Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu

Nhìn chung, truyện của ĐỗChu có thểxếp vào loại cốt truyện tâm lý (kểcả ởkiểu cốt

truyện đơn tuyến). Nó cho phép tạo ra một lối kết cấu rất đặc trưng: kết cấu theo dòng cảm xúc

hòa hợp giữa nội tâm và ngoại cảnh. ĐỗChu thường bắt đầu miêu tảnhững trạng thái cảm xúc

của nhân vật trước cảnh sắc thiên nhiên. Các biến thái từthếgiới bên ngoài thường mang tính

tình huống khởi sinh cảm giác, gợi nhắc ấn tượng và khơi nguồn tâm trạng. Ta bắt gặp một mô

típ rất quen thuộc : sựtương giao với ngoại cảnh làm khơi gợi quá khứcủa nhân vật. Nó xuất

hiện hầu hết trong các cách mào đầu truyện ngắn của ông. Nó tạo nên duyên cớtuôn trào dòng

cảm xúc, suy tư. Trong truyện ngắn Tháng Hai, mở đầu bằng việc miêu tảthiên nhiên vào xuân

ởmột vùng đồi núi: “Năm ấy mưa xuân phủkhắp đồi. Con đường rải sỏi cứtươi roi rói như

tấm lụa điều của mấy bà thơnhuộm treo phất phơtrước cửa hàng vào những phiên chợhuyện.

Con đường chạy vòng vèo qua xóm Trại, qua ngõ nhà Xiêm rồi chạy miên man lên vùng hồcây

giẻ. Những bụi giẻgai mọc hai bên đường cũng vậy, um tùm và xanh ngát, chúng rì rào cùng

gió, thỉnh thoảng một con chim gì lông lốm đốm trắng lại từtrong lùm lá bay vụt lên, nó hót

tính tang, tính tang.”[18, tr.423]

