Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc

MỤC LỤC

Trang

DẪN NHẬP

1.Lí do chọn đề tài . 1

2.Lịch sử vấn đề . 4

3.Phạm vi nghiên cứu . 8

4.Phương pháp nghiên cứu . 10

5.Đóng góp của luận văn . 12

6.Kết cấu luận văn . 13

NỘI DUNG

CHƯƠNG I. QUAN NIỆM CỦA BÌNH NGUYÊN LỘC VỀ VĂN CHƯƠNG,

NGHỆ THUẬT VÀ NGƯỜI NGHỆ SĨ. 14

1.Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về văn chương,nghệ thuật . 18

2. Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về người nghệ sĩ . 25

CHƯƠNG II.MỘT SỐ NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CHỦ ĐẠO TRONG

VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT BÌNH NGUYÊN LỘC . 33

1.Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về lòng yêu nước . 34

2.Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về đất nước . 40

CHƯƠNG III.QUAN NIỆM NGHỆ THUẬTVỀ CON NGƯỜI TRONG

VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT BÌNH NGUYÊN LỘC . 49

1. Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về con người nhỏ be . 51

2. Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về mối quan hệ giữa con người và

thế giới khách quan . 55

3. Quan niệm của Bình Nguyên Lộc về con người nhận thức . 59

CHƯƠNG IV. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT BÌNH NGUYÊN LỘC . 69

1.Không gian nghệ thuật . 69

2.Thời gian nghệ thuật . 83

CHƯƠNG V. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT

BÌNH NGUYÊN LỘC. 89

1.Các dạng thức đa thanh,phức điệu trong lời văn nghệ thuật

Bình Nguyên Lộc . 89

2.Các dạng thức cú pháp trong văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc . 103

