Trong bài Viết về cáctổ hợp song tiết tiếng Việt,NN,1974, tr 22 ->
32) Nguyễn Đình Dương đã tổng kết “ Láy nghĩa để tạo nên các tổ hợp
đẳng kết là một trong những phương thức quan trọng nhất để đáp ứng nhu
cầu diễn đạt nghĩa khái quát của tư duy người Việt”(Dẫn theo Nguyễn
Thị Trung Thành). Vìtừ đơn tiết tiếng Việt khôngcó khả năng diễn đạt
một nghĩa bao quát, tổng thể. Và vìvậy, nghĩa của từ ghép đẳng lập
không đơn thuần là phép cộng nghĩa hai yếu tố cấu tạo mà nó do nghĩa
của hai yếu tố cấu tạo phối hợp tạo ra.
Nếu ta gọi N là nghĩa của toàn bộ từ ghép, A, B là hai yếu tố cấu tạo
nên từ ghép, thì về cơ bản ta có ba kiểu nghĩa của từ ghép đẳng lập như
sau:
121 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3094 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ pháp của lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ láy nhiều hơn coi chúng là từ ghép. Vì bản thân chúng
có một sắc thái biểu cảm, một sức gợi tả đặc biệt nên ở góc độ đồng đại
chúng tôi đồng tình với quan điểm coi chúng là các yếu tố trung gian
giữa ghép và láy. Và có thể coi đây là hiện tượng từ ghép đẳng lập bị
láy hóa.
Nguyễn Tài Cẩn đã giải thích hiện tượng này như sau: ngay từ thời
chưa mất nghĩa các yếu tố này ghép lại với nhau đã ngẫu nhiên có sự
tương ứng về mặt ngữ âm. Khi có một thành tố bị mờ nghĩa dẫn đến mất
nghĩa thì sự tương ứng về mặt ngữ âm kia nổi lên hàng đầu, trở thành
quan hệ chủ chốt.
Hiện tượng này sẽ tiếp tục tiếp diễn. Có 2 nhân tố rất thuận lợi cho
xu thế này, nhất là trong phạm vi từ ghép đẳng lập.
- Các thành tố đồng nghĩa, gần nghĩa ngẫu nhiên có hình thức ngữ
âm tương ứng, đây là loại tạo điều kiện thuận lợi cho việc một thành tố
bị mờ nghĩa, mất nghĩa.
- Loại thường mang ý nghĩa khái quát, tổng hợp mà có phụ âm đầu
tương ứng
4. 2. Hiện tượng từ ghép đẳng lập mang dáng dấp của từ ghép chính
phụ chúng ta cùng xem xét các hiện tượng sau
1. anh hùng, anh hào, anh dũng, công danh, công đức
2. đen dầm, tối dầm, bạc phau, trắng phau, trong vắt, trong veo,
vắng tanh, mừng rỡ
3. kính yêu (và các từ ghép có yếu tố kính: Kính trọng, kính cẩn, kính
mến, kính phục, kính nể)
40
- yêu dấu: (các từ ghép khác có yếu tố yêu: Yêu thương, yêu
chuộng, yêu mến, yêu quý, yêu đương, yêu vì
- thương nhớ (thương yêu, thương mến, thương cảm, thương đau,
thương tiếc thương xót, thương hại, thương tình)
- oan khốc, oan nghiệt, oan trái, oan khổ.
Về cơ bản hình vị, dù độc lập hay không độc lập, trong tiếng Việt có
thể kết hợp với các hình vị khác để tạo ra hàng loạt từ đa tiết (hầu hết là
hai âm tiết)
Do đặc điểm về vai trò và mối quan hệ của các thành tố trong từ
ghép đẳng lập nên khi một hình vị ghép với hàng loạt các hình vị khác
đồng nghĩa với nhau thì chúng ta có thể thấy được sắc thái ý nghĩa khác
nhau của mỗi từ. Trong trường hợp 1 và 3 nêu ở trên, các từ có ý nghĩa
giống nhau nhưng người Việt lại sử dụng chúng trong các hoàn cảnh cụ
thể khác nhau
Ví dụ: Ta có thể nói (+) và không thể nói (-)
- Cô ấy gặp quá nhiều oan trái (+)
- Cô ấy gặp quá nhiều oan nghiệt (-)
- Em yêu dấu ! (+)
- Em yêu đương (-)
- Đó là hành động anh dũng (+)
- Đó là hành động anh hào (-)
Điều này khẳng định các từ có sắc thái biểu cảm khác nhau
Dù các thành tố cấu tạo của từ ghép đẳng lập có quan hệ song song,
bình đẳng nhưng chúng không hoàn toàn độc lập với nhau. Vì thế các từ
ghép đẳng lập có cùng một yếu tố cấu tạo là một hình vị có khả năng
“sinh sản” cao, các yếu tố còn lại cùng nằm trong một trường nghĩa thì
41
chúng vẫn có những sắc thái khác nhau ấy là do các yếu tố đi sau quyết
định. Đặc điểm này làm từ ghép đẳng lập có đặc điểm gần gũi với từ
ghép chính phụ.
