Luận văn Đặc trưng phản ánh nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam

MỤC LỤC

Phần mở đầu Trang

I. Lí do chọn đề tài 1

II. Lịch sử vấn đề 2

III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 9

IV. Phạm vi nghiên cứu 10

V. Phương pháp nghiên cứu 10

VI. Đóng góp của luận văn 11

VII. Cấu trúc của luận văn 11

Phần nội dung

Chương 1: Vấn đề đặc trưng phản ánh nghệ thuật trong mĩ học và lí

luận văn học 12

1.1. Những quan niệm truyền thống về đặc trưng phản ánh nghệ thuật 12

1.2. Những quan niệm hiện đại của mĩ học mác xít phương Tây về đặc

trưng phản ánh nghệ thuật 22

1.2.1. Vấn đề đặc trưng phản ánh nghệ thuật trong quan điểm của Ch.Caudwell 23

1.2.2. Vấn đề đặc trưng phản ánh nghệ thuật trong quan điểm của G.Lukacs 25

1.3. Những quan niệm của các nhà mác xít Việt Nam về đặc trưng phản

ánh nghệ thuật 30

Chương 2: Đối tượng của phản ánh nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam 35

2.1. Thạch Lam và thế giới bên trong của người bình dân 38

2.2. Thạch Lam và những trạng thái sống mơ hồ 48

2.3. Thạch Lam và những kí ức tuổi thơ 55

Chương 3: Những thủ pháp phản ánh nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam 70

