
sắc thái “tự trào” làm đa dạng thêm cái “Tình“ trong thơ ông. Một cái tình
thoáng qua, một cái tình thất vọng nhưng sự thất vọng, sự bất lực được thể
hiện trong một chuỗi cười rất đáng được chia xẻ.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Trái tim không chịu giữa đường rút lui
Bỏ đi buồng phổi sụt sùi
Trái tim không chịu lau chùi máu me…
( Kẻ qua đường )
Nhà thơ không nói gì đến cái đối tượng ái tình cuả mình , không cầu
xin, không trách móc như những vần thơ khác trong trường hợp tương tự ta
`
thường gặp .Ở đây nhà thơ chỉ nói về cái “tình si” quá mức của mình, vừa
bày tỏ vừa chế giễu , nhưng chắc rằng, sau cái “sụt sùi” , cái “máu me” này
nhà thơ chúng ta vẫn vui vẫn sống. Đó là cái nét ngồ ngộ của ái tình Bùi
Giáng mà có nguời cho rằng “thái độ hậu hiện đại trong thơ”( Hoàng Ngọc
Tuấn ). Bản chất của những vần thơ tự trào là nhà thơ “tự yêu” cái kém cỏi,
cái bất lực, cáí vô dụng của mình ; tự cười nhạo , tự chế giễu, nhưng đằng sau
cái cười nhạo đó âm thầm che giấu một tâm tình kiêu bạc thách thức “ta
trong giữa đời đục” !
Đã mười mùa xuân thi sĩ ra đi , văng vẳng bên tai ta một câu hỏi đau
đáu khi xuân về :
Mùa xuân em có về không?
Nhành mai cố quận trổ bông dịu dàng…
Câu hỏi nghe xao xuyến và nếu ta thay “cố quận” bằng một tên làng
cụ thể thì câu thơ quả thực chính là tâm trạng của chính ta, của bao người xa
quê, bao kẻ ra đi vì cuộc mưu sinh mong ngóng ngày gặp gỡ nhất là những
dịp xuân về tết đến.… Nhưng “cố quận” của Bùi Giáng phải chăng là một từ
phiếm chỉ , một miền đất đã lìa xa, một kỷ niệm, một ước vọng hơn là một
thực tại. Và người em, và tình yêu nơi ông cũng chỉ gợi ta về một giấc mộng
nơi “bờ nước cũ” của người “em xưa” .
Ta sẽ đến đứng bên bờ nước cũ
Mộng xanh ngần giậy nối giấc em xưa…
hoặc may mắn hơn, thì cũng chỉ là chốn đào nguyên tương tư hai hình bóng
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu…
`
Bùi Giáng quả một thi sĩ đặc biệt, thật khó hình dung nền thơ Việt
Nam hiện đại lại thiếu ông.Thơ tình của thi sĩ góp phần tạo nên cái sự riêng,
cái nét đặc biệt đó .
`
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM THỂ LOẠI, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU
THƠ BÙI GIÁNG
3.1 THỂ LOẠI
3.1.1. Thơ lục bát
Thơ lục bát của Bùi Giáng cũng gần gũi như lục bát của Đoạn trường
tân thanh và gần như ca dao, có cả thơ đùa cợt kiểu ca dao ( Tuy nhiên, Em có
mặc quần, Lời sơn nữ) Nhiều bài thơ của Bùi Giáng có giọng thơ của thơ lãng
mạn 1930 – 1945 ( Ly Tao I, Ly Tao III, Màu trời đó…) Cảm hứng chính của
thơ Bùi Giáng là cảm hứng lãng mạn có màu sắc Thiền ( Chào Nguyên Xuân,
Cỏ hoa hồn du mục, Dư vang…)
Sau đây là bản thống kê dựa trên sự khảo sát ở các tập thơ của Bùi
Giáng, tổng cộng 1659 bài thơ:
Bảng thống kê các thể loại thơ
Thể loại thơ Thơ tự do Thơ Đường luật
thất ngôn bát cú
Thơ song
thất lục bát Thơ lục bát
Số lượng 385 75 09 1190
Thơ Bùi Giáng có thể nói là hàng ngàn bài, cũng có thể nói là một bài
vô tận. Thể loại thơ nổi bật trong sáng tác của Bùi Giáng là lục bát. Tại sao là
lục bát? Theo như chính tác giả phát biểu"Lục bát Việt Nam là cõi thi ca
`
hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." Hậu
xét đó có là “lộng ngôn” không nhưng tình yêu của Bùi Giáng với thể loại thơ
dân tộc này quả là một đam mê mãnh liệt. Ngoài ra, ông yêu thơ lục bát có lẽ
chính vì ngưỡng mộ Nguyễn Du. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất
một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý
một câu Kiều.Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả
đời lục bát. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc Bùi Giáng không
“làm người phá đường biên” các niêm luật trong thơ lục bát. Dẫu uyển
chuyển và trân quý thể thơ này thế nào, khuôn khổ của một thể loại thơ cũng
quá chật chội với những cảm xúc và suy tưởng luôn đầy ứ của Bùi Giáng. Do
vậy, lục bát của Bùi Giáng cũng khác biệt. Đậm hồn dân tộc nhưng cũng đầy
ngẫu hứng, sáng tạo, kể cả vi phạm các quy tắc niêm luật tưởng bất biến.