Trong trường hợp (2) . cũng tương tự như (1) và (3) vì các yếu tố
đứng trước có thể kết hợp với các hìnhvị khác để tạo ra các từ khác nhau
như:
Đen: - đen dầm, đen thui, đen cháy, đen nhánh …
Tối - Tối dầm, tối mò, tối thui , tối om…
Bạc - Bạc phau, bạc trắng, bạc phếch …
Ơ’ trường hợp này, các từ đều có một yếu tố bị mờ nghĩa, mất nghĩa
nên trong cách sử dụng ngày nay chúng ta dễ lầm chúng là loại từ ghép
chính phụ (Từ có kết cấu AC dễ bị coi là từ ghép chính phụ nhất).
Chúng ta dễ nhận thấy các từ ghép đẳng lập gần gũi với từ ghép chính
phụ khi:
- Hai yếu tố cấu tạo nên từ phải đồng nghĩa hoặc rất gần nghĩa (ví
dụ: yêu, kính, quý, mến, thương, tiếc,…)
- Phải có một yếu tố là yếu tố vay mượn (hoặc yếu tố là từ địa
phương) đã bị mờ nghĩa hoặc mất nghĩa gốc.
- Sắc thái biểu cảm của hai yếu tố có mức độ khác nhau.
Hiện tượng này không xảy ra đối với từ ghép đẳng lập có cấu tạo từ
hai hình vị trái nghĩa nhau.
Hiện tượng dịch chuyển từ loại này sang loại khác của các từ song
tiết tiếng Việt là có thật. Đó là sự vận động, biến đổi của các đơn vị từ
vựng trong quá trình hình thành và phát triển và đây là thực tế hiển
nhiên chấp nhận được. Vì theo phép biện chứng tự nhiên của Aêng ghen
“ Các đường phân giới rõ ràng một cách tuyệt đối không phù hợp với lý
42
luận về sự phát triển”(Trích dẫn theo( Nguyễn Thị Trung Thành, Nhận
xét về những từ ghép song tiết đẳng lập chỉ trạng thái tình cảm của con
người, NN, 15/2001)).
43
CHƯƠNG HAI
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA LỚP TỪ GHÉP
ĐẲNG LẬPTRONG TRUYỆN KIỀU
1.Cơ chế ngữ nghĩa của lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều.
Trong bài Viết về các tổ hợp song tiết tiếng Việt,NN,1974, tr 22 ->
32) Nguyễn Đình Dương đã tổng kết “ Láy nghĩa để tạo nên các tổ hợp
đẳng kết là một trong những phương thức quan trọng nhất để đáp ứng nhu
cầu diễn đạt nghĩa khái quát của tư duy người Việt”(Dẫn theo Nguyễn
Thị Trung Thành). Vì từ đơn tiết tiếng Việt không có khả năng diễn đạt
một nghĩa bao quát, tổng thể. Và vì vậy, nghĩa của từ ghép đẳng lập
không đơn thuần là phép cộng nghĩa hai yếu tố cấu tạo mà nó do nghĩa
của hai yếu tố cấu tạo phối hợp tạo ra.