3.1. Cốt truyện và kết cấu 70

3.2. Giọng điệu 79

3.3. Ngôn ngữ trần thuật 83

Phần kết luận

Danh mục công trình khoa học có liên quan đến luận văn

Danh mục tài liệu tham khảo

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4018 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc trưng phản ánh nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m miêu tả tỉ mỉ cảm giác đói. Giống như những cơn sóng biển, cảm giác đói khi trào dâng mãnh liệt, lúc lại lắng xuống nhưng không thể mất đi khi chưa được thoả mãn. Viết về cảm giác đói, có lẽ khó có ai tài hoa hơn Thạch Lam : “Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi nhưng không được, cái cảm giác đói đã lấn khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi béo ngậy miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng. Mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh cái mùi thơm thấu tận ruột gan, như thấm nhuần vào xương tuỷ”. Trong cái nhìn của nhà văn , cảm giác đói giống như một cái 46 trục tâm lí mà mọi cảm giác của Sinh đều xoay quanh cái trục ấy. Cảm giác đói và nỗi xót thương tràn ngập trong lòng khi “thoáng trông cái thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một cái thân thể mảnh dẻ, gày gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh”. Cảm giác đói và nỗi sung sướng rung động khi cầm gói thức ăn vợ mới mua về. Cảm giác đói và nỗi đau đớn thấm thía sâu xa lúc phát hiện ra sự lừa dối của vợ. Cảm giác đói và nỗi giận dữ, uất ức. Cảm giác đói và nỗi buồn rầu, chán nản vô cùng. Cảm giác đói trở thành đầu mối khơi mở và dẫn dắt những cảm xúc khác ở nhân vật. Là nhà văn tinh tế, trải biết, Thạch Lam đã soi rọi vào trạng thái đói của con người và biểu đạt chân thực , sâu sắc cảm giác rất khó nói ra ấy bằng một văn phong điềm đạm. Bên cạnh những cảm giác rất thực mang tính chất bản năng, Thạch Lam còn phát hiện và miêu tả những trạng thái tâm lí đặc trưng của người trí thức. Có một người day dứt không nguôi vì đã có hành vi tàn ác làm người khác điêu đứng suốt đời (Một cơn giận ). Người khác những tưởng có tiền là sẽ có hạnh phúc nhưng rồi lại chán nản ghê gớm khi số mệnh “chỉ cho anh có tiền sau khi anh đã cụt một chân” (Cái chân què ). Một người khác “thấy lòng thắt lại” khi nhìn vẻ mệt nhọc của người bạn đang ốm (Người bạn trẻ ). Dưới ngòi bút Thạch Lam, người trí thức tiểu tư sản luôn sống với những cảm xúc của chính mình. Những cảm xúc ấy không chỉ giúp con người hướng tới cái đẹp mà còn xây đắp nền móng của lương tri, tính thiện, phẩm chất người. Ít có nhà văn nào lại có khả năng phát hiện và tái tạo những cảm giác đời thường một cách tinh tế như Thạch Lam. Cứ xem cách Thạch Lam miêu tả cảm giác của một chàng trai khi được làm cha là đủ rõ (Đứa con đầu lòng). Cả một chuỗi cảm xúc được tiếp nối và có sự cộng hưởng, lan toả trong lòng nhân vật, từ sự "nóng ruột như lửa đốt" trong phút giây chờ đợi, đến “cảm tưởng lạ” khi đứa con ra đời; từ nỗi khó chịu trước sự hiện diện của đứa con đến cảm giác “êm đềm và phiền phức... cảm thấy lần đầu cái thiêng liêng sâu 47 xa của sự sống”. Những trạng thái tâm lí ở đây được miêu tả theo lớp lang trình tự : hồi hộp, hờ hững, chấp nhận và kết thúc ở trạng thái tâm lí lắng sâu. Nếu không có một trực giác nhạy bén và sự quan sát tinh tế, nhà văn không thể phô diễn một cách thành thật và sâu sắc những “rung động khẽ như một cánh bướm non” như vậy. Khi viết về người trí thức tiểu tư sản, Thạch Lam đã phơi trải dòng cảm xúc thầm kín, sâu xa đang diễn ra trong thế giới nội tâm phong phú. Những ngày mới của Tân có cội nguồn từ những khoảnh khắc sống êm đềm, thi vị ở chốn