Rằng xưa ký ức đàn bà
Tên là phụ nữ, tuổi là dấn thân.
.....
Trước đèn một tập mở ra
.....
Biển dâu lục địa cõi miền
.....
Cảo thơm lần giở gió giăng dậy thì
Lục bát của Bùi Giáng có những cách tân độc đáo ở chỗ: phá vỡ cấu
trúc cơ bản của lục bát “dòng trên 6, dưới 8”, ở phối thanh , ngắt nhịp, sử
dụng từ mới lạ...
`
Bảng thống kê hình thức kết cấu thơ
Bài thơ 1 câu 2 câu 3 câu 4 câu 5câu 6 câu 7 câu Trên 8
câu
Số lượng 12 152 142 219 165 157 87 256
Chúng ta phải xét mặt cấu trúc bài thơ bởi vì đó cũng là một trong những
yếu tố cần thiết để ta hình dung điệu thơ lục bát của Bùi Giáng. Như vậy, về
mặt cấu tạo một bài thơ lục bát, Bùi Giáng đã thử sức khá đầy đủ các loại
hình kết cấu. Trong đó, bài thơ lục bát 4 câu (8 dòng) và dài hơn 8 câu (16
dòng), được ông ưa chuộng hơn. Số lượng của hai dạng kết cấu này vượt trội
hơn so với các dạng khác. Tuy nhiên, nhìn tổng quát, theo chúng tôi, những
bài thơ lục bát hay của ông thường là những bài thơ ngắn. Phải chăng đó là
một nét độc đáo về hình thức thơ lục bát của Bùi Giáng?. Hơn nữa, lục bát là
một thể loại thơ, trong cảm quan người Việt, dễ làm nhưng khó hay. Thơ lục
bát của Bùi Giáng cũng thế. Rải rác ở mỗi loại kết cấu bài thơ một câu, hai
câu, ba câu,... Bùi Giáng có những bài thơ đọc xong rồi quên, nhưng cũng có
những bài thơ ông trau chuốt tỉ mỉ, làm đẹp thể thơ truyền thống của dân tộc.
