Khung cảnh tươi vui khép lại cũng là lúc quãng thời gian hạnh phúc ngắn ngủi trong
đời bác Vuông cũng vĩnh viễn khép lại. Lệnh cấm giò chảthi hành cũng kéo theo sựbất
hạnh của gia đình bác Vuông và bao nhiêu người đồng nghềvới bác. Từ đấy, cuộc đời bác
nhưmởsang một trang mới, có phần tăm tối hơn và ngày càng lụi tàn đi. Đúng nhưbác đã
từng nghĩvà từng dự đoán vềsốphận mình: “Cảmột cuộc đời siêng năng và đau khổcủa
cha mẹbác và rồi đây cảmột cuộc đời của vợchồng bác nữa cũng chỉnhưngọn đèn âm
thầm và đen tối này thôi. Cháy không ai hay mà tắt cũng không ai biết. Thật là buồn, thật
là tủi, thật là đau đớn” (Nguyễn Đình Lạp,2003:43). Dự đoán ấy có lúc tưởng nhưsai lầm
và có lẽchính bác Vuông cũng đã quên đi vì biết bao niềm vui, hạnh phúc đến với gia đình
bác. Nhưng chính cái lệnh cấm vô lý ấy của bọn thực dân đã góp phần đẩy bác đi vào quỹ
đạo định mệnh của mình và đẩy bác rơi vào bi kịch của sựbếtắc.
68 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– cũng đem đến không biết bao nhiêu khổ ải cho người dân. Trước cái chết bất ngờ vì bệnh
dịch tả của bác Vuông gái, gia đình bác Vuông đã đủ đau khổ khi phải lén lút âm thầm đưa
bác về chôn cất ở quê nhà. Vậy mà về đến quê, bọn hương chức lại làm khó dễ, đã không
cho chôn lại còn đòi lập biên bản trình quan. Nhưng trình quan chỉ là một cái cớ để bọn
chúng bóp nặn và mục đích thực sự của bọn chúng cũng chỉ là tiền. Xác của bác Vuông gái
phải nằm chờ cho đến khi “chương to, da chân, da tay, da mặt đã nứt nở và tuột ra từng
chỗ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:213) thì mới được đem chôn với cái giá “ba mươi đồng”.
“Trải qua bao nhiêu luồn lọt đến chảy máu mắt, thây người đàn bà khốn nạn mới được vùi
sâu chôn chặt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:469). Quyền sống đã bị chà đạp. Đến cái quyền
được chết trong an lành, người ta cũng bị tước đoạt nốt. Nhà văn đã phản ánh hiện thực của
một thời đầy xót xa và căm phẫn. Bên cạnh đó, thông qua cái chết của bác Vuông gái, tác
giả còn vạch rõ bản chất tàn nhẫn, vô tình của xã hội lúc bấy giờ mà nó thể hiện trước hết
qua thái độ của bọn hương chức. Trước cái chết thảm thương của bác Vuông gái, sau một
hồi quát tháo, hạch hỏi, “hai ông chánh phó Lý thản nhiên đi bàn chuyện rằm tới này ông
Tiên Chỉ sẽ khao tám mươi. Ngày ấy tha hồ mà chè chén, mà xóc đĩa, cô đầu… Thật vui
như tết. Rồi hai ông cười ha hả, sánh vai nhau đi hớn hở như đi ăn khao vậy” (Nguyễn
Đình Lạp,2003:213). Bỏ mặt sau lưng, bác Vuông vẫn “giọt lệ ngắn dài…chắp hai tay vào
nhau miệng van lạy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:213). Còn những người hàng xóm xung
quanh thì sao? Mấy đứa nhỏ thì cười nói chớt nhả, chòng ghẹo cái Khuyên. Còn mấy người
lớn “sợ lôi thôi đến mình cũng tản ra về cả” (Nguyễn Đình Lạp,2003:214). Bên cạnh việc
lên án bản chất bóc lột tàn nhẫn của bọn tay sai, cái chết của bác Vuông còn là hồi chuông
báo động đối với xã hội đương thời - một xã hội mà con người chỉ biết sống ích kỉ, vô tâm
trước nỗi đau của người khác.
Bộ mặt xấu xa của bọn cầm quyền còn bộc lộ qua cảnh khám xét táo tợn, thô bạo
đối với người đàn bà buôn thịt lậu. Cảnh bác Vuông gái bị bắt và bị khám xét thật khiến
người đọc không khỏi thương xót và căm phẫn: thương xót người đàn bà “đôi mắt ướt
nhoè những lệ, lơ láo nhìn một cách sợ sệt, lo ngại, van xin” (Nguyễn Đình Lạp,2003:164),
căm phẫn bọn người có chút quyền hành lại ra sức hà hiếp dân lành trong bước sa cơ.