pdf114 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2076 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược để làm giàu thì cũng phải dựng. Sống mà chỉ có nghĩ đến kẻ đã chết thì liệu có còn là người nữa hay không.” [17, tr.86] Chỉ bằng cách cá thể hóa ngôn ngữ, nhân vật Hinh của Đỗ Chu trở thành một nguyên mẫu rất thật, rất sống động của thời buổi kinh tế thị trường những năm 1990. Nhìn chung, kiểu nhân vật tính cách – số phận của Đỗ Chu những năm 1986 trở về sau đã đủ sức mạnh lý giải hiện thực đời sống muôn màu muôn vẻ . Nhân vật của ông đa dạng và được cá tính hóa rõ nét thông qua ngôn ngữ, hành động, và độc thoại nội tâm…Một số nhân vật chưa đạt đến kiểu nhân vật điển hình nhưng đã có quá trình vận động, phát triển tâm lý phức tạp. Nhân vật có thể đại diện cho một loại hạng người nào đó trong xã hội và khả dĩ có thể “bước ra từ trang sách để trò chuyện cùng chúng ta”.[56, tr.25] Bên cạnh kiểu nhân vật tính cách – số phận, Đỗ Chu còn dụng công tạo ra kiểu nhân vật tư tưởng nhằm chuyển tải các thông điệp, triết lý về đời sống. 2.2.3.3 Nhân vật tư tưởng Nhu cầu triết lý, bày tỏ quan niệm về cuộc sống và con người trong tác phẩm sau 1975 của Đỗ Chu ngày càng gia tăng. Do đó, truyện ngắn của ông xuất hiện kiểu nhân vật tư tưởng. Trong tác phẩm của Đỗ Chu, nhân vật tư tưởng thường là nhân vật “tôi” (hiện thân của chính nhà văn) (truyện Lão Mai, Quanh một bàn tiệc) hoặc là những ông lão phảng phất cốt cách “người muôn năm trước” như ông Vồ, lão Mai (truyện Lão Mai, Người của muôn năm trước) hoặc nhân vật thần thánh như bà chúa Đền (truyện Lão Mai, Ngày đang trôi). Các nhân vật này chủ yếu được khắc họa qua lời nói hoặc dòng suy nghĩ, tâm trạng. Nhân vật ưa suy ngẫm và đưa ra các triết lý về nhân tình thế sự. Trước năm 1975, nhân vật “tôi” của Đỗ Chu thường đóng vai trò nghe câu chuyện của đồng đội và kể lại theo quan điểm của mình đồng thời bộc lộ sự ngưỡng vọng, ngợi ca con người trong thời đại đấu tranh giữ nước. Sau 1975, các nhân vật “tôi” tiến đến bày tỏ quan điểm, thái độ đối với những câu chuyện đời mắt thấy tai nghe. Họ trở thành nhân vật phát ngôn cho tư tưởng của nhà văn trước một hiện thực nào đó. Quanh một bàn tiệc là câu chuyện do nhân vật “tôi” kể về những người bạn cũ gặp lại nhau ngay trong một bàn tiệc. Ai cũng cư xử lịch thiệp và chuẩn mực. Trừ anh lớp trưởng cũ cứ phẩm bình về chức tước của các người bạn học cũ và huyên thuyên về sự bất mãn của mình với thời cuộc. Có hai nhân vật ngồi chung bàn tiệc nhưng dường như không ai biết và có ý trò chuyện với họ: một ông già và một người đàn ông có vết sẹo dài trên má. Một cuộc xô xát nhỏ giữa anh lớp trưởng và người đàn ông có vết sẹo. Chị Hồng - chủ nhân của buổi tiệc cưới xuất hiện giới thiệu lai lịch hai người đàn ông xa lạ ấy. Hóa ra họ có mối quan hệ sâu sắc với chị Hồng và điều đáng bàn hơn họ đều là những người lính lẫy lừng chiến tích. Câu chuyện kể tưởng chừng như rời rạc nhưng lại được xâu chuỗi bằng chính những ý nghĩ và triết lý của nhân vật “tôi”. Anh ta quan sát tất cả mọi sự việc xảy ra và thể hiện thái độ của mình đúng lúc. Trước những tham vọng