Chúng ta thử đọc những bài thơ này:
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng
Ngày mai cá song phiêu bồng vẫn bay
(Như sương)
Từng con nắng nhỏ tôi gom
Nụ cười hiu hắt buổi sầu tàn phai
Nhánh đời gió lộng mây bay
`
Chiều vời vợi thả gió mây phiêu bồng
(Như sương)
và những câu thơ:
Hai tay vốc nước suối ngàn
Rắc lên cành dại giọt ngần như sương
(Xuân thôn nữ - Mưa nguồn)
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc ngưòi một con
(Mắt buồn – Mưa nguồn)
Hai bài thơ trên mở đầu tập thơ Như sương, không có tựa đề. Những ý
tứ: gom nắng nhỏ, nụ cười hiu hắt, sầu tàn phai,... rất quen thuộc, thậm chí nó
còn mang tính công thức, Nhưng những hình ảnh: ngàn trăng ngậm bóng
sương đồng, chiều vời vợi thả gió mây phiêu bồng là của riêng Bùi Giáng. Nó
góp phần làm nên giọng thơ lục bát độc đáo của riêng ông. Dung lương bài
thơ càng ít, tính hàm súc, độ dồn nén về giai điệu càng cao. Bài thứ nhất chỉ
vỏn vẹn 14 chữ, bài thứ hai 28 chữ, nhưng sức ngân của một niềm tin về một
ngày mai vẫn còn đó cái đẹp của sự sống, vang xa lắm! Hai câu lục bát sau,
trích từ hai bài thơ khác nhau, không thể bộc lộ trọn vẹn cấu trúc cả bài thơ,
không thể giúp chúng ta khảo sát giọng điệu thơ lục bát từ nó, nhưng đó là
những câu lục bát đẹp, rất đẹp của Bùi Giáng. Ở một góc độ khác, việc xây
dựng bài thơ lục bát bằng những khổ thơ chỉ có một câu (tức hai dòng thơ,
dòng lục và dòng bát) của Bùi Giáng cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Dạng
`
này được ông sáng tác cũng khá nhiều, khoảng 15 bài. Xin chép ra đây một
bài:
Xin lời nói ở trên môi
Là lời ở lại bên đời quên nhau
Bụi hồng, ấy của chiêm bao
Thì con sóng đục chìm vào nước xanh
Linh hồn, ấy ngục xin kham
Lời sai trên miệng sẽ không là lời
Xin mùa lá rụng và rơi
Sẽ lên đường gặp ấy trời mùa sau
Ra đi hẹn với xuân đầu
Buổi hồi nguyên lại pha màu bình minh
Con chim về sẽ đậu cành
Tiếng ca ấy sẽ hoà thanh với đời
(Lời xuân – Mưa nguồn)
`
Đây là một hình thức lạ của lục bát. Mỗi câu thơ nếu tách ra, sẽ là
một bài riêng lẻ. Nhưng qua ngòi bút của nhà thơ, nó cùng xuất hiện trong
một bài thơ, được kết dính với nhau bằng vần điệu và ý tình. Dù cái tứ của bài
thơ có thể được chấp nhận hoặc không, nhưng với dạng kết cấu này, Bùi
Giáng đã góp phần tạo nên sắc thái mới của lục bát. Bùi Giáng là nhà thơ rất
mê lục bát. Ở những thể loại thơ khác, ông vẫn thường xuyên xen kẽ một vài
câu thơ lục bát, hoặc dùng lục bát làm câu thơ cuối chốt lại ý tình của tứ thơ,
ví dụ như bài thơ này:
Nằm nghe mây nước bốn bề
Ngủ ngóng phong ba ba ngõ phơi
Tuyết nguyệt vèo tung theo chớp biển
Vũ vân vi vút với sương đồi
Em đi bên ấy chân tròn khép
Hai ống mơ hồ mệt ứ hơi
Khô héo một hang hờ hửng bước
Quạnh hiu tìm tõi khắp nơi nơi
Tử sinh liều cuộc ở đời
Trùng lai khập khiễng khắp trời khai sinh
(Một hang khô héo - Chớp biển)
Trong bài thơ Lời em nói (Như sương) cũng thế! Bài thơ có tất cả 8
khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng. Năm khổ đầu được viết theo thể thơ tự do, mỗi dòng
8 chữ. Đến khổ thơ thứ 6, hai dòng đầu 8 chữ, hai dòng sau là lục bát. Hai khổ
`
thơ cuối lại được viết theo thể thơ lục bát. Tôi nêu một vài ví dụ như thế để
chúng ta cùng hình dung điệu lục bát đã thấm sâu, rất sâu trong con người thơ
của Bùi Giáng. Hình thức kết câu thơ lục bát trong sáng tác của ông hết sức
phong phú. Ấy là ta chưa nêu những dạng thức như: mở đầu bài thơ là dòng
bát hoặc khép lại bài thơ là dòng lục, hoặc khổ thơ cuối bài chỉ có một dòng
bát...