thôn quê. Cũng từ nơi in đậm dấu vết cuộc đời, chàng trai ấy đã phát hiện ra bao sợi dây cảm xúc đang rung ngân trong trái tim mình. Có cảm giác “say sưa như men rượu”, có cả sự “khoan khoái như không bận một ý nghĩ gì”... Nỗi sung sướng vui vẻ ấy khiến nhân vật nhận ra “một cơn gió hay một cái mầm cỏ non, đối với chàng đều có ý nghĩa riêng”. Tấm lòng tha thiết yêu thương đối với tạo vật, con người đã giúp nhà văn nâng niu, đón nhận một cách trân trọng tất cả những gì thuộc về sự sống, cho dù là nhỏ bé, đơn sơ. Điều đó lí giải vì sao nhân vật của Thạch Lam luôn là những con người có sự rung động cùng cảnh vật, con người và sự rung động đó đem lại cho họ “cái cảm giác rằng mình sống...” (Những ngày mới ). Dù là trẻ thơ, người dân chốn thôn quê hay người trí thức tiểu tư sản, dù mỗi người một hoàn cảnh, một số phận riêng nhưng các nhân vật của Thạch Lam đều giống nhau ở tâm hồn đôn hậu, trong sáng, khát khao yêu thương hạnh phúc, ở cảm xúc đằm thắm, thiết tha. Nhà phê bình Nguyễn Hoành Khung đã rất tinh tế khi nhận xét : “Ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi sâu vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác” [43; 298]. Đúng là như vậy.Truyện ngắn nào của Thạch Lam cũng truyền đạt chính xác, chân thực và sâu sắc những trạng thái cảm xúc, cảm giác của con người. Các nhân vật trong truyện ngắn của ông luôn xuất hiện trong mối quan 48 hệ giữa con người với con người, trong những trạng thái tâm lí phong phú, phức tạp. Có lẽ vì thế mà Khái Hưng khẳng định : “Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói, nói một cách rất giản dị cái cảm giác của ông. Cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của tác giả và của độc giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng, vì có cái ta cảm thấy mà ta không thể dùng tư tưởng để mô tả cái cảm giác của ta ra được, dù là một cái cảm giác nhẹ nhàng” [47]. Đây cũng là phương thức chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực thực độc đáo trong phản ánh nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam. Như vậy, lựa chọn con người làm đối tượng phản ánh cùng nỗ lực khám phá vẻ đẹp và diễn tả các dạng tiềm tàng ẩn giấu của tâm hồn con người là sự thể hiện đặc trưng phản ánh nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam. Bằng cách đó, Thạch Lam đã thể hiện một khuynh hướng tìm tòi sáng tạo, một nỗ lực lớn lao trong việc khám phá và phản ánh hiện thực. Chính điều này đã tạo cho ông một vị trí riêng không dễ lẫn trong văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 2.2 Thạch Lam và những trạng thái sống mơ hồ Trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, cái tôi của nghệ sĩ xác lập một cách nhìn và cảm thụ thế giới, nó chi phối các nguyên tắc tổ chức một thế giới nghệ thuật độc đáo trong hình thức văn bản nghệ thuật. Và chừng nào cái tôi còn đóng vai trò trung gian giữa thế giới được mô tả và hiện thực khách quan, thì chừng đó trong sáng tạo nghệ thuật cái tôi của người nghệ sĩ “không chỉ là tấm gương mà còn là một thành phần trực tiếp của sự mô tả” [15; 237]. Nói đến cái tôi là nói đến cái bản ngã, cái cá nhân, cái làm nên tính cách, tâm hồn, số phận con người. Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh khẳng định con người trong quan niệm của Nho giáo là sự kết giao của âm dương, là sự hội tụ của quỷ thần, là cái khí tốt của ngũ hành. Trong tinh thần đó, cá nhân 49 hiện diện không phải như hình ảnh của chính bản thân nó, mà trong sự chế định của tự nhiên và xã hội. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, văn học trung đại không dành chỗ đứng cho cái tôi cá nhân. Thảng hoặc, có khi buộc phải nói đến bản thân thì các nhà văn nhà thơ xưa cũng xuất hiện với tư thế của cái ta chung để nhằm nói lên những chân lí phổ biến ngay trong những sáng tác nói chí, tỏ lòng. Như thế, chí hướng, cõi lòng ở đây cũng là những gì tiêu biểu nhất, chung nhất. Đến thế kỉ XVIII, cái tôi cá nhân bắt đầu cựa quậy trong văn học qua những sáng tác của Hồ Xuân Hương và sau đó là Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ ... Nhưng hồi ấy, cái tôi nghệ sĩ chưa có đủ điều kiện và cũng chưa đủ sức phá vỡ tính quy phạm chặt chẽ của văn chương cổ. Với sự xuất hiện của Tản Đà, cái tôi mới tự khẳng định mạnh mẽ hơn trong hồn thơ phóng túng, tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Tuy nhiên, phải đến những năm ba mươi của thế kỉ XX, ý thức cá nhân mới thức tỉnh sâu sắc. Hệ quả tất yếu của nó là cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt phong cách trẻ trung tươi mới ra đời: “chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên ... và thiết tha rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu ...”( Hoài Thanh). Những lời tha thiết của Hoài Thanh cho thấy sự lên ngôi của cái tôi đã mở ra một cơ hội để người nghệ sĩ khẳng định tài năng của cá tính sáng tạo. Thạch Lam cũng không ở ngoài trường hợp ấy. Đi giữa đôi bờ hiện thực và lãng mạn, giữa tự sự và trữ tình, Thạch Lam đã tự mình xác định một khuynh hướng truyện ngắn trữ tình giàu tính nhân bản. Có thể nói, Thạch Lam là người khơi mở dòng truyện ngắn trữ tình mà các nhà văn Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh ... là những người tiếp nối 50 làm nên dòng phong cách truyện ngắn trữ tình độc đáo trong nền văn học dân tộc trước 1945. Nét nổi bật của truyện ngắn trữ tình là cách thức phản ánh hiện thực thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ nhưng người nghệ sĩ đã thuộc về hiện thực. Đó là hiện thực không chỉ diễn ra ở bề ngoài mà là hiện thực tâm lí, hiện thực tình cảm, hiện thực trữ tình. Với đặc trưng của truyện ngắn trữ tình, Thạch Lam đã miêu tả đời sống qua cái tôi của mình, xem cái tôi chính là đối tượng của phản ánh nghệ thuật. Và quả thật, “không có một sáng tác nào của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó” [44; 146]. Đọc truyện ngắn Thạch Lam chúng ta thấy hình ảnh một cái tôi tinh tế, nhạy cảm, dễ rung động trước mọi biến thái tinh vi của cảnh vật và lòng người. Từ mùi hương hoàng lan dịu nhẹ lan tỏa, vương vấn đâu đây đến những rung động đầu đời của các cậu học trò, hay cảm xúc của chàng trai trẻ lần đầu làm cha, những khuất khúc tâm lí... đều được cái tôi Thạch Lam đón nhận với biết bao thân thương, trìu mến. Cái tôi ấy không nhiều lời, không ồn ào hào nhoáng mà kín đáo, bình dị, lắng đọng sâu xa. Với Thạch Lam, đó là một cái tôi trưởng thành, từng trải, thấu hiểu sâu sắc từng động thái diễn ra trong thế giới tâm hồn đầy bí ẩn của con người, một cái tôi đôn hậu, điềm tĩnh, nhẹ nhàng ngay cả khi đối diện với những cảnh huống dữ dội, những bi kịch và sự sinh tồn. Đó là một cái tôi làm thành cái “tạng” riêng của Thạch Lam: nhỏ nhẹ, tâm tình. Nếu cái tôi của Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu (1941) hồn nhiên mà đau khổ, cái tôi của Xuân Diệu trong Phấn thông vàng (1939) nồng nàn say đắm với đời, cái tôi của Thanh Tịnh trong Quê mẹ (1941) trong trẻo, cái tôi của Hồ Dzếnh trong Chân trời cũ (1942) trĩu nặng nỗi niềm mặc cảm, cô đơn, ... thì cái tôi của Thạch Lam lại là cái tôi nhân bản, cái tôi luôn biến hóa linh hoạt, đa dạng, đa chiều. Lấy cái tôi làm đối 51 tượng phản ánh, Thạch Lam đã phản ánh thế giới bên trong của chính ông. Đó