của anh lớp trưởng cũ của mình, nhân vật “tôi” triết lý: “Ấy, ở đời những người không biết tạo dựng cho mình, thì chính đời sẽ tạo dựng cho họ, không biết tới tương lai thì rồi tương lai sẽ tự tìm đến họ, mà đó là một tương lai tốt đẹp, nhiều may mắn. Mưu sự lắm làm gì, hãy cứ sống cho hồn nhiên có hay hơn không…” [17, tr.106] Trước thái độ đánh giá con người qua địa vị, tiền tài của anh lớp trưởng, nhân vật “tôi” đã phát biểu về lẽ sống của mình : “chúng ta đều chỉ là những người bình thường, mà là những người bình thường mới hay” , “còn gì vui bằng được sống một ngày bình thường như tất cả mọi người đang sống. Nghĩ được như thế thì anh sẽ vui, sẽ yêu mình lắm, yêu cuộc đời lắm.” [17, tr.110] “Con phượng thì múa, con nghê thì chầu, gầm trời này mỗi người đang có một việc, một chỗ đứng và ai nấy hãy cứ ung dung mà sống.” [17, tr.110] Ở một số truyện khác, nhân vật tư tưởng là các bậc tuổi cao bóng xế, phảng phất nét tâm linh như Lão Mai, ông Vồ, ông Thiều… Đỗ Chu sử dụng bút pháp huyền thoại hóa để khắc họa kiểu nhân vật này. Nhân vật từ hình dáng, đến lời nói, việc làm đều mang nét kỳ bí. Chân dung lão Mai hiện lên như không giống với người thường: “Ông cười móm mém mà sao nom tươi sáng quá, hóm hỉnh quá. Cả khuôn mặt ông cũng rạng rỡ. Như có một phép nhuộm màu nào khiến khuôn mặt vốn già nua, nhàu nát vì thời gian bỗng phút chốc trẻ hẳn lại. Ông ghé mắt nhìn vào tôi mới bí hiểm làm sao”. [17, tr.12] Thông qua cảm nhận của nhân vật “tôi”, Lão Mai như một danh y ẩn mình. Ông “chẳng khác nào một gốc lão mai, một con rồng ẩn giữa cái thành phố đang ngày một nhốn nháo này, rồi một ngày con rồng ấy cũng sẽ uốn mình bay vào cõi vĩnh hằng”. [17, tr.12] Bên trong con người đầy bí hiểm đó là cả một “kho” triết lý về sự đời. Đó cũng là những trăn trở, suy tư của Đỗ Chu về cuộc sống hiện đại: “Đất nó giữ quá nhiều điều huyền bí và sầu muộn là vì thế, chỉ có con người đang sống là vẫn nhơn nhơn, con người suốt đời chạy vạy tìm kiếm rặt những thứ vớ vẩn, đâm chém tranh cướp nhau rặt những thứ vớ vẩn, trong khi đó lại mang cất giấu dưới lòng đất biết bao sự quý giá tốt đẹp. Cho nên con người ngày một nghèo, vàng bạc giát khắp nhà mà hóa ra tội nghiệp.” Con người ấy có khả năng tiên tri về tương lai. Ông phán rằng “sang thế kỷ tới, loài người phải nếm trải nhiều cơ cực, có giời mới cứu nổi.” [17, tr.11] Trong tác phẩm Ngày đang trôi, ông Thiều được miêu tả qua cảm nhận của Hồng như một người cõi trên, xa lạ với hồng trần.: “Nhiều buổi ngồi thần ra Hồng chợt nhận thấy ở ông già thoáng có cái vẻ là lạ như thể anh chưa một lần được gặp. Mái tóc bạc phơ bay trong sương lạnh, đôi mắt bình thản nhìn vào một nơi nào rất khó tới và cái cằm vênh ra, chòm râu bạc cũng vênh ra đầy bướng bỉnh, kiêu ngạo. Tưởng như ông già đã ngồi đợi anh ở đây từ rất lâu.” [17, tr.54] Con người này có khả năng tiên đoán được số mệnh của mình. “Không hiểu căn cứ vào đâu ông tin như đinh đóng cột ông sẽ qua đời vào độ xuân sang.” [17, tr.37] Con người quen với nếp sống thong thả, vui buồn theo cái lẽ tự nhiên, lẳng lặng chiêm nghiệm sự đời. Một ngày xuân có gió nồm gió bấc rệu rã cả người thế mà ông lại thấy kỳ thú. “Người đi bồng bềnh như lẫn cả vào mây, hồn đất hồn người hòa quyện trong một nhịp điệu sao mà hữu tình đến thế. Nằm xuống đấy mà vẫn như đang còn ở lại, dấu vết một kiếp người vẫn như đang quẩn quanh phảng phất đó đây.”