KẾT LUẬN . 116

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 119

pdf120 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2246 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“chân trời quen thuộc” , bị ném vào một chân trời mới, lập tức cái mô hình về thế giới trong ý thức anh ta ( phản ánh cái “chân trời quen thuộc” của anh ta )sẽ xung đột với không gian mới.Người ta vẫn thường gọi đó là những cú “shock văn hoá” .Để thoát khỏi “shock” , người ta có ba cách giải quyết : một là, lãng quên cái mô hình cũ, nạp vào mô hình mới.( Dĩ nhiên, phương pháp này không thể tiến hành một sớm một chiều.Hơn nữa,nhà văn gọi những kẻ theo phương án này là những …kẻ vô loài ! ) ; hai là , tạo ra cái không gian cũ trong không gian mới để tự an ủi mình ; ba là, trở về với không gian cũ của mình .Phương án thứ hai và thứ ba là phổ biến nhất ,và nhà văn cũng chỉ thương những người nào theo hai phương án đó thôi. Trên thực tế ,chúng ta bắt gặp rất nhiều “không gian văn hoá Việt Nam” tại Pháp,Mĩ, Nga,Đông Aâu… do “những đứa con thương của đất mẹ” mang đi. Đọc “Chiến tranh và Hoà bình” của L.Tônxtôi, ta gặp những nhân vật có thể thích ứng với mọi không 56 gian,tiêu biểu là Nikolai Rostov : chàng thể hiện mình ở trung đoàn không như ở nhà ,ở nông thôn không như ở Moskva ,khi chàng ở nơi khiêu vũ hay ở chiến trường,hành vi của chàng không chỉ được tính cách của chàng quyết định mà còn bị những tiêu chuẩn ứng xử chung của những không gian ấy cụ thể ấy chi phối ( 14, 292 ).Ở các nhân vật của Bình Nguyên Lộc thì khác,những nhân vật mà ông yêu quý chỉ và chỉ được mô hình thế giới trong ý thức của chúng chi phối, do đó chúng chỉ tìm được cõi bình an trong tinh thần khi sống trong không gian của riêng mình.Như chúng tôi đã trình bày ở chương trước,trong tư tuởng nghệ thuật của Bình Nguyên Lộc, đô thị là một không gian văn hóa phi bản sắc nên cái mô hình thế giới mà nó tạc vào ý thức người thị dân là một mô hình có tính chất quốc tế .Do đó,con người của nó có thể rong ruổi ở tất cả các đô thị trên thế giới mà không bao giờ bị shock văn hoá.Nhưng những kẻ ấy lại không chịu đựng được khi được trở về không gian thôn dã của dân tộc,tựa như chàng Tập trong truyện “Hương hành kho” ,sinh trưởng tại Paris, quen với mùi đô thị,cũng mở miệng nói về “lòng yêu nước” nhưng khi nhìn thấy một làn khói trắng,một mùi hương hành kho thì lại dị ứng.Nhưng con người như thế,khi trở về đất mẹ sẽ lại thương nhớ một cách ngược đời quê hương của người khác .Thái độ của Bình Nguyên Lộc là hết sức dứt khoát : những kẻ như thế “thực ra là một thằng Pháp-Lăng- Sa”( 9,1005).Đứng một thực tế là tuy người ta không thể lựa chọn cha mẹ,dân tộc,nhưng người ta có thể thay đổi không gian văn hoá của mình,thì với nhà văn, con người Việt Nam đẹp nhất là con người biết níu giữ một “cuống rún chưa lìa” với quê cha đất tổ bằng mọi giá. Nếu như “con người yêu nước”trong văn Nguyễn Quang Sáng (“Chiếc lược ngà”) , trong văn Đoàn Giỏi ( “Đất rừng phương Nam” ) là con người biết đứng lên cầm vũ khí, thì “con người yêu nước” trong văn Bình Nguyên Lộc là con người biết gìn giữ bản sắc văn hoá của dân tộc trong tâm hồn mình một cách tự giác và bằng cả tấm lòng.Đoạn văn sau đây,nếu không chú ý,ta sẽ có cảm tưởng nhà văn ái ngại cho những ngừơi nông dân ,nhưng thực ra thái độ của ông là khẳng định : “Luôn luôn dân quê ra chợ phải lạc hướng trọn đời của họ và chỉ có thế hệ sau mới nhuộm được màu chợ chớ họ không thể đổi màu chớp 57 nhoáng như loài tắc kè vậy đâu.