Nếu ta gọi N là nghĩa của toàn bộ từ ghép, A, B là hai yếu tố cấu tạo
nên từ ghép, thì về cơ bản ta có ba kiểu nghĩa của từ ghép đẳng lập như
sau:
1.1. Từ ghép hợp nghĩa
1.1.1. Từ ghép tổng loại N chỉ là một loại lớn hơn, rông hơn, A,
B chỉ là những loại nhỏ đại diện cho loại lớn đó
Ví dụ: 1 Áo quần: TĐTV, Đà Nẵng 2002. Hoàng Phê chủ biên giải thích
+ Aùo: Đồ mặc từ cổ trở xuống chủ yếu che lưng ngực và bụng
+ Quần: Đồ mặc từ thắt lưng trở xuống, có hai ống che chân và
đùi
Nghĩa cụ thể của áo, quần trong áo quần không còn rõ ràng nữa
mà nó mang nghĩa chỉ chung tất cả những cái cần thiết mang, mặc trên
44
người. Đó là: yếm, khăn quàng cổ, khăn đội đầu, thắt lưng, giày dép,…và
Aùo và Quần chỉ là hai loại lớn tiêu biểu cho các loại đó mà thôi.
Nội ngoại: TĐTV, Hoàng Phê chủ biên 2002 giải thích
- nội: dòng họ của cha hoặc của chồng.
- ngoại: dòng họ của mẹ hoặc của vợ
Từ ghép đẳng lập nội ngoại có nghĩa cụ thể của nội ngoại bị lu
mờ. Nó phối hợp nghĩa với nhau để có nghĩa là anh em thân thích nói
chung.
Sau đây là những từ ghép loại này trong truyện Kiều:
- áo khăn, áo quần, anh yến, bướm ong, bèo bọt, búa rìu, cân đai,
chăn gối, đêm ngày, lược thao, nắng mưa,….
- yên ổn, khấn vái, quát mắng, phụng thế, tỉnh say, thăm dò, rụng
rời, sỉ nhục,……
- rụt rè, trinh bạch, thanh cao, thanh nhàn, u hiển, thấp cao, trí
dũng, anh hào, thanh tân
- vài ba, ba bốn, một hai, hai ba, ba bảy,….
I.1.2. Từ ghép chuyên loại Nghĩa N của toàn bộ từ ghép không lớn
hơn về loại so với loại mà thành tố biểu thị .
Ví dụ: Bạc phau: (phau có gốc Khme) có nghĩa rất trắng tức trắng
xoá (P.ngao)
Như vậy nghĩa của bạc phau, cơ bản vẫn là bạc chứ không bao gồm
các loại nhỏ khác như dạng từ ghép tổng loại.
Từ ghép đẳng lập có nghĩa ở dạng này bao gồm:
1.1.2.1 Ở dạng này là các từ ghép đẳng lập được tạo nên từ hai yếu
tố đồng nghĩa với nhau
45
a. Từ có hai yếu tố đồng nghĩa nhưng một yếu tố mất nghĩa hoặc
là yếu tố vay mượn
Ví dụ:
bạc phau nghĩa dồn vào bạc
bàn bạc “” bàn
chơi bời chơi
đen dầm đen
nặng nề nặng
thiệt thòi thiệt
vốn liếng vốn
ghen tuông ghen
yêu dấu yêu
hơi han hơi
bụi trần(= bụi) bụi
phụng thờ thờ
b. Hai yếu tố cấu tạo nên từ có mức độ đồng nghĩa rất cao
thường chúng chỉ khác nhau ở một nét nghĩa nào đấy.(nhìn
chung là nghĩa biểu thái )
Ví dụ:
đổi thay nghĩa dồn vào thay
đợi chờ đợi
ép nài ép
yêu quý yêu
khâm liệm liệm
oan khổ oan
phẳng lặng lặng
buôn bán buôn
46
khen ngợi khen
1.1.2.2. Hai yếu tố tạo nên từ cùng trường nghĩa chỉ hoạt động, tính
chất gần gũi nhau cùng trường nghĩa. Người Việt dùng từ
dạng này với nghĩa nghiêng về một thành tố.
ăn ở Nghĩa nghiêng về ở
ăn mặc mặc
đi đứng đi
ăn chơi chơi
chào hỏi chào
khiếp sợ khiếp
khôn ngoan khôn
lo sợ lo
lừa đảo lừa
thăm dò dò
lờ mờ mờ
Qua khảo sát lớp từ này, đặc biệt là loại a và b, chúng tôi nhận thấy
dù không hiểu được các yếu tố bị mất nghĩa, mờ nghĩa thì người Việt
cũng vẫn cảm nhận được một cái gì lớn hơn, nhiều hơn nghĩa mà yếu tố
còn lại gợi ra:
Ví dụ:
bạc phau - bạc lắm
bàn bạc - bàn đi tính lại
vốn liếng - là tất cả những gì mình có để buôn bán
chứ không phải là một số tiền cụ thể.
nợ nần - nợ nhiều nơi về số lượng nhiều.