là ảo ảnh của hiện thực chứ không phải là hiện thực. Thạch Lam cho rằng điều cốt yếu là nhà văn phải nắm bắt cái diễn ra bên trong sự vật, cái chìm sâu của tâm lí, của cảm xúc, của tư tưởng của nhân vật. Ông viết: “nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào trong tâm hồn mình, tìm những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết” [72; 513]. Những truyện ngắn của Thạch Lam là sự chứng minh hùng hồn cho quan điểm ấy. Thạch Lam đã lắng nghe dòng cảm giác trôi chảy trong thế giới bí ẩn của tâm linh, khám phá được những khoảng sáng tối riêng trong nội tâm, đó cũng là những trạng thái sống mơ hồ của đời sống con người. Có một thiếu nữ thấy lòng mình bâng khuâng khi ngắm cảnh chiều buông trên phố huyện và đợi chờ khoắc khoải chuyến tàu đi qua trong khao khát về “một cái gì tươi sáng” cho mỗi ngày hằng sống (Hai đứa trẻ). Một cô gái khác luôn mong nhớ một chàng trai đi làm trên tỉnh xa, cứ mỗi độ hoa nở “cô lại giắt hoàng lan trên mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”; một chàng trai luôn có cảm giác “bình yên và thong thả” trong ngôi nhà và mảnh vườn xưa cũ (Dưới bóng hoàng lan)... Trong cái nhìn của Thạch Lam, tâm hồn con người dường như luôn rộng mở “sống toàn thân và thức nhọn giác quan” (Xuân Diệu) để cảm thấy thế giới theo cách của chính mình và qua đó lắng nghe những rung động rất khẽ, rất mơ hồ đang dấy lên trong lòng mình. Đây cũng là lí do khiến cho những ai đến với truyện ngắn Thạch Lam đều cảm thấy có mình trong đó. Trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, việc lựa chọn đối tượng phản ánh sẽ quy định nội dung phản ánh của nhà văn. Do lấy cái tôi làm đối tượng phản ánh, Thạch Lam thường miêu tả tinh tế những cảm giác, những trạng thái tình cảm mong manh, rất khó nắm bắt của nhân vật. Cảm quan hiện thực tâm lí 52 không chỉ hướng ngòi bút Thạch Lam vào việc khai thác những trạng thái sống mơ hồ của con người mà còn tham gia vào việc xử lí chất liệu nghệ thuật đặc biệt này. Với cái nhìn của một nhà văn tâm lí, Thạch Lam đã miêu tả thật ấn tượng những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, không dễ nhận biết và nắm bắt. Trong truyện ngắn Đứa con đầu lòng, nhà văn dùng trạng thái sống mơ hồ để tạo nên một dòng cảm xúc mong manh, khó nắm bắt của chàng trai trẻ lần đầu làm cha: “và Tân thấy trong lòng rung động khẽ như cánh bướm non, một tình cảm sâu xa mới mẻ chàng chưa từng thấy”. Bằng cách đó Thạch Lam đã mang đến cho trạng thái tình cảm mong manh của nhân vật một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Cách thức phản ánh này góp phần làm nên đặc trưng của thế giới nghệ thuật Thạch Lam, làm cho tác phẩm của ông nói được bằng văn chương những điều quan trọng về nhân sinh một cách hiệu quả nhất. Trên hành trình khám phá đời sống nội tâm bí ẩn của con người, Thạch Lam cũng luôn quan niệm: “tâm hồn người ta không giản dị như một biểu hiện và bao giờ cũng có một phần bí mật” [72; 522]. Do đó, nhân vật của ông luôn có những điều không thể hiểu hết, có những bí mật mà ngay chính họ cũng không hiểu nổi. Với sự tri ngộ sâu sắc, Thạch Lam như đã nhập hẳn vào tâm trạng của nhân vật để phô diễn những điều “chưa biết nói, chưa được nói, chưa thể nói”. Một cơn giận được mở ra từ rất nhiều bí mật đang dễn ra trong tâm hồn của nhân vật tôi: “có những ngày mà tự nhiên, không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu và hay gắt gỏng, không muốn làm việc gì”. Đúng là một trạng thái tâm lí rất mơ hồ. Cái mơ hồ ấy cho thấy ranh giới giữa thiện và ác, tốt và xấu, rồng phượng và rắn rết, thiên thần và ác quỷ trong mỗi con người nhiều khi