( Lối so ánh này là một minh chứng cho thái độ đồng tình của nhà văn với lòng trung thành của người thôn dã ). Dân quê ra chợ là những kẻ tự hi sinh mình ( Ở đây nhà văn dùng từ “hi sinh” nhưng không hề có ý ngợi ca. Điều ông đồng tình là người nông dân trở về với làng cũ như hành động của vợ chồng anh Mít sau đó ) ,trong cái kiếp của mình ,cái kiếp nhớ khôn nguôi chân trời cũ ,cái kiếp chịu đựng hoàn cảnh mới mà họ theo không được.” ( 9,1039 ) Đến đây chúng tôi thấy có thể rút ra kết luận là : Bình Nguyên Lộc có một quan niệm nghệ thuật cho rằng con người cần phải biết biến cảm xúc thành trí tuệ , để khi rời xa làng quê con người vẫn biết cách lưu giữ trong tâm hồn mình những cảm xúc bất chợt và dịu dàng về miền quê ấy sao cho chúng cứ ngân lên, vang mãi, sao cho “ cuống rún “ dẫu đã đứt nhưng vẫn “chưa lìa “ khỏi cơ thể bà mẹ Dân tộc.Cái quan niệm này chỉ có thể gắn với mô hình “ Nhân vật rời không gian A đến không gian B rồi trở về A “ hoặc “ Nhân vật tạo ra không gian A bên trong không gian B” . Nó không thể gắn với một mô hình khác ,chẳng hạn như : “ Nhân vật A làm việc B tại C vì D mà E “ .Điều ấy chứng tỏ mỗi mô hình có nội dung riêng của nó. 3) Quan niệm nghệ thuật của Bình Nguyên Lộc về con người nhận thức Bên cạnh mô hình đã được phân tích ở phần trên, truyện ngắn Bình Nguyên Lộc còn có một mô hình khác cũng khá quan trọng và phản ánh một quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người .Đó là mô hình : “Nhân vật chuyển từ nhận thức A sang nhận thức B” Nội dung của mô hình này là sự chuyển đổi tư tưởng của nhân vật từ trường nhận thức A, sản phẩm của không gian văn hoá A ,sang trường nhận thức B nhờ những tác động từ bên ngoài và nhất là nhờ chính nỗ lực tư tưởng của chính bản thân.Sự chuyển đổi này tạo ra bước ngoặt trong đời sống tinh thần nhân vật ,do đó, nó không đơn giản chỉ là những diễn biến tâm lí mà mang tính chất của một “hành động tinh thần”.Mô hình này lại có hai dạng thức nhỏ .Dạng thứ nhất,nhân vật chuyển đổi về nhận thức và sự chuyển đổi ấy lại đem lại cho nhân vật niềm thất vọng đau 58 đớn ê chề,nói cách khác,nhân vật vỡ mộng.Dạng thứ hai,ngược lại,sự chuyển đổi ấy đem lại cho nhân vật một niềm thanh thản trong tinh thần. Những truyện như : “Người đẹp ven sông”, ”Nắng chiều hấp hối”, “Căn gác hồng của Lâm” , “Bên kia sự thật ”… thuộc về dạng thức thứ nhất.Đó là câu chuyên của anh Tư Được ,ước cô gái nhu mì ,xinh đẹp trên tấm bảng quảng cáo là một người vợ hiền lí tưởng của mình (“Người đẹp ven sông” ) ; là câu chuyện của anh thi sĩ Minh nghĩ ái nữ của ông chủ yêu mình vì mình có tài thơ (”Nắng chiều hấp hối” ) ; câu chuyện của anh văn sĩ Lâm,nhìn cái bóng người trên một căn phòng của ngôi biệt thự trước nhà ,ước mơ đó là một nữ sinh văn khoa lãng mạn và …yêu thơ mình (“Căn gác hồng của Lâm” ) ; của hai anh văn sĩ tên Biền và Hồ ,mơ yêu một thiếu phụ đoan chính. Cuối cùng ,tất cả đều vỡ mộng : cô gái trên tấm bảng quảng cáo là một me Tây , ái nữ của ông chủ chỉ đùa giỡn với nhà thi sĩ , cô nữ sinh văn khoa chẳng qua là một đứa ở dốt nát và người thiếu phụ đoan chính lại là một me Mĩ. Những truyện như “Căn bệnh bí mật của nàng” , “Con Tám Cù Lần”,”Chiêu hồn nước” , “Những đứa con thương của đất mẹ” ,”Qua lối cũ”… thuộc về dạng thức thứ hai .Truyện “ Căn bệnh bí mật của nàng “ kể về một người phụ nữ Việt lấy chồng Tây,bị tâm thần nhẹ. Cả ông giáo sư phân tâm học , chồng bà và bản thân bà đều không rõ tại sao bà bị bệnh. Oâng giáo sư trổ hết tài nghệ để bà giải tỏa những … ức chế tình dục của bà, nếu có , nhưng vô hiệu vì cái ức chế bà không phải là cái ấy. Cuối cùng mọi người mới hiểu ra cái ức chế