47
Vì thế từ ghép chuyên loại không có khả năng chỉ từng sự vật, hiện
tượng cá thể,trong khi thành tố tương đương về loại vẫn có thể được
dùng để chỉ loại vừa được dùng để chỉ cá thể.
Từ đây có thể thấy việc láy nghĩa của từ ghép đẳng lập ngoài nghĩa
từ thực ra thì nó vẫn có một sức gợi tả đặc biệt. Đây làhiện tượng độc
đáo trong từ ghép đẳng lập tiếng Việt nói chung và từ ghép đẳng lập
trong truyện Kiều nói riêng. Không chỉ khi muốn diễn đạt ý nghĩa
chung, nghĩa khái quát người Việt mới sử dụng phương thức ghép này,
mà khi cần nhấn mạnh cụ thể hoá nghĩa của một từ đơn, tạo cho từ đơn
một tính biểu cảm nhất định người Việt cũng sử dụng phương thức này.
Ví dụ:
Yêu:
-Nếu như sử dụng như phương thức láy yêu yêu thì nghĩa của yêu bị
giảm đi.
- Muốn diễn tả yêu nhiều hơn thì tạo thành tổ hợp yêu lắm, rất là yêu,….
- Nhưng từ ghép đẳng lập: yêu thương thì làm được nhiều hơn cả hai
cách này.
1.2. Là những trường hợp nghĩa N không phải là tổng loại, không
chuyên loại mà do sự phối hợp nghĩa của các thành tố mà có.
Ví dụ:
trăng hoa - vuông tròn
trăng gió - mặn nồng
Vì ở loại này nghĩa của từ không chỉ các sự vật hiện tượng mà các
yếu tố nêu ra do sự phối hợp nghiã của hai thành tố mà nghĩa N là nghĩa
thiên về tinh thần là chính.
Ví dụ:
48
trăng gió - chỉ việc trai gái không nhằm mục đích đính hôn
trăng hoa - chỉ việc trai gái chơi bời.
khâm liệm - chỉ việc chôn cất người chết
băng tuyết – Chỉ sự trong trắng , tinh khiết.
non sông – xứ sở
đất nước – tổ quốc
1.3. Các cơ chế khác
Trên đây là cơ chế nghĩa cơ bản của lớp từ ghép đẳng lập trong tiếng
Việt nói chung và Truyện Kiều nói riêng. Nhưng trong Truyện Kiều
chúng tôi thấy từ ghép đẳng lập còn có các cơ chế nghĩa khác như:
1.3.1. N = Khi A Khi B
Ví dụ:
bi hoan
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng sao (3140)
chìm nổi
Bể trầm chìm nổi thuyền quyên (1903)
đứt nối
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài (104)
gần xa
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa (3198)
khép mở
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung (1208)
tỉnh say
Tiểu thư cười nói tỉnh say (1847)
nhỏ to
Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can (668)
49
hợp tan
Này ai vu thái cho người hợp tan (660)
cao thấp
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa (3198)
1.3.2. N = Cả A lẫn B
đêm ngày
Đêm ngày luống những âm thầm (2249)
dưỡng sinh
Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền (228)
gần xa
Vương quan mới dẫn gần xa (61)
trước sau
Trước sau nào thấy bóng người
trên dưới
A hoàn trên dưới dạ ran (1737)
trí dũng
Khóc rằng trí dũng có thừa (2529)
công tư
Công tư vẹn cả hai bề (2479)
1.3.3. N = A hay B
rủi may
Rủi may âu cũng tại trời (817)
bạc đen
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi (1402)
chiến hoà
Chiến hoà sắp sẵn hai bài (1373)
50
đi về
Tường đông ong bướm đi về mặc ai (28)
ra vào
Ra vào một mực nói cười như không (1566)
tử sinh
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh (3088)
sống thác
Bây giờ sống thác ở tay (1143)
đục trong
Đục trong thân cũng là thân (1423)
1.3.4. N = vừa A vừa B
khóc than
Khóc than khôn xiết sự tình (73)
nói cười
Ra vào một mực nói cười như không (1566)
hiểm sâu
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu (1168)
hiếu nghĩa
Người sao hiếu nghĩa đủ đường (2653)
van lạy
Hạ từ van lạy suốt ngày (591)
2. Những từ mang nghĩa phái sinh, hiện tượng chuyển nghĩa
trong lớp từ ghép đẳng lập:
Khi khảo sát chung lớp từ này trong tiếng Việt, chúng tôi nhận
một điều khá thú vị của lớp từ này, đó là khả năng chuyển đổi nghĩa,
51
chuyển đổi đặc tính ngữ pháp, chức năng ngữ pháp của chúng. Việc
chuyển đổi làm cho lớp từ này có một diện mạo mới.
Lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều cũng không nằm ngoài
lớp từ ghép đẳng lập trong tiếng Việt. Tìm ra cơ chế chuyển nghĩa của
chúng thì chúng ta cũng có thể vận dụng được vào khảo sát lớp từ này
trong tiếng Việt.
Truyện Kiều trước hết là một tác phẩm văn chương, vì thế ngôn
ngữ của truyện Kiều là ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đầy tính hình
tượng. Ngôn ngữ toàn dân khi đi vào tác phẩm văn chương đã mang một
diện mạo, một sắc thái mới so với chính nó. Nó là nguyên liệu xây dựng
nên tác phẩm đồng thời ngôn ngữ trong hệ thống toàn tác phẩm đã tác
động trở lại nó làm cho nó mang một hình tượng, thậm chí là một nghĩa
mới mà khi đứng trong hệ thống từ vựng nó không có được.
Lớp từ ghép đẳng lập trong Truyện Kiều cũng thế, nó là từ trong
một tác phẩm cụ thể vì thế việc chuyển nghĩa của nó xảy ra rất phổ
biến.
Chúng ta có thể nhận thấy nghĩa phái sinh của lớp từ này được hình
thành theo các hướng sau:
2.1. Trừu tượng hóa các hành động, tính chất, đặc điểm dẫn
đến chuyển nghĩa từ.
2.1.1. Dựa vào hình dạng và đặc điểm sống của các sự
vật, hiện tượng mà từ gọi tên.
Ví dụ:
- bèo bọt: - Là những vật bé nhỏ sống trên mặt nước =>Thân
phận hèn mọn, bé nhỏ không nơi nương tựa.
Sinh rằng chút phận bọt bèo (1441)
52
- bình bồng: - Bèo và bồng là thứ cỏ gặp gió lan tràn trên cát =>
thân phận sống trôi dạt, không nơi nương tựa
Bình bồng còn chút xa xôi (2937)
- phỉ phong: Danh từ gọi tên hai loài rau dại mà người dân dã
thường ăn => sự mộc mạc cần kiệm.
Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong (332)
- mai trúc: Danh từ chỉ hai loài cây chịu đựng gió mưa. => Biểu
tượng cho người trong sáng ngay thẳng
Chắc rằng mai trúc lại vầy (1679)
- bướm ong: Hai loài vật thường đi theo đàn đến hút phần nhuỵ
hoa, vì hoa là hình ảnh biểu tượng cho người con gái
nên ong bướm là chỉ khách làng chơi, những chàng
trai theo đuổi sắc đẹp.
Sợ khi ong bướm đãi đằng (1025)
- cát đằng: Hai loài cây dây leo sống nhờ những thân cây to => ý
chỉ người vợ lẽ
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng (902)
2.1.2. Dựa vào đặc tính cơ bản:
Ví dụ:
cay đắng: Hai vị rất khó chịu cho vị giác => chịu sự bất
công mà không chống lại được
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay (3036)
hôi tanh: Hai mùi khó chịu cho khứu giác => bẩn thỉu
hèn hạ
Tuồng chi là giống hôi tanh hại người (853)
53
phong ba: Sóng và gió => những biến cố dữ dội của cuộc
đời mà con người không chống lại được
Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều (1366)
hùm sói: Là hai loài vật dữ tợn chuyên ăn thịt đồng loại
và con người => người gian ác
Kề răng hùm sói gửi thân chúng tôi đòi (2670)
dọc ngang: Chỉ không gian bốn bề rộng lớn => động từ chỉ
sự vùng vẫy khắp nơi không kiêng nể ai.
Dọc ngang trời rộng, vãy vùng biển khơi (2550)
anh yến: Con vẹt hay nói và én thường hay đi theo dàn
=> người đi chơi tấp nập
Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai (944)
2.1.3. Dựa vào chức năng sử dụng
Ví dụ:
búa rìu: Danh từ chỉ hai dụng cụ ngày xưa dùng để giết
người có tội => chỉ việc phải chịu tội trừng phạt nặng
nề.