thật mong manh và rất dễ bị xoá nhoà. Nó có thể thức dậy những cảm xúc nhân bản vốn bị khuất lấp bấy lâu nay ở một người ác nghiệt nhưng cũng có thể làm cho một người tốt có lúc trở nên tàn ác. Tuy viết là “không hiểu sao”, nhưng thật ra Thạch Lam đã đem sự "khó chịu" và "gắt gỏng" để giải thích 53 cho cái cảm giác, cảm tưởng của nhân vật. Bởi vì đời sống tâm hồn con người không bao giờ là ngẫu nhiên cả. Mỗi người đều biết rõ nhất mình đang nghĩ gì, mình đang cần gì và muốn gì. Cũng như vậy, Cuốn sách bỏ quên gợi mở biết bao điều mơ hồ trong thế giới của Thành khi nhân vật đang ôm mộng tưởng thành công rực rỡ mà lại phải đối diện với hiện thực phũ phàng là sách của anh không được nhà xuất bản và độc giả hoan nghênh. Lẽ thường, trong giờ khắc thất vọng ấy, người ta sẽ buồn rầu và đau khổ nhưng “Thành không hiểu sao chàng lại mỉm cười tuy chàng không muốn. Chính chàng cũng khó mà nói rõ được cái ý nghĩa của cái cười đó”. Trạng thái mơ hồ ở đây cho thấy những vui sướng, khổ đau thuộc về thế giới bên trong của con người là vô biên và nhiều khi chủ nhân của vương quốc ấy cũng không thể hiểu nổi. Bởi vậy mà con người thấy mơ hồ ngay cả với những gì đang diễn ra trong lòng mình. Ta cũng bắt gặp trạng thái mơ hồ này khi đọc truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đó là cảm giác “Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”; “Tâm hồn Liên yên tĩnh có những cảm giác mơ hồ không hiểu”; “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết”... (Hai đứa trẻ). Cảm giác ấy rất gần gũi với trạng thái “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” trong những vần thơ lãng mạn của Xuân Diệu. Ấy là một cảm giác không cụ thể, không rõ ràng, nhưng hiện hữu. Song chắc chắn trạng thái “không hiểu sao” ấy chỉ có ở những người tinh tế, nhạy cảm, yêu tha thiết sự sống khi họ đối diện với một cảnh huống nào đó của con người, của cuộc đời. Không sống sâu sắc với tâm hồn mình, không thể phát hiện ra điều đó. Ngòi bút tinh tế của Thạch Lam đã len lách vào các ngóc ngách sâu thẳm để bắt kịp dòng cảm xúc đang căng lên như sợi dây đàn trong tâm hồn cô gái mới lớn giữa sự bình lặng của cõi sống. Nhà văn đã đi sâu khám phá thế giới tinh thần phong phú với những cảm giác, cảm xúc thấm đẫm yêu thương, vừa thực lại vừa chập chờn hư ảo trong cõi lòng của Liên để 54 làm nổi bật trạng thái sống mơ hồ của nhân vật. Chúng ta cũng bắt gặp trạng thái “không hiểu sao” ấy ở rất nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam như: Bắt đầu, Một đời người, Đứa con, và đặc biệt là Sợi tóc. Ở truyện ngắn Sợi tóc, Thạch Lam đã “bắt mạch” đúng cái khoảnh khắc ngẫu nhiên, bất chợt mà nhân vật không kịp nhận biết cụ thể, rõ ràng, thậm chí không lí giải nổi. Khi nhận ra cái áo mình đương cầm có cái ví tiền, Thành như sống trong sự mơ hồ: “Tôi chỉ thoáng nghe thấy, trong tâm trí như còn bận sự gì”.Trạng thái mơ hồ được phát triển dần trong những băn khoăn lưỡng lự giữa việc có lấy cắp tiền hay không lấy cắp tiền của bạn. Tất cả được diễn đạt bằng những ý nghĩ mơ hồ: “Lấy mấy tờ, độ hai tờ - tại sao lại hai? Tôi không biết”; “Tâm hồn tôi lúc bấy giờ thế nào, tôi không biết rõ”; “Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết.”; “Hình như ý nghĩ ham muốn hay trù trừ tối ấy không phải là của tôi, hình như của ai ấy...” Cứ tưởng bão giông nhưng lại là trời yên bể lặng, có khi “ngỡ cầm tay lại cầm mưa” (Huy Cận). Đời sống tinh thần con người vẫn dung chứa nhiều cái bất ngờ, vô thường như thế. Tâm hồn con người lúc nào cũng có những bí mật mà chính họ cũng không hiểu nổi. Nói như Chế Lan Viên: “Lòng ta chẳng bao giờ ta