[17, tr.37] Những giấc mơ của ông Thiều nhuốm màu tâm linh, hư ảo. Ông đã gặp bà Chúa vào lúc nửa đêm, “ông đang nửa tỉnh nửa mê thì bà hiện về. Bà bước vội trên bờ sông, nón thúng quai thao trên tay, đôi bàn chân không guốc dép nom dập dìu như hai cánh chim đang vỗ. Váy sồi áo lụa, khăn thâm bao nhiễu, yếm đào.” [17, tr. 57] Ông Thiều là người phát ngôn cho bản sắc văn hóa : “Chính là sự thiêng liêng trong lòng ta, trong lòng mỗi con người, là kỷ cương lề thói, là bản sắc văn hóa độc đáo không thể lu mờ của mỗi làng xóm quê nhà, chính nó cũng là một sức mạnh, một tiềm năng không bao giờ khai thác hết. Nó là cội nguồn cho mọi sự sinh sôi sống động.” [17, tr.53] Nhân vật ông Vồ lại là một kiểu dị nhân : “Giọng ông nồng nồng, khê khê, cái miệng rộng ngoác, quai hàm bạnh ra, cái trán như đẽo từ một tảng đá, hai gò má đầy, ở ông nom cái gì cũng quá khổ. Chân tay càng khỏi phải nói, vừa dài lại vừa khềnh khoàng xương sẩu, vụng về như ngày xửa ngày xưa.”“Ông đứng như bụi tre bụi chuối và ngồi như đống rơm.” [17, tr.90] Lai lịch và tung tích của ông rất mơ hồ : “Ông sinh ra từ bao giờ, là người của thời nào, không ai có thể biết mà nói cho rành mạch”, “từ lâu lắm rồi ông vẫn cứ quanh quẩn bên cạnh họ”. [17, tr.90] Con người ấy “cứ tha thẩn vậy” mà “thấu hiểu mọi nhẽ đời.” [17, tr.94] Xung quanh ông Vồ cũng phảng phất sắc màu tâm linh: “Ông Vồ bước ra sân, lẫn vào đêm. Người ông cao lớn là thế mà chân bước nhẹ như cọp. Căn nhà rộng u uẩn một mùi thơm như mùi nhang, gió ngoài sông trong đồng thoang thoảng đưa về những làn hơi ấm.”[17, tr.96] Ông Vồ là người tin và trọng các bậc thánh thần. “Có ma rồi còn có cả thánh thần nữa. Thần phải đủ uy, thánh phải rộng đức. Gần thì có thần siêu thánh quát, xa thì có đức Trần Hưng Đạo, ngài là đại thánh của dâng mình.”[17, tr.95] Ông Vồ trở thành linh hồn của làng. “Ông thành giai thoại, đã thành người đi vào lịch sử của một vùng đất, vùng người”.[17, tr.90] “Ông Vồ là một giá trị bền vững. Ông là người của hôm nay, là người đang có mặt trong cuộc sống của chúng ta nhưng ông cũng lại là người của nghìn xưa, là bóng dáng, là hiện hữu của tổ tiên từ muôn năm trước. Cho nên có lẽ ông cũng là quê hương, xóm làng và ông chỉ là một mà thôi.” [17, tr.91] Nhìn chung các nhân vật tư tưởng đều được khắc họa khá đậm nét từ hình dáng đến lời nói, việc làm. Với Đỗ Chu, họ là hồn cốt của làng quê, là hiện thân của giá trị văn hóa, nhân cách sống cao đẹp. Họ gìn giữ những nét đẹp, luân lý, đạo đức truyền thống. Họ truyền niềm tin để con cháu không bước vào những mê lầm, tội lỗi. 2.3 Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Đỗ Chu 2.3.1 Ngôn ngữ 2.3.1.1 Ngôn ngữ giàu chất thơ Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã định nghĩa về “chất thơ” trong nghệ thuật nói chung và trong văn xuôi nói riêng.Theo giáo sư Hà Minh Đức : “Chất thơ trong