Những thủ đoạn khám xét của bọn chúng mới thật thô bỉ và tàn nhẫn làm sao! Chúng bắt
bác Vuông gái phải cởi hết quần áo với cái roi gân bò đe doạ nằm trong tay. Bác gái còn
dùng dằng, lo ngại chưa kip cởi thì “cái gân bò nằm trong tay người đàn ông đã giơ cao lên
nhắm thẳng đỉnh đầu người đàn bà” (Nguyễn Đình Lạp,2003:165) mà vút. Thân yếu thế
cô, lại thêm sức ép của đòn roi, người đàn bà cũng đành cam chịu cởi quần áo ra cho bọn
chúng khám xét. Một người phụ nữ mang nặng tư tưởng phong kiến như bác Vuông thì giữ
gìn danh tiết là một việc tối quan trọng. Vậy mà hôm nay, cảnh đời khốn khó cùng quẫn đã
đẩy bác vào cảnh phải để cho bọn ác ôn khám xét thân thể mình. Mất của bác đau một
nhưng mất danh dự bác đau đến mười. Khi những miếng thịt từ từ rơi xuống đất để lộ tấm
thân đàn bà, bác Vuông cũng chỉ còn biết thét lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất. Đối lập
với hình ảnh người đàn bà đáng thương là bộ mặt thú dần lộ ra trong lốt người đạo mạo của
kẻ có quyền: “Hắn cười tít mắt, giơ thẳng gậy thong thả tiến đến… Hai bàn tay xoè ra giơ
thẳng về phía trước mặt. Hai mắt tròn xoe, trừng trợn. Cái đầu gậy đâm thẳng vào bụng
người khốn nạn” (Nguyễn Đình Lạp,2003:165-166). Chính sách, pháp luật của một chế độ
luôn đặt ra để bảo vệ trật tự xã hội, góp phần đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
người dân. Nhưng trong giai đoạn ấy, trong chế độ ấy, những chính sách pháp luật luôn là
vòng vây siết chặt con người đến ngột thở. Những kẻ đại diện cho mộ máy thống trị ấy,
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
32
những kẻ thi hành pháp luật cũng chính là những con người nhẫn tâm chà đạp lên quyền
sống của con người, tước đoạt của con người không chỉ của cải vật chất mà còn tước đoạt
cả những danh dự còn sót lại.
Bên cạnh việc vạch trần bộ mặt gian ác của bọn thống trị, tiểu thuyết Nguyễn Đình
Lạp còn phê phán những lối sống, nếp nghĩ lạc hậu, những hủ tục mê tín dị đoan. Đó cũng
là một trong những nguyên nhân góp phần đẩy con người vào sâu trong bể khổ, tự chồng
chất cái khổ lên mình mà không biết. Bác Vuông gái là một người đàn bà quê chỉ biết “thờ
chồng nuôi con làm lẽ sống duy nhất của đời mình” (Nguyễn Đình Lạp,2003:63). Người
đàn bà hiếm hoi ấy “sinh hạ tới bảy tám bận vừa gái vừa trai” nhưng rốt cuộc chỉ “còn có
ba đứa con gái cả” (Nguyễn Đình Lạp,2003:65). Vì thế, bác Vuông gái luôn tự cho mình
có một cái tội rất lớn đối với chồng, với gia đình chồng bởi bác không sinh được một đứa
con trai nối dõi. Cũng chính vì thế, bác tự cho mình cái bổn phận phải kiếm thêm một
người vợ lẽ cho chồng. Bởi “bác tin rằng, chồng bác cao số, phải lấy thêm vợ lẽ thì mới
kiếm được con trai” (Nguyễn Đình Lạp,2003:106). Là người phụ nữ chắc chẳng ai muốn
cho chồng mình có vợ lẽ, chẳng ai muốn người phụ nữ khác chia sẻ tình cảm vợ chồng
mình. Thế nhưng, những người phụ nữ ngày xưa họ vẫn phải chấp nhận kiếp chồng chung
ấy. Dẫu có người nhận thấy được những bất hạnh do chế độ đa thê ấy gây ra nhưng phần
lớn những người phụ nữ đều ngậm đắng nuốt cay cam chịu, có phản kháng thì đó cũng chỉ
là một lời chửi đổng, lời kêu gào trong vô vọng như nữ sĩ Hồ Xuân Hương: “Chém cha cái
kiếp lấy chồng chung”. Bác Vuông gái cũng là một người phụ nữ biết chấp nhận. Hơn thế,
“Bác còn te tái chạy ngược xuôi tìm một người vợ lẽ cho chồng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:
106) vì bác coi đó là bổn phận của mình và bác tin việc ấy sẽ mang lại những điều tốt đẹp
cho gia đình bác: một đứa con trai nối dõi, một người phụ giúp gia đình. Thế nhưng, bác
đâu biết rằng, việc ấy lại đem đến cho gia đình bác biết bao nhiêu phiền hà. Việc cưới vợ lẽ
cho chồng cũng phải tốn hao bao nhiêu chi phí: nào phải cậy người mai mối, phải “làm một
cái lễ cho trông được” (Nguyễn Đình Lạp,2003:106). Để chứng tỏ “mình là một gái đảm
đang có thể gánh vác được giang san nhà chồng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:106), bác
Vuông gái nhất định tổ chức cho ra đình ra đám lễ ra mắt người vợ lẽ với họ hàng. Cái lễ ấy
còn lớn hơn cả lễ chạm mặt cái Khuyên con gái bác, cho nên “dù có phải vay mượn chút ít
cũng đành” (Nguyễn Đình Lạp,2003:107). Những con người tự ràng buộc mình trong sợi
dây vô hình của những lề lối, hủ tục là như vậy. Cho dù ngày thường, họ có sống kham khổ
đến đâu, chật vật túng bấn đến mức nào thì những ngày lễ tết, đình đám, họ cũng tìm mọi
cách tổ chức coi cho được để mở mày mở mặt với làng xóm dù sau đó có khi phải làm cả
đời để trả nợ. Nói đến đây ta chợt nhớ đến những “món nợ chung thân” trong Việc làng của
Ngô Tất Tố. Một người chồng vì tổ chức đám tang cho vợ mà cả đời phải làm trâu làm
ngựa cho người khác để trả nợ. Hay một tiệc ngả vạ của làng đã đẩy một con người đi đến
cái chết tất tưởi dưới sợi dây thòng lọng. Ở chốn ngoại ô trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình
Lạp, con người không còn bị bao vây bởi những lệ làng khắc nghiệt ấy nhưng họ lại tự siết
chặt mình bằng sợi dây thòng lọng của những suy nghĩ lạc hậu cũng khắc khổ không kém.
Rước người vợ lẽ về chẳng bao lâu, gia đình bác Vuông cũng bắt đầu rơi vào cảnh khốn
khó. Lệnh cấm thi hành, buôn bán ngày càng khó khăn. Sự sống của năm con người trong
gia đình bác chỉ trông cậy vào việc buôn bán với cái vốn mong manh chừng tới ba chục
bạc vốn đã quá chật vật nay lại thêm một người ăn không ngồi rồi. Phải chăng cưới thêm
một người vợ lẽ cho chồng, có được một đứa con trai nối dõi, gia đình bác sẽ hạnh phúc
hơn như bác vẫn nghĩ hay chính nó đã đẩy gia đình bác lún sâu hơn vào vũng lầy của sự
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
33
túng bấn? Đứa con trai mà vợ chồng bác chờ đợi sẽ nối dõi tông đường nhà bác hay nối
tiếp cái nghèo gia truyền từ đời cha mẹ bác đến đời bác? Đau đớn hơn, đứa con trong bụng
mẹ chưa kịp ra đời đã chứng kiến bao cảnh tan nát của gia đình: bác cả chết, bố phát điên,
chị cả bỏ gia đình theo tiếng gọi của tình yêu…còn tương lai mẹ con nó cũng chẳng sáng
sủa gì hơn cái buổi chiều tà ảm đạm mà người bố chưa nhìn thấy mặt bị bắt vào nhà thương
điên. Cuộc đời nó rồi cũng sẽ tiếp tục cái vòng quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người
lao khổ như cha mẹ nó mà thôi. Hình ảnh thảm thương của người vợ lẽ “với cái bụng sắp
tới kì sinh đẻ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:263) bị khuất sau làn bụi mờ của chiếc xe chở bác
Vuông đi như một minh chứng cho hậu quả của những nếp nghĩ lạc hậu của con người. Đã
nghèo khó lại còn mong đứa con nối dõi, họ những tưởng gia đình họ sẽ hạnh phúc hơn
nhưng họ đâu biết chính suy nghĩ lạc hậu ấy đã đẩy cuộc đời họ vào chỗ tăm tối hơn và
cũng chính nó đã góp phần tái sinh cảnh đời bi kịch mới: Đứa con sắp chào đời – nó sẽ nối
dài thêm cái vòng lẩn quẩn của cuộc sống lầm than, cơ cực mà họ đã trải qua.