tâm linh bà là : nỗi nhớ quê hương. Truyện “ Con Tám Cù Lần “ kể về bé Tám , làm nghề giúp việc nhà , nằng nặc đòi bà chủ cho về quê để bắt ốc gạo. Bà chủ không hiểu vì sao nó lại đòi về cái nơi khói lửa và vất vả để làm cái nghề không có tương lai ấy. Cuối cùng bà hiểu ra : nỗi nhớ ốc gạo của nó chính là nỗi nhớ quê.Và rồi bà quyết định cho con ăn một bữa ốc gạo để chúng biết thế nào là mùi vị quê hương.Truyện “ Chiêu hồn nước “ kể về một anh văn sĩ hay mơ mộng vớ vẩn.Một đêm nọ chàng gặp một me Tây đang lang thang trên phố đêm. Chàng tưởng bà là gái bán thân nuôi miệng, không ngờ bà lang thang trên phố là để cảm nhận tất cả linh hồn của quê hương trước ngày theo chồng đi định cư nơi xứ lạ. Từ đó,chàng vẫn mơ mộng,nhưng không còn mơ mộng về những cô gái và nhưng mối tình không có trong cuộc đời thực nữa.Truyện “Những đứa con thương của đất mẹ” thì kể về những thay đổi nhận thức của chàng Tuấn.Ban đầu chàng 59 nghĩ tất cả những cô me Mĩ đều mất gốc ,đáng khinh, nhưng chàng không ngờ chính họ lại là những người gìn giữ quê hương trong lòng họ bền bỉ nhất – không phải chỉ giữ bằng thói quen mà giữ bằng tự giác hẳn hoi.Từ đó chàng không còn dám khinh họ nữa. Như vậy ở những tác phẩm kể trên có sự đan xen giữa hai mô hình,nói cách khác,chúng được định hình từ hai mô hình khác nhau : mô hình “Nhân vật chuyển từ nhận thức A sang nhận thức B”và mô hình “ Nhân vật rời không gian A đến không gian B rồi trở về A “ ( cùng mô hình biến thể : “ Nhân vật tạo ra không gian A bên trong không gian B” ) .Chẳng hạn như ở truyện “ Con Tám Cù Lần “ ,rời quê lên phố rồi lại bỏ phố về quê là quá trình của nhân vật Tám , còn chuyển từ chỗ nghi ngờ bé Tám đến chỗ hiểu ra lòng yêu quê hương của bé rồi từ đó tự suy ngẫm về bản thân và về con cái mình là quá trình của nhân vật “tôi” .Chính sự kết hợp giữa hai mô hình đã làm cho câu chuyện tuy hết sức đơn giản, có dáng dấp của “kiểu truyện không có chuyện” những vẫn tạo được những biến cố hấp dẫn.Sự kết hợp của hai mô hình này phản ánh một quan niệm nghệ thuật của Bình Nguyên Lộc .Con người chỉ thực sự tìm thấy bản thân mình khi nó nằm trong một miền suy tưởng.Quá trình cộng đồng hun đúc cho cá nhân một nền văn hoá là một quá trình tự phát,dường như nằm ngoài tầm kiểm soát của mỗi cá nhân.Văn hoá của anh là văn hoá Việt Nam hay văn hoá Pháp ,anh mang tâm hồn dân tộc hay chứa một tâm hồn ngoại lai, tất cả đều tự phát ,đều do cuộc sống dẫn dắt và xô đẩy .Nhưng “con người là một cây sậy biết suy nghĩ” ( Pascal ).Chính khả năng suy tưởng,khả năng tự phát xét thế giới, khả năng tự ý thức về bản thân mới có thể giúp con người đạt tới một sự lựa chọn tự giác và đúng đắn.Bởi lẽ,sống là quá trình lựa chọn giữa các giá trị.Tất cả nhân vật trong những truyện kể trên ,bé Tám Cù Lần, anh Cam,chị Quýt ,chàng Tuấn,anh Tư , đều ý thức rất rõ bản chất của mình là gì, không gian máu thịt của mình là ở đâu.Họ đều thấy mình là người con của đồng ruộng,cần quay về với đồng ruộng,rằng mình chỉ là “dân kẻ chợ giả hiệu” ,rằng đô thị không phải là nơi giành cho mình.