nghệ thuật bao gồm sự thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng khách quan với cảm hứng sáng tạo chủ quan của nhà thơ.” [25, tr.46] và “Những yếu tố đặc biệt quan trọng để tạo nên chất thơ là phần cảm xúc và suy nghĩ chủ quan của nhà thơ.” [25, tr.46] Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hưng Quốc, “chất thơ là vẻ đẹp khiến tâm hồn con người được nâng lên cao, thoát khỏi những thị dục và thị hiếu tầm thường, gợi lên niềm chiêm ngưỡng hoàn toàn vô vị lợi và khiến cho trí tưởng tượng con người hoạt động mạnh mẽ, đeo hút vào thế giới đẹp đẽ và cao cả của tinh thần.” Nguyễn Hưng Quốc còn đưa ra ba tính chất cơ bản của chất thơ, đó là “gợi cảm, hướng thượng và mở ra man mác một cõi đẹp còn ẩn khuất đâu đó nhưng chắc chắn là bao la, không cùng không tận.” [67, tr.36] Quan niệm của Nguyễn Kiên cũng khá tương đồng với Nguyễn Hưng Quốc khi nhấn mạnh “cái đẹp” và “cái cao thượng” là nhân tố tạo nên chất thơ: “Phẩm chất thơ, những rung cảm thơ, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đều bắt nguồn từ khát vọng về cái đẹp và cái cao thượng.”[43, tr.56] Với những quan niệm về chất thơ đề cập trên thì không chỉ trong thơ mà cả văn xuôi cũng chứa chất thơ. Sự xâm nhập của thơ vào văn xuôi là một yếu tố tự nhiên, thuộc quy luật vận động nội tại của nghệ thuật. Văn xuôi hiện đại, tiêu biểu là truyện ngắn xem nhẹ cốt truyện. Nhà văn không chủ ý tạo ra một cốt truyện chặt chẽ, có lớp lang, theo trình tự thắt nút, mở nút dẫn đến một kết cục bất ngờ. Nó quan tâm đến những gì ẩn giấu, che khuất bên dưới tảng băng ngôn từ. Mỗi truyện ngắn hiện đại là một nỗ lực nhằm đạt tới một ấn tượng nào đấy về con người, cuộc sống. Nói như nhà văn Đỗ Chu là một truyện ngắn hay phải có cái bóng ở đằng sau. Cái bóng ấy chính là ấn tượng đọng lại đằng sau những con chữ. Nó có sức lan tỏa, gợi ra nhiều tầng bậc ý nghĩa theo sự trải nghiệm riêng của người đọc. Do đó đi tìm chất thơ trong văn xuôi là đi tìm cái ta chỉ có thể cảm thấy, nếu chỉ ra rành rành hoặc phân tích nó thì lập tức nó trở nên mơ hồ. Truyện ngắn hiện đại rất gần với thơ. Trên thế giới và cả Việt Nam có rất nhiều nhà văn có phong cách văn xuôi đậm chất thơ. Đó là Pauxtốpki, Aimatốp (Nga), A.Đôđê (Pháp), Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu (Việt Nam)…Văn xuôi của họ từ ý tưởng nghệ thuật đến giọng điệu, hơi văn …đều hòa hợp và cùng mang cái phẩm chất trữ tình gần với thơ. Chất thơ trong truyện ngắn của Đỗ Chu thể hiện qua cách sử dụng các kiểu láy, các tính từ, các biện pháp tu từ, cách đặt câu tạo ra nhịp điệu luyến láy cho câu văn. Do đó văn phong của ông rất mượt mà, giàu nhạc điệu và gợi cảm. Ông thường vận dụng hệ thống từ láy trong miêu tả, đặc biệt là miêu tả thiên nhiên. Tác giả tái hiện một thung lũng cò trong mắt trẻ thơ đầy màu sắc và âm thanh qua hệ thống từ tượng thanh và tượng hình: “Đêm này, thung lũng cò sẽ vô cùng huyền bí nhưng không hề đáng sợ một tẹo nào trong tiếng thét xung trận của các chiến sĩ, họ nhà cò sẽ nhốn nháo cả lên, cánh vỗ vù vù như chong chóng máy bay, và cò non thì kêu lên thảm thiết…Và sau khi tiếng hô quân bí mật rút lui của “đại uý” vang lên thì cả trời sao tưởng như vẫn im lặng bỗng nhiên rung lên rầm rả…Tim các chiến sĩ đập liên hồi vì kêu hãnh, máu chảy làm nóng bừng cả đôi má phinh phính, tại lông tơ chưa bao giờ cạo. Khi những đôi vợ chồng cò đổi lần ấp thì đêm cũng đã khuya. Tất cả “bên địch” và bên ta đều tập trung quanh gốc gạo. Rồi các chiến sĩ dũng cảm bắt đầu lần về nhà, chui vào giường êm như chú cò hương mang mồi về tổ”.