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam (1369)
bút nghiên: Danh từ chỉ hai vật gắn liền với việc học hành
thời xưa => chỉ sự học hành.
Theo đòi vả củng ít nhiều bút nghiên. (1450)
tất giao: Keo và sơn, những thứ để hàn gắn, dán các vật
lại với nhau => sự gắn bó
Một lời gắn bó tất giao 359)
Cách chuyển nghĩa này còn xảy ra ở hàng loạt các từ như:
bồ liễu: Dùng để chỉ sự yếu đuối của người con gái
54
Nát thân bồ liễu đến nghì trúc mai (746)
cát lũy: Chỉ thân phận vợ lẽ
Mặn tình cát lũy nhạt tình tao khang (1480)
áo xiêm: quan chức
Aùo xiêm buộc trói lấy nhau (2467)
binh cách: chiến tranh
Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương
binh đao: chiến tranh
Ngẫm từ gây cuộc binh đao (2493)
bướm ong: khách làng chơi
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi (938)
can trường: tấm lòng, tâm ý
Biết đâu mà gởi can trường vào đâu (1288)
vuông tròn: chỉ việc hôn nhân
Trăm năm biết có vuông tròn cho chăng
dan díu: chỉ tình cảm vụng trộm
Càng quen thuộc nết càng dan díu cành (1300)
gánh vác: Đảm đương, chịu đựng
Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành (674)
gắn bó: ràng buộc với nhau gắn bó về tình cảm
Chàng rằng gắn bó một lời (3165)
xướng tùy: theo chồng
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may (3148)
vỡ lở: Sự việc không hay được đồn đãi rộng rãi ra ngoài
Nỗi oan vỡ lở xa gần (3093)
trâm anh: nhà gia thế
55
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh (148)
sắt đá: Bền chắc
Thấy lời sắt đá tri tri ( 1403)
vàng đá: tình yêu bền chặt
Những điều vàng đá phải điều nói không (2814)
phong lôi: cơn giận dữ
Phong lôi nổi trận đùng đùng (1389)
phong nguyệt: Tình yêu
Góp lời phong nguyệt nặng thề non sông (396)
phong trần: cuộc đời vất vả nghèo nàn
Kiếp phong trần biết bao giờ cho thôi (1078)
nhạn yến: sự đổi thay của thời tiết
Đổi thay nhạn yến đã tròn đầy niên (1474)
nguyệt hoa: chỉ chuyện dâm dục gái trai
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa
Từ những ví dụ được dẫn ra trên đây ta thấy Nguyễn Du thường
chỉ chọn một nét nghĩa trong nghĩa của từng thành tố để nâng lên thành
nghĩa chính trong từ ngữ của mình. Có rất nhiều từ đã được chuyển
nghĩa quen thuộc với nhiều người và được dùng rộng rãi. Nhưng có
những từ với ý nghĩa được chuyển đổi lại chỉ có trong truyện Kiều.
Thậm chí là Nguyễn Du là người đã sáng tạo ra nghĩa cho nó như: dọc
ngang. Theo giáo sư Đào Duy Anh (TĐTK) thì “cách dùng dọc ngang
thành động từ rất hay, rất đẹp và là một cống hiến của tác giả.” (trang
140).
Nếu đọc truyện Kiều, chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp cách sử dụng
nhiều từ, nhiều cụm từ để chỉ một sự vật hiện tượng. Ví dụ:
56
- Cùng để chỉ nước mắt trong Truyện Kiều đã có các cách nói sau: nước
mắt, lệ, lệä hoa, châu, gịot châu, giọt ngọc, giọt hồng, giọt sương, giọt tủi,
dòng thu…
- Cùng để chỉ lời thề có: lời thề, lời nguyền, lời nước non, lời non
sông, lời sắt son, lời thệ hải minh sơn, nguyện ước ba sinh…
Và hiện tượng một từ lại diễn đạt nhiều nghĩa khác nhau
Ví dụ:
1) Tử sinh: có các nghĩa
-Sống hay chết 3088
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
- Liều chết tìm đường sống 2517
Tử sinh liều giữa trận tiền
- Sống chết có nhau 2562
Gọi là đắp điếm cho người tử sinh
- - chết:
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào 2608
2) Nắng mưa
- Chỉ sự thay đổi thời tiết
Sân lai cách mấy nắng mưa (1045)
- Thời tiết khó chịu
Nắng mưa thui thủi quê người một thân (900)
-Sự thử thách của thời gian nói chung
Tro than một đống nắng mưa bốn tường (1672)
3) Một hai
- Một chút, đôi chút
Nàng còn cầm cự một hai tự tình (212)
57
- Một vài
Tiện đây xin một hai điều (329)
- Chỉ những cái đầu tiên
Mà lòng đã chắc những ngày một hai (2282)
2.1.4. Ngoài ra trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có một số từ
được rút gọn lại từ các thành ngữ, tục ngữ hoặc là các điển tích mà
chúng ta phải nắm được nghĩa của các thành ngữ điển tích này mới
hiểu được nghĩa từ
Ví dụ:
- cầm sắt: Là nghĩa của một câu trong Kinh Thi “thê tử hòa hợp như
cổ cầm sắt” nên cầm sắt tả tình vợ chồng.