Đặc điểm ấy của nhân vật chỉ có thể hình thành dưới quan niệm cho rằng con ngừơi là một “lực lượng hành động” ,nó trực quan hoá bản chất của mình nhờ hành động.Chính nó tạo ra trở ngại và chính nó khắc phục trở ngại của mình bằng ý chí chí dám vượt qua những ranh giới của cuộc đời ,bằng hành động lựa chọn cho nó một hướng đi giữa những nẻo đường khác nhau của cuộc sống. 60 Chúng ta biết rằng sau cuộc cách mạng trong văn học giai đoạn 1932-1945,văn học Việt Nam bước vào thời kì hiện đại với đặc điểm chủ đạo là khẳng định cái tôi của mỗi cá nhân.Từ đó,cá nhân trở thành một một đối tượng hiển nhiên của mọi tác phẩm văn học.Nhưng,quan niệm về con người cá nhân ở mỗi nhà văn mỗi khác,ở mỗi dòng văn học mỗi khác,và ở những giai đoạn văn học khác nhau thì cũng không giống nhau.Chúng tôi cho rằng tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của một nhà văn về con người thì không thể bỏ qua hình ảnh con người cá nhân trong cảm quan nhà văn.Cái cảm quan chú ý trước hết đến khả năng tự ý thức của cá nhân, sự lựa chọn chủ động và cương quyết của cá nhân trước những giá trị … ,chúng tôi nghĩ rằng, chính là một tiếng vang của những thanh âm bề bộn của thời cuộc dội vào văn Bình Nguyên Lộc… Nếu sinh ra ở miền Bắc thời ấy, hầu như con người không phải lựa chọn gì. Đường đi của cuộc đời đã được thiết lập sẵn,cá nhân chỉ việc phấn đấu sao cho đạt được thành tích cao nhất. Nhưng sống tại Sài Gòn thì tình hình không đơn giản như vậy.Anh ta ngày đêm chịu sự tác động của vô vàn thông tin ngược chiều,thật giả lẫn lộn. Cách mạng có, Đế quốc có , và còn cả hàng nghìn trào lưu tư tưởng khác nhau .Chính cái môi trường ấy mới thực sự là nơi đòi hỏi con người phải có bản lĩnh tinh thần cao nhất, có ý thức về giá trị cá nhân mạnh mẽ nhất, và dĩ nhiên,trên hết, sự lựa chọn chỉ đúng đắn khi anh có một tấm lòng yêu nước chân thành. Có một vấn đề được đặt ra là : nếu nói nhà văn tư duy bằng mô hình thì liệu có hạ thấp sự sáng tạo của nhà văn không ? Nếu nói nhà văn viết cả nghìn truyện ngắn nhưng lại viết theo một số lượng mô hình hạn chế thì có phải là nói nhà văn đã sáng tác “ theo một vài kiểu mẫu đưa cho” như cách nói của Nam Cao trong “ Đời thừa” ? Theo chúng tôi thì không phải như vậy. Nếu nhìn ở các quan hệ bề mặt của mỗi truyện ta sẽ thấy chẳng truyện nào giống truyện nào ; và nếu nhìn xuyên qua các quan hệ bề mặt ấy ta sẽ gặp các quan hệ bề sâu là các mô hình .Những tác phẩm có chung mô hình sẽ được xếp chung vào một nhóm. Như vậy việc nhà văn viết được cả nghìn truyện ngắn là do vốn sống chất sống của nhà văn cực kỳ phong phú.Mỗi truyện vẫn là một mảnh tâm hồn được rút ra từ thế giới tâm linh nhà văn. Ở đây dễ có sự nhầm lẫn giữa cấu trúc tác phẩm ( mô hình nghệ thuật của tác phẩm ) và kết cấu của nó.Năm 1928, V.I.Prốpp vẽ nên cấu trúc của các truyện cổ tích thần kì Nga và nêu lên một số thao tác nghiên cứu,sau đó vào những thập niên giữa thế kỉ XX, Lévi-Strauss nâng những thao tác ấy lên thành một 61 phương pháp luận.Đây là một thành tựu triết học lớn,là sự phát triển một phần của triết học Mác – các cặp phạm trù “cái bên trong và cái bên ngoài” , “cái bản chất và cái hiện tượng”, “cái khả năng và cái hiện thực” – .Cấu trúc là một mô hình nghệ thuật có tính chất trừu tượng ,là cái bên trong, một nét bản chất chung cho một nhóm tác phẩm nào đó ,mà mỗi tác phẩm một hiện tượng, một cách biểu hiện ra bên ngoài,là sự trực quan hoá của mô hình.Tuy vậy,nhiều sách Lí luận văn học của ta thường đơn giản hoá nó,đồng nhất nó với khái niệm kết cấu.Khi trình bày về kết cấu tác phẩm văn học, những sách này thường dành một phần để phê phán thuyết cấu trúc của L.Strauss, làm cho người đọc hiểu nhầm rằng cấu trúc và kết cấu gần như là một .Chủ nghĩa cấu trúc Pháp và chủ nghĩa hình thức Nga thường bị phê phán rằng : nếu kết cấu của tác phẩm nào cũng giống nhau thì “người ta dễ dàng đưa ra một quy trình sản xuất hàng loạt” ( 15,296 ).Phê phán như vậy,theo suy nghĩ chủ quan của chúng tôi,thì vừa đúng vừa sai.