[20, tr. 40 - tr.41] Những âm thanh đồng quê mô phỏng trong trang văn Đỗ Chu sống động và thật đến nỗi nhắm mắt là có thể hình dung ra không khí làng quê: “Mình nghe thấy ở những chân ruộng trũng giữa đòng nước đang chảy xuống róc rách. Đây đó, những chú ếch nằm mà ngái ngủ kêu lên ồm ộp. Phía trong đầu, vịt giời đi trốn rét suốt mùa đông bây giờ ở đâu kéo về từng đàn, bay lên rồi lại sà xuống lõm bõm. Tiếng những đàn cá gáy vật kình cắn đuôi nhau tùm tũm ven đầm.” [18, tr.500] Những hình ảnh thiên nhiên đẹp như chốn thần tiên được gợi mở ra bởi mật độ sử dụng từ láy tượng hình và tượng thanh trong truyện: “Mùa thu, vòm trời trên thung lũng ngổn ngang mây bay, những dải mây bồng bềnh nom thật gợi. Dòng suối chảy róc rách quanh khu nhà ban chỉ huy, bọn trẻ cười đùa dưới gốc gạo già…” [18, tr.428] “Gạo cũng đang thả những sợi bông lơ thơ vào gió, những bông gạo bay bay, đậu êm ả xuống các mái nhà lợp cỏ và lũ trẻ đuổi theo những đám mây thần tiên ấy, chúng ngẩng mặt lên mà chạy, vừa chạy vừa giơ hai tay vẫy vẫy, la hét om sòm.”[18, tr.428]“Họ đi dần xuống một thung lũng sâu. Rừng hoang vu, chim chóc rìu ran trên những ngọn dạ hương chót vót. Một chú sóc chuyền cành làm rơi mấy trái thảo quả xuống đám lá khô ẩm.” [18, tr.446] Trang văn của Đỗ Chu thích khai thác những hình ảnh đẹp, giàu liên tưởng. Những hình ảnh gợi sự thanh bình và yên ả của làng quê quyện trong mùi hương đồng nội ngất ngây khó tả: “Đó là những buổi chiều mùa hạ có mây trắng xô đuổi nhau trên cao. Nền trời xanh vời vợi. Con chim sơn ca cất lên tiếng hót tự do, tha thiết đến nỗi khiến ta cũng phải ao ước giá mình có một đôi cánh. Trải khắp cánh đồng là nắng chiều vàng dịu và thơm hơi đất, là gió đưa thoang thoảng hương lúa đang ngậm đòng và hương sen. Một chú nhái bén nấp đâu đó nhảy tũm xuống đầm làm mặt nước nổi lên những vòng sóng, sóng sẽ bị phá tan rất nhanh khi lan tới những chiếc lá nổi bập bềnh trên mặt đầm. Làn nước trong veo chẳng khác nào một cái gương để khoảng trời tự ngắm vẻ đẹp và sự khoáng đạt của mình. Tôi đã thấy hiện ra ở dưới đáy nước những đám mây trắng mang hình dáng của làng tôi.” [18, tr.500] Đỗ Chu rất thành công khi sử dụng các tính từ miêu tả cảm giác, cảm xúc tinh tế. Cái tài của tác giả là gọi tên được những cảm xúc mơ hồ, khó nắm bắt. “Trong lòng anh cũng vẫn nhen lên một cảm giác thật khó tả, có cái gì khiến anh vừa vui lại vừa xao xuyến, vừa mạnh mẽ lại vừa bé bỏng, và nhũn nhặn lại vừa kiêu hãnh.” [20, tr.74] Có lúc Đỗ Chu đi sâu phân tích những ấn tượng, những ám ảnh trong tâm trí nhân vật. Cảnh luôn là chất xúc tác để gợi nhớ quá khứ. Cảnh vật buồn man mác khiến nhân vật Thuyên nhớ lại tuổi thơ đau buồn khi anh