- tao khang: - Bã rượu và cám gạo, hai thứ tầm thường nên tao
khang có nghĩa là người vợ cưới thửa hàn vi, vợ cả
- Châu trần: Từ một bài thơ của Bạch Cư Dị nói làng Châu Trần ở
huyện Cổ phong thuộc Từ Châu. Trong làng chỉ có
hai họ – họ Châu và họ Trần đời đời kết hôn với
nhau, từ đó Châu Trần là để chỉ sự kết hôn.
- phong nhã: Là tên hai phần trong Kinh Thi là Phong (Quốc Phong)
và Nhã (Đại Nhã và Tiểu Nhã) về sau mới là chỉ sự
tao nhã phong lưu.
- thuần hức: Có từ chuyện Trương Hàn đời Tấn (1593) làm quan ở
kinh, thấy chính sự không ra gì, chợt nhớ thức ăn ở
quê nhà là rau Thuần và cá Hức nên bỏ về quê
=>cuộc sống thôn dã, nỗi nhớ quê (466)
- thanh khí: Từ câu “Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” =>
chỉ người có tính đồng điệu
58
- giang hồ: Nghĩa đen là sông hồ, xuất phát từ chữ Tam Giang (
Trường giang, Hán giang và Hồ Bành Lãi ) và Ngũ
hồ (5 hồ lớn ở Trung Quốc) Là nơi người ta hay đến
chơi.
-> Trước tiên là chỉ người đi đây đó.
-> Sau chỉ con gái làm nghề mại dâm.
2.1.5. Trong truyện Kiều còn có các từ ghép đẳng lập có kiểu kết
cấu gồm 2 thành tố có gốc danh từ, đồng nghĩa với nhau ở nét nghĩa chức
năng thì nó có thể được dùng làm vị ngữ, hay chuyển thành động từ
được. Điều này, các yếu tố cấu tạo từ khi hoạt động độc lập không thể
làm được. Đây có phải là một cách chuyển đổi từ loại của từ hay là nó
chỉ một phương thức để điễn tả nghĩa hoạt động?
Ví dụ: - dầu hương:
Am mây quen lối đi về dầu hương (2082
-hương đèn:
Hương đèn việc cũ (2065)
- Hương hoa:
Hương hoa khuya sớm phụng thờ (993)
- hương khói:
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà (60)
-hương trà:
- Xuân thu cắt sẵn hai tên hương trà (1924)
Những từ trên đều được kết cấu bởi hai thành tố có gốc danh tư,ø có
chung một nét nghĩa chức năng là dùng để thờ cúng, vì thế chúng đã
chuyển thành động từ với nghĩa chung là: việc thờ cúng.
59
2.1.6. Nếu hai động từ trái nghĩa kết hợp với nhau thì chúng
thường tạo ra nghĩa lặp đi lặp lại, nghĩa thói quen.
Ví dụ: - đi về:
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân (1294)
- khép mở:
Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung (1208)
- hợp tan:
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan
- ra vào:
Ra vào một mực nói cười như không (1566)
- đứt nối:
Sầu tuôn đứt nối (104)
2.2. Nghĩa của từ được chuyển đổi với hàm ý đánh giá theo cực âm
Khi khảo sát lớp từ này chúng tôi nhận thấy một số từ ghép
đẳng lập có khuynh hướng chuyển đổi với hàm ý đánh giá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN008.pdf