Suy nghĩ lạc hậu của vợ chồng bác Vuông còn thể hiện qua việc dựng vợ gả chồng
cho con. Quyết định gả cái Khuyên của bác chỉ xuất phát từ tình thâm giao của hai gia đình
chứ không xuất phát từ tình cảm của con. Cái suy nghĩ cổ hủ trong hôn nhân “cha mẹ đặt
đâu con phải ngồi đấy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:103) đã khiến bác nghiễm nhiên lựa chọn
cho con mình - một đứa con gái xinh đẹp - một người chồng xấu xí, đần độn mà lý do chính
đáng nhất chỉ là sự cả nể, tình bạn bè. Cũng chính vì suy nghĩ “cha mẹ đặt đâu con phải
ngồi đấy” mà Khuyên có lúc tự lừa mình và muốn nhắm mắt ưng đại cho xong. Nhưng hậu
quả của việc sắp đặt hôn nhân không có tình yêu là khi gặp tình yêu thực sự trỗi dậy,
Khuyên đã không ngần ngại đi theo tiếng gọi của trái tim. Việc Khuyên bỏ đi đã góp phần
đẩy bác vào con đường cùng nhưng bi kịch, sự bế tắc của bác cũng một phần do chính bác
mà ra. Biết Khuyên yêu Nhớn, bác vì muốn giữ chữ tín với bạn bè mà cho cưới gấp. Bác
muốn vung sợi dây quyền lực của một người cha để trói chặt cuộc đời con gái bác trong
hôn nhân không tình yêu. Nhưng càng trói chặt, nó càng vùng vẫy và muốn trốn thoát. Khi
Khuyên đã trốn thoát, cái sợi dây định mệnh ấy lại vây hãm chính cuộc đời của bác trong
sự khủng hoảng, điên loạn.
Bóng tối bao phủ lấy những con người ở “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm” không chỉ là những
tư tưởng lạc hậu mà còn là sự mê tín dị đoan, sự tin tưởng tuyệt đối vào thần linh, kiếp số.
Bọn thực dân đã lợi dụng nếp nghĩ lạc hậu này của người dân nhằm dễ bề cai trị và góp
phần đẩy dân ta rơi vào màn đêm của sự lầm than. Trong “Ngoại ô”, “Ngõ hẻm”, người đọc
bắt gặp nhan nhản những cảnh chướng tai gai mắt, những suy nghĩ thiển cận bắt nguồn từ
sự mê tín dị đoan. Từ trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn hằng ngày cho đến những đình đám,
con người ta đều tin tưởng vào một lực lượng siêu hình và tự ràng buộc mình trong nỗi khổ.
Bác Vuông trai “mỗi khi đội thúng đi bán hàng, bác vẫn nơm nớp lo sợ nếu vô phúc bắt
gặp một cô đầu rắn gan, rắn ruột nào mở hàng thì hôm đó sẽ xúi quẩy, ế ẩm” (Nguyễn
Đình Lạp,2003:43) bởi bác tin vào câu nói “một vía trai bằng hai vía gái” (Nguyễn Đình
Lạp,2003:43). Những ngày rảnh rỗi, bác lại lau chùi “cái khung kính độc nhất treo giữa cái
đàn bầu và cái đàn nguyệt” (Nguyễn Đình Lạp,2003:107) bởi trong cái khung ấy có ảnh
của ba vị anh hùng mà bác rất sùng kính: Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi. Để có đủ ba
vị “anh hùng kết nghĩa vườn đào” ấy, “bác đã bỏ ra năm sáu hào để mua một chiếc và
phải tìm tòi hàng năm mới mua đủ bộ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:105). Bác đã từng tin
tưởng và từng khoe với bạn bè rằng: “Treo các ngài trong nhà thì không những trừ được
ma quỷ mà các ngài còn phù hộ cho buôn bán đắt nữa” (Nguyễn Đình Lạp,2003:105).
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
34
Nhưng có đúng như vậy không khi ba vị thánh bác tôn sùng vẫn ngự trị trong nhà bác
nhưng gia đình bác vẫn phải liên tiếp hứng chịu biết bao tai hoạ. Hình ảnh của ba vị anh
hùng cho ta thấy sự ảo vọng của con người sẽ đẩy con người ta đến chỗ mù quáng, không
nhận thấy được bi kịch thực sự của cuộc đời mình. Trong nỗi đau đớn tột cùng trước cảnh
gia đình tan nát, bác Vuông đã đập vỡ khung ảnh ba vị anh hùng mà bác rất mực tôn kính.
Trước khi đập, bác còn “dằn từng tiếng: Thế này mà trước kia mình sợ sệt khấn khứa, lạy
lục. Láo, láo cả. Chúng mày nếu có thiêng thì đã chả làm tao khổ thế này! Này thánh này!
ha ha!” (Nguyễn Đình Lạp,2003:252-253). Qua câu nói ấy, tác giả như muốn nói lên ảo
tưởng của con người do nếp nghĩ lạc hậu gây ra.Và nếp nghĩ lạc hậu ấy cũng như làn sương
phủ mờ tâm trí bác Vuông khiến bác không nhận thức được nguyên nhân chính đưa đến nỗi
khổ của gia đình mình. Vì thế, bác chỉ còn biết trút nỗi tuyệt vọng lên những tấm ảnh vô tri
vô giác.
Không chỉ bác Vuông trai mà bác Vuông gái và tất cả những con người ở chốn cửa
ô tối tăm này đều là những người rất mê tín. Điều ấy thể hiện rõ khi nạn dịch tả hoành hành
ở ngoại ô. Trước cái cảnh “chỗ nào cũng có người chết, có người vừa chết, có người vừa
đang ngắc ngoải” (Nguyễn Đình Lạp,2003:198) vì bệnh dịch thì mọi người dân ai cũng ghê
rợn. Họ chẳng biết làm gì ngoài việc “lập đàn lễ cầu mát ở khắp các phố… Đàn có bao
nhiêu là đồ mã rất tố hảo. Đức chúa bận hoàng bào cầm hốt, đội mũ bình thiên, phong vị
trông như thật, ngồi chính giữa đàn. Rồi nào là ông Đương liên, Đương cảnh, ông thiên
lôi, bà la sát, ông tử vi cưỡi kì lân…Nào voi, ngựa, thuyền, cờ, quạt, lính tráng cùng là đại
bác, súng thần công… Vợ chồng bác Vuông cũng tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới rồi
đặt ba trăm vàng đại, một thẻ hương, một bao nếp, năm quả cau với ba hào bạc vào một
cái khay, trịnh trọng bưng ra đình hành lễ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:198-199). Nhưng rồi
những ông Đương liên, Đương cảnh, ông Thiên lôi, bà la sát cũng không cứu được họ.
Bệnh dịch tả vẫn hoành hành, những người dân ở đây vẫn chết, bác Vuông gái cũng chết.
Như muốn chứng minh cho người đọc thấy sự vô lý của niềm tin mù quáng của con người,
tác giả đã để bác Vuông chết - chết vì bệnh dịch tả ngay sau khi vợ chồng bác đã tế lễ đình
thần, cầu an cho gia đình. Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh một điều: nếu con người không
hành động để tự cứu lấy mình thì có trông chờ thần linh cũng vô vọng. Thay vì tốn công
tốn của lập đàn tế lễ, những người dân ấy có thể bình tâm suy nghĩ, cùng nhau tìm cách
phòng tránh đối phó. Như vậy, họ có thể vừa bảo vệ được mình, vừa bảo vệ mọi người, vừa
không phải tốn công mất của vô ích.