Điểm cuối cùng trong việc khảo sát kết cầu thơ lục bát của Bùi Giáng
chúng tôi dừng lại ở lối thơ rớt dòng của ông. Sau đây là một vài biểu hiện
cho hiện tượng này:
Chép lời
Bờ cỏ ra hoa
Muộn từ
Cánh hạc trong tà huy bay
Hang rừng
Thiêm thiếp
Ngủ say
Giờ xuân tao ngộ
Di hài
Thu đông
(Đêm qua – Sa mạc phát tiết)
Lang thang ngõ quẹo đường cong
Đường đi uốn khúc chạy vòng co quanh
`
Hình dong chữ S khúc quành
Vô cùng yểu điệu và thanh nhã...
Ồ!
...
(Phiêu bồng ngã quẹo - Chớp biển)
Hình thức thơ ở bài Đêm qua, nếu là thơ tự do thì không có gì lạ.
Chúng ta cũng đã khá quen thuộc loại này khi tiếp xúc với Thơ mói. Nhưng,
thơ lục bát lại hiếm thấy. Cái tạng của Bùi Giáng không thích sự câu nệ, ràng
buộc. Cho nên, ở thể thơ này, Ông luôn tìm cách thể hiện mới. Hình thức ấy
thật sự có hiệu quả nghệ thuật? Phải thừa nhận rằng, với cách cấu tạo bài thơ
như thế, Bùi Giáng đã đem một luồng gió mới thổi cánh diều lục bát có từ
ngàn xưa đến thì hiện tại. Kiểu rớt dòng ở khổ thơ đầu bài thơ Phiêu bồng ngã
quẹo rất thú vị. Chưa bàn đến lối ngôn ngữ ép vần, ép thanh trong câu thơ lục
bát (rất thường thấy trong thơ ông), ý thơ: Vô cùng yểu điệu và thanh nhã vốn
đã đầy đủ về mặt ý nghĩa. Nhưng, chỉ có thế thôi thì nó là một câu văn xuôi.
Chữ ồ! cuối câu, tách ra, tạo thành dòng thơ khác, đã kéo câu văn xuôi tạm bợ
kia trở về với hơi thở quen thuộc của lục bát, Chỉ là một tình thái từ, vậy mà
nó đủ khả năng xoay chuyển tình thế, đủ để gọi đó là kiểu thơ lục bát Bùi
Giáng.
Thơ lục bát của Bùi Giáng có đầy đủ tất cả các loại nhịp điệu: nhịp đôi,
nhịp chẵn, nhịp lẻ,... Sự phối thanh và hiệp vần cũng đa dạng không kém. Bàn
về nhịp thơ lục bát và nhịp thơ lục bát của Bùi Giáng, ông Hoàng Phủ Ngọc
Tường có viết: “Nói đến thơ Việt Nam, là chắc chắn nghĩ ngay đến thơ lục
bát. Không hẳn chỉ có Việt Nam mới có thể thơ này (Chiêm Thành cũng có)
mà bởi vì đó là thể thơ của nhịp Hai, là nhịp của gàu tát nước, là tiếng võng
`
đưa, là nhịp của tao nôi, và là nhịp của trái tim đập trong lồng ngực. Thí dụ
thứ nhất thuộc về Nguyễn Du:
Trăm năm / trong cõi / người ta
Chữ tài / chữ mệnh / khéo là / ghét nhau
Bùi Giáng cũng đi nhịp hai như vậy ( trích Bùi Giáng trong tôi – Văn
hoá nghệ thuật - Chủ nhật 28/ 02/ 1999 ). Trước khi là nhịp đưa nôi, với xuất
thân từ lời đối đáp trên đồng lúa, vườn tược, sông rạch... , lục bát mang trong
mình nó hơi thở tươi giòn của cuộc sống mà không thể thơ nào có thể sánh
kịp. Như trên đã nói, nhịp thơ lục bát của Bùi Giáng khá phong phú. Nhưng
cách phối nhịp như vầy, thì chỉ có Bùi Giáng:
Sông nước chảy, núi mây bay
Tình yêu có lẽ như say sưa hoài
Đêm nguyệt sáng, ngày nhật soi
Em từ mây tụ tới trời mưa tuôn
Ngủ sáu khắc, thức năm canh
Em từ ngủ nướng tâm thành ra tro
Sông từ bến, bến sang đò
Tựu thành trời biển chơi trò ú tim
Sông tìm bến, bến tìm sông
Tìm lâu không gặp long đong khóc hoài
Sông tìm bến, bến sông tìm
Tìm chơi khuây khoả nỗi niềm tâm tư
Sông về bến, biển nhớ nguồn
`
Hỏi sông tin tức suối nguồn ra sao
Bấy lâu mưa gió dạt dào
Non ngàn cây cỏ mừng chào suối chăng?