Đúng ở chỗ quả thực tác phẩm văn học là những sáng tạo độc đáo ,không lặp lại.Nhà văn không thể sản xuất 1000 truyện ngắn giống nhau,tựa như một nhà máy sản xuất 1000 chiếc áo giống nhau.Nhưng sai ở chỗ hiểu nhầm khái niệm cấu trúc của các nhà lí luận nói trên.Cấu trúc ,theo nhận thức của chúng tôi, không phải là “cái phần bất biến ổn định của kết cấu tác phẩm,chứ không phải là toàn bộ kết cấu” ( 15,296 ) ; và cũng không đúng khi nói rằng“phương pháp cấu trúc chỉ có giá trị là một phương pháp cận cảnh cụ thể nhằm đạt tới những kết quả chính xác về kết cấu tác phẩm…” ( 4,120 ).Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định cho rằng thuyết cấu trúc “không cho ta những giải pháp xác đáng về giá trị tác phẩm.Tức là nó chỉ có ý nghĩa là một phương pháp cục bộ” ( 4,120 ).Nhưng dầu sao,một khi chúng ta đã dùng thuật ngữ “cấu trúc luận” để dịch thuật ngữ “structuralism” thì không nên dùng “cấu trúc” như là một từ gần nghĩa với “kết cấu” nữa. Kết cấu là cái linh hoạt ,độc đáo,còn cấu trúc là cái bất biến trong ý thức nghệ thuật một nhà văn trong một giai đoạn nhất định ; cấu trúc thường gắn với hàng loạt tác phẩm,kết cấu là cái thuộc về những tác phẩm cụ thể ; nói đến kết cấu người ta nói tới cách sắp xếp vị trí của hệ thống hình tượng ( nhằm tạo ra một kiểu quan hệ giữa chúng ) và cách sắp xếp dung lượng của các bộ phận văn bản ( nhằm tạo ra hình thái chung của văn bản : cân đối hay thiên lệch giữa các phần… ) còn cấu trúc lại là cái mô hình thế giới trong ý thức nghệ thuật nhà văn ,không phụ thuộc vào kết cấu.Trong văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc, cụ thể hơn là trong truyện ngắn của 62 ông,các tác phẩm xuất phát từ một mô hình nghệ thuật vẫn có kết cấu khác nhau hoàn toàn,do đó chúng vẫn là những tác phẩm không lặp lại. Chẳng hạn,hai tác phẩm “Về làng cũ” và “Phân nửa con người ” đều thuộc mô hình “Nhân vật rời không gian A đến không gian B rồi trở về A” nhưng không có một điểm nào trong kết cấu của chúng giống nhau cả.Kết cấu của “Về làng cũ ” có hai phần : phần thứ nhất từ đầu cho đến chỗ : “ Chị Mít đứng chết sững mấy mươi giây rồi bỏ chạy mất ,kẻo chồng chị lại đạp một cái nữa mà lại đạp nhè lên chị thì bỏ đời ” ,kể về cuộc gây lộn của hai vợ chồng .Phần thứ hai là phần còn lại,hai vợ chồng làm lành và quyết định về làng cũ chỉ vì một lí do duy nhất là do đã nhận ra nơi nào mới là nơi đem lại cho mình hạnh phúc ( hạnh phúc,chứ không phải là tiền bạc) .Nhiệm vụ của phần I là tạo nguyên cớ để anh Cam nhận ra bản chất thôn dã của mình và dẫn đến quyết định ở phần II.Ở phần I này ,nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật bằng thủ pháp “kéo dãn thời gian” ( hay “dồn nén thời gian” )làm cho phần này có giọng điệu hài hước,để rồi sau đó đột ngột chuyển sang giọng điệu mới – giọng điệu “trầm tư thế sự”.Nhà nghiên cứu Phùng Quí Nhâm cho rằng : “Trong những mức độ và phạm vi khác nhau,thời gian được xem như là yếu tố của kết cấu” ,và,”kết cấu phụ thuộc vào sự lựa chọn thời gian của người sáng tạo” ( 17,70 ).Chị Mít nói hỗn với anh Cam,anh Cam nổi giận đánh vợ ,nhưng không nỡ,chỉ muốn doạ thôi .Nhưng hai vợ chồng đang ở buồng trước, anh không thể tìm đâu ra một cái tô,một cái chén hay cái gì khác dễ vỡ để làm “bia đỡ giận” ,anh bèn…đá vào cái cột nhà.Chị Mít hoảng sợ chạy mất còn anh Cam thì kinh ngạc vì phát hiện ra cột nhà không phải bằng bê tông mà bằng ống nước .Nhìn cái “cột bê tông giả hiệu” ấy ,anh chợt nghĩ đến bản thân mình.Mình cũng giống nó,chẳng qua là “người kẻ chợ giả hiệu”.Sự hỗn láo của vợ anh là do nhiễm “cái thói nam nữ bình quyền” ( ! ) ở kẻ chợ , sự vũ phu của anh cũng là do nhiễm thói chợ,chứ ngày xưa hai vợ chồng rất hiền lành. “Mình là kẻ sinh đẻ,lớn lên ở đồng ruộng (…),vợ mình cũng vậy.Mình phải về với đồng ruộng mới xong” ( 9,1039 ).Về kết cấu hình tượng ,ở phần đầu thì đối lập : chị vợ thì xấc xược với chồng,anh chồng thì vũ phu với vợ, nhưng ở phần hai thì lại là quan hệ bổ sung : cả hai trở về với bản chất thôn dã đích thực của mình. Còn ở tác phẩm “Phân nửa con người ” kết cấu lại gồm bốn phần.Phần thứ nhất ,từ đầu đến chỗ lời anh Nhánh “- Má nó mua cho lẹ,kẻo trễ con nước,chèo nước ngược khổ lắm ” nói về những thắc mắc của vợ chồng anh Nhánh trước việc ba anh Nhánh lại đòi làm đám giỗ má 63 anh giữa trưa một cách linh đình ,trong khi gia đình họ sống trên ghe thương hồ ,đâu có nhiều khách khứa mà mời.Đoạn thứ hai bắt đầu từ chỗ kết thúc đoạn một đến chỗ : “Nhờ trời ngó lại,anh trúng mối liền liền và anh công tử vườn này quyết chí làm lái thương hồ cho đến trọn kiếp” ,giới thiệu về gia cảnh anh Nhánh .Đoạn thứ ba,bắt đầu từ chỗ kết thúc đoạn hai đến chỗ : “Nhưng vợ chồng anh còn chưa biết nhiều thứ khác” tả quang cảnh đám giỗ và miêu tả niềm vui kì lạ của cha anh Nhánh.Đoạn cuối cùng cho ta biết lí do của những việc kì lạ mà ông cụ làm : ông cụ quyết định bỏ ghe thương hồ để về với ruộng đồng. Về kết cấu hình tượng, mối quan hệ giữa các nhân vật trong truyện không phải là những kiểu quan hệ thường gặp (đối lập, đối chiếu, tương phản,bổ sung )mà là kiểu quan hệ “khác biệt” : các nhân vật chuyển từ chỗ tư tưởng khác nhau đến chỗ tư tưởng thống nhất với nhau. Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng : cấu trúc tác phẩm và kết cấu tác phẩm là hai vấn đề khác nhau,mặc dù chúng có mối liên hệ mật thiết. Trong luận văn này,chúng tôi dùng cả hai khái niệm “cấu trúc” và “mô hình nghệ thuật” vì như trên đã nói, cấu trúc thường được hiểu là kết cấu,mặt khác, nhiều công trình của các nhà cấu trúc luận do sa đà vào cấu trúc tác phẩm mà bị phê phán là biến tác phẩm thành một cái xác không hồn.Chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng : không có hình thức ngoài nội dung và ngược lại không có nội dung ngoài hình thức. Khi đưa ra một lí luận mới ,do muốn làm nổi bật vấn đề,các nhà lí luận thường dễ thiên lệch ,chỉ trình bày về vấn đề ấy thôi mà không chú ý đến những vấn đề khác. Chính Lévi-Strauss cũng quan niệm “cấu trúc…là nội dung có thể nắm bắt được trong một tổ chức loghích, được quan niệm như là đặc điểm của hiện thực” (23,397 ),nhưng cứ như cách làm của ông và Roman Jakovson thì bài thơ “Những con mèo” của Charles Beaudelaire chỉ còn là một “cấu trúc” của những vần f ,âm r, âm l , những bổ ngữ ,những mệnh đề, những danh từ,tính từ ,đại từ số ít-số nhiều,giống đực- giống cái… ( xin xem : 22,146-177 ).Thơ ca trước hết phải là một cách cảm về cuộc đời .Dĩ nhiên là cách cảm ấy phải tồn tại trong một hình thức tương ứng,nhưng không nên chỉ chăm chăm vào hình thức của đối tượng mà biến nó thành cái xác thuần tuý .Tuy vậy,chúng tôi nghĩ rằng,họ không chú ý đến thôi,chứ không phải là không hiểu chúng ,không biết chúng ,hay muốn phủ nhận chúng. Chúng tôi đồng ý rằng : nói nhà văn sáng tác giống như một dây truyền công nghệ “sản xuất hàng loạt” đúng là rất phi lí ,nhưng qủa thực 64 trong ý thức nghệ thuật của Bình Nguyên Lộc,có các mô hình nghệ thuật tồn tại độc lập. Cách sáng tác của ông là : sau một quá trình tích luỹ vốn sống,có một cảnh đời,một tâm sự,hay một suy tư nào đó muốn nhắn gửi với độc giả,ông bèn gắn chúng vào một mô hình nào đấy sao cho chú

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH001.pdf
Tài liệu liên quan