Sự mê tín dị đoan còn bộc lộ đậm nét trong tác phẩm qua những nghi thức rườm rà,
hoang phí trong ma chay, bốc mộ. Cái đám tang của mụ Đức Lợi giàu có được tổ chức rất
to, “có cờ thanh đạo gióng lịnh, thiên lôi, la sát đi đầu. Rồi minh tinh cao ngất, trống cà
rùng kiệu thờ phật, ba nhà sư bận áo cà sa, mũ hoa sen ngồi trên ba cái xe cao su, mấy
chục bà vãi đội cầu, miệng nam mô suốt phố. Rồi lồng án thực, đội trống bát bửu, lộ bố bát
âm, linh xa linh cữu có thuyền bát nhã đậy kín” (Nguyễn Đình Lạp,2003:240). Đám tang ấy
còn bộc lộ sự hoang phí hơn khi hai cái nhẫn vàng được đem nhét vào mồm người chết rồi
mới đem chôn.Thật trớ trêu! Trong khi ở ngoại ô lúc bấy giờ, biết bao gia đình nghèo khổ,
có những người đã lâm vào cảnh cùng cực, túng bấn thì lại có người đem hai cái nhẫn vàng
bỏ không trong mồm người chết. Câu nói của Nhớn càng nhấn mạnh nghịch lý ấy: “Hai cái
nhẫn này có thể làm cho tao và cái Khuyên được sung sướng thì tội gì mà lại bỏ phí hoài
trong mồm một cái thây ma” (Nguyễn Đình Lạp,2003:245). Con người nghĩ cũng lạ, cuộc
sống ngay trước mắt nhưng họ chẳng trân trọng, chẳng đem lại cho nhau hạnh phúc thậm
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
35
chí còn gây ra nỗi đau hoặc làm ngơ trước nỗi đau của người khác. Vậy mà trái lại, khi
người ta đã đi vào cõi chết, họ lại tìm mọi cách cung phụng cho sự chết được đầy đủ, đốt
tiền bạc để đảm bảo cho cuộc sống vô hình ở thế giới bên kia - dù không biết có tồn tại hay
không - được ấm no, sung túc.
Đám tang đã thế, đám dời mộ, “thay áo” cho người chết cũng diễn ra với bao lễ
nghi hết sức rườm rà, phiền phức. Cảnh bốc mộ của bác Vuông gái đã diễn ra như thế.
Trước hết là việc chọn ngày giờ. Theo lời của ông già Ất thì việc “cất mộ phải làm về đêm,
nếu có ánh sáng mặt trời thì xương sẽ hao chóng lắm. Chính ra, cất mộ về tháng ba đầu
năm này người ta cũng kiêng đấy” (Nguyễn Đình Lạp,2003:464). Thế là việc bốc mộ của
bác Vuông gái được ấn định vào lúc hai giờ sáng. Rồi tiếp theo là công việc phá nấm đào
huyệt với bao nhiêu là thứ phải chuẩn bị: “một thúng có chiếc nồi đình đựng nước ngũ vị.
Còn thúng kia có con ngựa giấy, một cỗ mũ ông sao, sáu trăm vàng, một cái chân giò, một
đĩa xôi với ba quả cau, ba lá trầu. Vàng ấy sẽ chia làm đôi: ba trăm đem rắc tung xuống
hố, để đền “các người” vì đã lấy cỗ hài cốt của của các người đem đi nơi khác. Ba trăm
còn lại sẽ hợp lại với ngựa, mũ, chân giò và xôi làm lễ hoàn thổ, tạ vị thổ công chỗ huyệt
mới” (Nguyễn Đình Lạp,2003:740). Rồi khi đã lấy được xương người chết, họ phải rửa thật
sạch “một lượt nước lã và một lượt nước ngũ vị”, nhất là chỗ hai con mắt, vì họ tin rằng,
nếu “cẩu thả để chút bẩn trong con ngươi… rồi cả nhà phải đau mắt” (Nguyễn Đình Lạp,
2003:477). Sau đó, họ xếp xương vào tiểu sành và đem chôn. Đem chôn cũng là cả một
công đoạn gian nan. “Cốt nhất là tiểu khiêng cho được thăng bằng… phải ba chân bốn
cẳng lên cho kịp giờ sửu. Tới nơi lại còn phải phân kim, còn phải lấp nữa chứ” (Nguyễn
Đình Lạp,2003:481). Và cuối cùng là công việc “về kê lại giường phản để cho kịp hàng phố
đến uống rượu vào lúc mờ sáng” (Nguyễn Đình Lạp,2003:841). Ôi biết bao nhiêu là công
đoạn rườm rà, tốn kém. Cũng chính vì những lễ nghi phiền phức, những tin tưởng mê muội
ấy mà vợ chồng Nhớn khi bốc mộ bác Vuông đã rơi vào quỷ kế của bọn ba Sự. Vì cần tiền
chi vào nhiều khoản chi phí mà tốn kém nhất là giết lợn khao hàng xóm, Nhớn đã nhận một
trăm bạc ba Sự giúp đỡ. Cũng từ những sự giúp đỡ như thế, Nhớn ngày càng bị lớp vỏ ân
nghĩa giả dối của ba Sự lừa bịp, ngày càng dấn thân vào cái nghề gác sòng bạc nguy hiểm
và dẫn đến kết cục bi thảm là những ngày gặm nhấm tuổi trẻ trong nhà tù.