đi hết được”. Vì vậy, đến với đời sống nội tâm trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, chúng ta sẽ bắt gặp chính mình ở đó. Sự thực của đời sống tâm hồn con người luôn được Thạch Lam soi chiếu qua nhiều góc độ, có những tốt đẹp, có cả những yếu hèn băn khoăn, những sắc màu mong manh của tâm lí. Cái vô thường, bất ổn của cuộc sống cùng vị trí của nhân vật trong xã hội và việc luôn “phải lụy những sức mạnh đâu đâu, những sức mạnh mà họ biết khó có cách gì thay đổi được” [72; 540] đã quy định những trạng thái sống của các nhân vật, khiến họ không thể làm chủ được cuộc đời mình và những gì diễn ra trong tâm hồn mình. Những yếu tố này làm nên một đời sống với những trạng thái mơ hồ, thất thường, khó nắm bắt trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam. 55 Qua việc phát hiện và phô diễn tinh tế, sâu sắc những gì tưởng như ngẫu nhiên, mơ hồ ở thế giới bên trong của con người, Thạch Lam đã khẳng định một khuynh hướng tìm tòi, sáng tạo. Bởi vì đời sống không phải chỉ có những sự kiện lớn lao mà còn có cả cái mơ hồ, ngẫu nhiên, bất chợt. Song đằng sau những cái mơ hồ ấy lại là những gì rất lớn lao của hiện thực. Nắm bắt và diễn tả cái mơ hồ, qua mơ hồ mà làm sáng tỏ mhững điều lớn lao của hiện thực là cả một thử thách không dễ gì vượt qua đối với người nghệ sĩ trên hành trình sáng tạo. Và Thạch Lam đã làm được điều đó. Sự phát triển của văn học hậu hiện đại một lần nữa khẳng định tìm tòi của Thạch Lam trong địa hạt truyện ngắn. Hàng loạt tác phẩm của các nhà văn hậu hiện đại đã cho thấy hầu hết tác phẩm văn xuôi hậu hiện đại đều viết về những trạng thái mơ hồ, đều được xây dựng từ những mảnh ghép của hiện thực. Và người nghệ sĩ đã trao truyền cho người đọc những thông điệp giàu ý nghĩa nhân sinh qua chính những gì tưởng như mơ hồ, mong manh ấy. Bút pháp hướng nội và cái nhìn đa dạng, đa chiều về con người đã giúp Thạch Lam tìm đến miền khuất lấp của tâm hồn để trân trọng, nâng niu những gì thuộc về bản tính thiện. Thủ pháp phản ánh nghệ thuật này không những tạo được chiều sâu tâm hồn cho kiểu nhân vật đặc trưng của Thạch Lam mà còn đem lại cho truyện ngắn của ông sức hấp dẫn riêng đối với người đọc. 2.3 Thạch Lam và những kí ức tuổi thơ Trong lời bày tỏ những suy nghĩ của mình về sự sống, Thạch Lam viết: “Nói đến sự sống, tức là nói đến sự đổi thay. Cuộc sống không đứng yên một chỗ, lúc nào cũng hoạt động, cũng lưu chuyển như dòng sông chảy mãi chẳng ngừng”[72; 534]. Đúng là như vậy. Theo bước đi của thời gian, mọi thứ rồi sẽ trôi qua và trở thành kí ức. Vấn đề là ở chỗ, con người có cách ứng xử như thế nào với kí ức của mình. Là người yêu tha thiết sự sống, “trang trọng trước sự sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân), Thạch Lam không chỉ tìm thấy ý nghĩa 56 cuộc đời trong hiện tại mà còn nâng niu, trân trọng những gì thuộc về kí ức. Đây cũng là điểm gặp gỡ của Thạch Lam với các nhà văn khác như Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng... Vì sao kí ức tuổi thơ lại trở thành tín hiệu thẩm mĩ đặc biệt dưới ngòi bút của Thạch Lam? Phải chăng là vì khi con người trưởng thành, trên hành trình rong ruổi theo số phận, họ gặp quá nhiều thất vọng nên muốn quay về miền yên ả để tìm đến niềm an ủi. Chính trong ý nghĩa đó, trở về với dĩ vãng là một cách để thoát li thực tại, để thể hiện sự quay lưng, bất mãn với thực tại. Đây là một đặc điểm nổi bật của văn học lãng mạn nửa đầu thế kỉ XX. Thạch Lam cũng không là trường hợp ngoại lệ. Không giống như Hồ Dzếnh hay Thanh Tịnh tìm về kí ức tuổi thơ của Quê mẹ hay một Chân trời cũ trong cái nhìn trẻ dại, Thạch Lam quay về với dĩ vãng tuổi thơ trong tâm thế một con người đang bước vào ngưỡng cửa mùa thu của cuộc đời. Trong cái nhìn thâm trầm, điềm tĩnh ấy, Thạch Lam thấy cả một chân trời kí ức bình dị, gắn bó thân thương hiện về. Đọc truyện ngắn Thạch Lam, ta thấy các nhân vật của ông đều có kí ức về tuổi thơ, về quá khứ, về một cõi xa xưa nào đó. Thế giới tuổi thơ ấy luôn sinh động và hiện hữu như một ám ảnh trong đời sống hiện tại của nhân vật. Phản ánh thế giới tuổi thơ ấy, truyện ngắn của Thạch Lam có những nét riêng. Dĩ vãng tuổi thơ thường trở về và đan xen vào hiện tại trong các truyện ngắn của Thạch Lam. Nói cách khác, đó là hiện tại được kéo lùi về quá khứ hay một phần quá khứ được ném trở lại hiện tại. Có thể nhận ra "hệ số chung" ấy trong rất nhiều văn phẩm tiêu biểu của Thạch Lam, chẳng hạn như: Hai đứa trẻ, Tối ba mươi, Dưới bóng hoàng lan... Dĩ vãng khác nhau nhưng đều "dan díu" với hiện tại. Các nhân vật lúc nào cũng tưởng tượng ra, nhớ lại, nghĩ đến, tựa như thấy về ngày xưa. 57 Trong nhịp sống đơn điệu, buồn tẻ nơi phố huyện nghèo, chị em Liên (Hai đứa trẻ ) lúc nào cũng ngóng vọng về Hà Nội. Chốn thị thành ấy là hình ảnh của một quá vãng êm đềm đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nhàm chán của chị em Liên trong hiện tại. Song chính sự đối lập ấy lại càng nhắc nhớ về kỉ niệm. Kỉ niệm hiện lên thật đẹp, còn hiện tại sao mà buồn, thậm chí ẩn chứa sự mong manh, đầy bất trắc. Kí ức đẹp đẽ trong Liên gắn với những buổi đi chơi Bờ Hồ, những cốc nước lạnh xanh đỏ, ánh sáng đèn rực rỡ, lấp lánh. Phảng phất ở đó là nỗi niềm nuối tiếc về những gì êm đẹp của ngày xưa. Cũng không phải ngẫu nhiên, đêm đêm, chị em Liên cố thức chờ chuyến tàu đi qua phố huyện. Con tàu ấy là hiện thân của kí ức, và kí ức ấy soi sáng cho hiện tại đồng thời mở ra ước vọng dẫu còn mơ hồ về tương lai. Có thể nói quá khứ ở đây như một đắp bồi cho con người những gì mà họ đang khuyết thiếu trong hiện tại. Nếu trong Hai đứa trẻ, nhân vật ngưỡng vọng về quá khứ thị thành từ cảnh sống hiện tại nơi phố huyện thì ở Tối ba mươi, sự ngưỡng vọng quá khứ diễn ra theo chiều ngược lại. Những cánh hoa đào khoe sắc thắm trong gió xuân, tấm áo mới may để đón Tết, những ngày cúng giỗ tổ tiên... cả một thế giới tuổi thơ ùa về trong nỗi nhớ của Liên và Huệ giữa đêm trừ tịch tại chốn phồn hoa. Dĩ vãng ở đây vừa khiến cho nhân vật thấm thía nỗi tủi nhục, khổ sở, đắng cay vừa giúp giải toả những ám ảnh nặng nề day dứt đang vây bủa quanh mình. Cũng thể hiện sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ theo chiều hướng như trong Tối ba mươi nhưng Dưới bóng hoàng lan lại đem đến một cảm giác nhẹ nhàng, cao khiết. Bao hình ảnh, sắc màu, âm thanh, hương vị của quê hương như mảnh vườn xưa thân thuộc, vòng tay che chở yêu thương của người bà, tiếng cười trong trẻo cùng nỗi nhớ của cô bạn gái dịu dàng, trong sáng như một thiên thần, hương hoàng lan thoảng đưa trong gió... đã kết dệt 58 nên một cõi sống đẹp như giấc mơ trong các câu chuyện cổ. Quá khứ và hiện tại đan xen, quấn quyện, khó có thể nói hình ảnh nào là của quá khứ, hình ảnh nào là của hiện tại. Câu chữ có cái gì nửa hư nửa thực phù hợp với không khí thơ mộng của truyện. Song chính cái thơ mộng ấy lại mở ra trong cõi lòng nhân vật sự ấm áp, xao xuyến như “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây khiến chàng vương phải”. Trong tâm niệm của Thanh, kí ức chính là sự bình yên của tâm hồn, là cái đẹp của một thời xa xưa mãi được neo giữ trong cõi nhớ. Từ những trạng thái tâm hồn của nhân vật trong Dưới bóng hoàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_NMN.pdf
Tài liệu liên quan