(Ân lộc lai rai – Đêm ngắm trăng)
Đây có phải là bài thơ hay? Xin trả lời ngay rằng: không! Nhưng nhịp
điệu thơ lục bát nghe lạ! Việc chia nhịp dòng lục 3/3 một cách đều đặn tới gần
cuối bài thơ, Bùi Giáng đã làm cho bước đi của thơ lục bát mới hơn, điệu thơ
bị phá cách. Nếu ví giai điệu thơ như một bài hát thì trên chỉ toàn là điệp
khúc, không có các tổ khúc trong tiết tấu, nhạc điệu. Dù có chỗ lời thơ còn bị
ép vào khuôn nhịp một cách khiên cưỡng, nhưng Bùi Giáng đã dẫn ta đi theo
nhịp thơ lục bát của riêng ông. Thêm nữa, ông có những dòng thơ lục bát, khi
đọc lên, ta phải tức tưởi chạy theo nhịp của nó, ví dụ:
Con đường tuổi trẻ / người đi
Giẫm hoa đầu / giẫm nát / vì vô can
…..
hay:
Của em: / tình mộng tuyệt tài
Của em: / tình luỵ kéo dài tời đâu?
- Tới đâu cũng được, / có sao:
Từ đầu tiên / tới / cuối đầu tiên / đi!
(Của em - Chớp biển)
Xin hãy chú ý dòng thơ cuối của hai ví dụ trên. Rõ ràng, nhịp điệu thơ
lục bát của Bùi Giáng lạ thường! Bên cạnh những câu lục bát chính thể về vần
và thanh, chúng ta cũng gặp những câu thơ, bài thơ:
`
Vàng thau lẫn lộn chêng vênh
Làm sao phân biệt Sở Khành, Thúc Sinh?
(Chẳng hiểu nữa rồi – Thơ vô tận vui)
“Đáo đầu nha nhứt thân...
Nan đảo na nhứt nhụt...”
Nhập thần xuất thánh tụ tiên
Hình thành hư sự huyễn nhiên như hà
Phiêu bồng du hí nguyệt hoa
Tầm sưu túy điệu tịch tà vong tâm
Cầm ca hộ tống phù trầm
Tuyết băng nhi nữ cát tầm tân loan
Trùng lai dị dạng bàn hoàn
Hàn huyên ly hợp bi hoan dị hình
(Cõi người ta – Đêm ngắm trăng)
Trường ca Hy Lạp tê mê
Hoàng hoa Phenthé – Si Lée vàng vàng
(Dư vang vô lượng – Đêm ngắm trăng)
Con chữ trong câu thơ lục bát của Bùi Giáng nhảy múa theo nhịp điệu
riêng nữa rồi! Trong ví dụ thứ nhất, cách ép chữ trong phối thanh là một nét
`
ngộ nghĩnh quen thuộc. Bởi ông đã từng viết Mỹ Tho, Mỹ Thọ, Sóc Trăng
ơi... Ở ví dụ hai, ta nhận thấy, làm thơ lục bát bằng chữ Hán trên thi đàn, có lẽ
chỉ có Bùi Giáng. Trong ví dụ ba, sự phối thanh ở dòng bát đã bị phá vỡ.
Người khó tính sẽ không nghe lọt lỗ tai. Người đã quen với cái nết của ông thì
bật cười mà thốt lên: - Đúng là Bùi Giáng.
Nhìn lại, thể thơ lục bát là thế mạnh trong quá trình sáng tác của nhà
thơ. Tìm hiểu thơ ông không thể không đề cập đến thể thơ này. Dù sự đóng
góp của ông còn nhiều mặt hạn chế, nhưng chúng ta phải thừa nhận, ông đã
làm mới thơ lục bát ở nhiều phương diện. Với cái nhìn dè dặt, ta gọi nó là một
vài biến thể của lục bát. Nhưng, tôi muốn đặt một cái tên khác: lụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHLLVH009.pdf