Ra đời trong giai đoạn thoái trào của Mặt trận dân chủ, tiểu thuyết của Nguyễn Đình
Lạp đã không còn cái không khí đấu tranh sôi nổi của một thời. Giai đoạn này, quyền tự do
dân chủ của con người cũng bị siết chặt, tiếng nói phê phán cũng không còn có thể bộc lộ
một cách trực diện và gay gắt nữa. Thế nhưng, thông qua việc phơi bày những nỗi khổ đau
của con người, Nguyễn Đình Lạp cũng đã góp phần vạch trần bộ mặt xấu xa của một giai
cấp thống trị bất nhân, một chế độ xã hội tàn bạo. Đồng thời, tiểu thuyết của ông còn là một
tấm gương phản chiếu ở nhiều góc độ của ngoại ô thời một đen tối, ngập chìm trong những
nỗi khổ đau, trong những nếp nghĩ lạc hậu, những tin tưởng mông muội và những hủ tục
mê tín.
2.2. Niềm tin yêu hướng tới những thân phận hèn mọn:
Khi đi vào phản ánh cuộc sống hiện thực, nhà văn nào cũng xuất phát từ tấm lòng
yêu thương đối với con người. Có thể nói, mỗi nhà văn đều có một trái tim yêu thương dạt
dào dành cho con người - nhất là những người đau khổ. Có yêu thương trân trọng con
người, họ mới có nhu cầu muốn ghi lại một cách chân thực những nỗi đau của con người và
bằng nhiều cách khác nhau, họ đã dùng ngòi bút để đấu tranh bênh vực, giành quyền sống
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
36
cho con người. Tuy nhiên, ở mỗi nhà văn, tình yêu thương ấy thể hiện khác nhau qua
những tác phẩm của mình. Có những người bộc lộ trực tiếp tình yêu tha thiết của mình trên
trang giấy như Nguyên Hồng – nhà văn của chủ nghĩa nhân đạo thống thiết, được mệnh
danh là nhà văn của những người cùng khổ. Cũng có người không bộc lộ trực tiếp mà phản
ánh nỗi khổ của con người bằng ngòi bút sắc lạnh như Nam Cao. Cũng có người đối diện
với những khổ đau của con người bằng cái cười chua chát như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn
Công Hoan. Nhưng cái cười trong tác phẩm của họ là cái cười ra nước mắt, tận cùng của
cái hài ấy vẫn là cái bi – là nỗi xót xa của nhà văn trước thực tại đau lòng. Nguyễn Đình
Lạp cũng là nhà văn có tấm lòng nhân hậu và hết mực yêu thương con người. Ở ông, tình
thương yêu đối với con người không thể hiện một cách sôi nổi cũng không quá lạnh lùng
mà rất mực đằm thắm, chan chứa và sâu sắc. Ở người con của đất Hà Thành ấy, người ta
luôn thấy được một niềm tin yêu vững chắc dành cho những thân phận hèn mọn.
Bằng niềm tin yêu vững chắc của mình, Nguyễn Đình Lạp phát hiện ra biết bao vẻ
đẹp trong tâm hồn con người, dù là những hạng người nào, sống trong bất kì hoàn cảnh
nào. Có thể nói, nhà văn đã bóc tách lần cái vỏ lấm láp bùn đen của những con người sống
chui rúc ở ngoại ô, ngõ hẻm để đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của họ. Và
niềm tin yêu ấy của nhà văn đã được đền đáp xứng đáng. Biết bao hòn ngọc trong tâm hồn
con người đã được tác giả tìm thấy và toả sáng trong vũng bùn đen. Đó là những người dân
lao động nghèo khổ nhưng chí tình chí nghĩa như bác Vuông, bác phở Mỗ, hay những anh
chàng đồ tể: Nhớn, Sẹo, Tin, và ngay cả những cô gái điếm như cô đầu Huệ, thậm chí là
những tay anh chị đâm thuê chém mướn như mụ Táo hay một tên trộm như bác Thịnh…
Họ gồm nhiều hạng người sống bằng nhiều nghề khác nhau, từ những nghề lao động vất vả
cho đến những nghề bị khinh bỉ, bị phê phán nhưng họ đều có chung một đặc điểm đó là
những con người sống cơ cực, lầm than và đều tiềm tàng bên trong những phẩm chất tốt
đẹp. Bác Vuông dù sống trong cảnh nghèo khó vất vả nhưng luôn sẵn lòng giúp đỡ người
khác khi hoạn nạn khó khăn. Bác buôn bán cả đêm mệt mỏi, vừa vui mừng vì bán hết hàng
và có được một số tiền về trang trải bao mối lo trong gia đình. Nhưng khi nhìn thấy “khuôn
mặt cô Hụê càng xám ngắt, tiếng ho của nàng càng gấp, càng khô khan và trên gò má dồ
cao của nàng hai hàng nước mắt tuôn rơi lã chã” thì “bao ý định phải trang trải tiền nhà,
tiền thịt, tiền thuế chợ vụt qua óc bác hàng giò như một luồn chớp” (Nguyễn Đình Lạp,
2003:54) đã tắt ngấm. Mối lo đã nhường chỗ cho tình yêu thương luôn sẵn có trong tâm
hồn người lao động chất phác ấy. “Không do dự nữa, bác đặt ngay thúng xuống đường, lật
vỉ buồm đếm lấy mười hào trao cho cô Huệ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:54). Chẳng những
giúp đỡ cô Huệ trị bệnh, bác Vuông còn tìm mọi cách cứu cô Huệ ra khỏi những trận đòn
đánh ghen của cô Vượng, đem lại cuộc sống bình yên cho cô gái tội nghiệp ấy.
Cũng mang một tâm hồn cao đẹp của những người lao động, những chàng trai sống
bằng nghề đồ tể vấy máu, luôn có vẻ nhẫn tâm trước cái chết của những con vật ngay dưới
đôi tay mình nhưng họ lại chính là những người không bao giờ nhẫn tâm trước nỗi khổ của
những người xung quanh mà trái lại, họ là những người rất giàu lòng yêu thương. Tiêu biểu
là ba người bạn thân: Nhớn, Sẹo và Tin. Trước hết là Nhớn, một anh chàng đồ tể lành nghề,
tráng kiện. Một chàng trai lý tưởng như Nhớn có thừa điều kiện để cưới một cô gái nhà
lành xinh đẹp. Nhưng Nhớn lại dành tình yêu đầu đời cho Tình, một cô gái điếm chỉ biết có
tiền là trên hết. Tuy Nhớn yêu một cô gái sống bằng nghề hèn hạ mà mọi người đều khinh
khi nhưng chàng chưa từng có ý nghĩ coi thường Tình, cũng không có ý nghĩ đến với Tình
như bao người đàn ông khác, chỉ là ong bướm ghé qua tìm chút hương lạ rồi bay đi. Nhớn
Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Đình Lạp
SVTH: Nguyễn Thị Xuân Mai
37
yêu Tình bằng một tình yêu cao đẹp và mang trong lòng một ước muốn cao cả, những
mong sẽ cứu vớt cuộc đời Tình ra khỏi chốn bùn nhơ. Không chỉ ước muốn mà thôi, Nhớn
đã tìm nọi cách để biến ước mơ ấy thành sự thật. Tình yêu của Nhớn dành cho Tình đã thể
hiện phần nào tâm hồn cao đẹp của anh.
Bên cạnh Nhớn là Sẹo, con người luôn mang trong lòng một tình bạn cao cả. Sẹo là
một người bạn thân, luôn có mặt bên cạnh Nhớn mỗi khi Nhớn gặp khó khăn. Những việc
Sẹo đã làm và hi sinh cho Nhớn thật khó có người bạn nào có thể làm được cho nhau. Sẹo
là người đã đổi mạng mình để cứu mạng Nhớn bằng cách đỡ một nhát dao bên thái dương
khi Nhớn “đánh nhau với người lính chào mào ở ô Yên Phụ” (Nguyễn Đình Lạp,2003:
343). Sẹo cũng là người đã vun đắp cho hạnh phúc của Nhớn và Khuyên kể cả phải hy sinh
đôi hoa tai ngày cưới của vợ chồng mình và kể cả việc cùng bạn đi đào mả trộm vàng. Sẹo
cũng là người đã rộng lượng tha thứ cho Nhớn khi Nhớn lầm lỗi với vợ chồng mình.
Nhắc đến Nhớn và Sẹo thì không thể không nhắc đến Tin, một con người cũng rất
đáng trân trọng. Tin là một chàng trai hiền lành, chất phác, chăm chỉ và cũng như bao con
người ở ngoại ô, Tin cũng hết lòng giúp đỡ khi người khác gặp hoạn nạn, khó khăn. Lú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac diem tieu thuyet nguyen dinh lap.PDF