mất mẹ, người thân duy nhất của mình. “Quạ vẫn quang quác đâu đây. Những chú quạ nhảy nhót trên những ngọn đa ven sông với tiếng tranh cãi ầm ĩ. Anh nhớ đến một đêm sâu đầy phiền muộn. Đã lâu và đã xa lắm rồi. Có lẽ lúc đó anh vừa đi bán bánh về, những chiếc bánh giò xếp trong thúng, nóng hổi, có mảnh buồm đậy bên trên. Căn nhà tối om om, muỗi từng đàn đập vào mặt. Trong góc giường, mẹ nằm vất vưởng như một mảnh khăn lau bàn. Mẹ đã rời khỏi cõi đời này như thế, lẳng lặng ra đi, chẳng nói gì với anh cả.” [18, tr.780] Nỗi buồn triền miên, ngắc ngoải, nỗi khát khao một mái ấm gia đình của một người tù lưu đày được Đỗ Chu diễn tả rất hay bằng từ ngữ biểu cảm và có khả năng gợi ấn tượng sâu sa: “Những buổi chiều qua chiếc cầu gỗ cuối phố, không làm sao tránh được, cứ phải ngoái cổ mà nhìn vào khung cửa sổ vừa lên đèn của một ngôi nhà nằm sâu trong ngõ. Một ánh đèn sáng lên trong lúc chiều đang xuống, trong lúc mặt trời lặn ở chân trời. Một nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương lại dội lên cùng những kỷ niệm ấu thơ tưởng như đã quên khuấy đi bấy lâu. Tất cả đều sống dậy, khe khẽ thì thầm trong lòng kẻ lưu đày. Tất cả cứ vang lên trong tâm tưởng như một khúc hát ru xa xăm. Đêm biển thường xuống muộn, vùng đảo tràn lên những gió, thoáng đãng và mênh mông, chỉ khung cửa sáng ánh đèn kia cũng đủ khiến anh bớt cảm thấy cô quạnh. Ai đang sống trong ngôi nhà đó, những ai đang ngồi dưới mái nhà đó, nếu một hôm nào anh được đặt chân tới đó thì ai là người sẽ chạy ra đón anh. Thiếu một bóng hoàng lan thơm mát, thiếu một bà giáo nhân từ, chắc cũng không thể có một em gái thương người như tuổi thơ anh đã gặp.” [18, tr.791 – 792] Tác giả thường sử dụng lớp từ cảm thán, nghi vấn bộc lộc cảm xúc: “Thư vẫn mang những tình cảm quen thuộc, êm dịu như nhiều thư trước của cô, nhưng Tuân không hiểu sao mình lại khát khao nó gấp bội đến thế. Cùng với lá thư, hương cỏ mật ngọt của quê nhà sao lại có ở quanh đây! Mấy tháng nay anh đã hành quân qua nhiều đồng nhiều núi,, nhưng chưa hề tìm thấy một cụm cỏ mật nào dù một cụm rất bé.” [20, tr.25] Biện pháp so sánh sử dụng thường xuyên trong truyện ngắn của Đỗ Chu càng góp phần làm cho hình ảnh miêu tả thêm đẹp và thơ mộng. -Ngang trời, phía trên nóc tháp chuông, một đàn sếu giăng hàng bay qua, mềm mại như một sợi dây mây từ sân nhà ai quăng lên. [18, tr.131] -Một cơn mưa chạy thoảng qua như một tiếng thì thầm trìu mến. [18, tr.133] - “Hoa trắng rụng lả tả, những cánh hoa mỏng manh như muôn ngàn lá thư bí hiểm ném theo gió. Dòng sông nhận những cánh hoa của bờ, đưa về xuôi . Có lẽ khó lòng mà ra tới biển, nhưng chúng vẫn cứ rơi, vẫn cứ được thả mãi, suốt mùa xuân.”[15, tr.68] -“Mùa xuân rồi mùa hạ, năm lại năm, anh trở về với con sông Cầu ngọt ngào như một câu quan họ.” [18, tr.801] - Khuôn mặt đẹp như vầng trăng rằm tỏa sáng, nụ cười tỏa sáng, ánh mắt đằm thắm tình yêu đời, cánh tay để trần hơi gầy và xanh nhưng càng nhìn càng thương biết mấy, đôi bàn tay nâng những dải áo màu trân trọng như tay tôi nâng nhành quế, đôi bàn chân như đôi chim câu dập dìu bay theo nhau và tấm thân thanh tú say mê lượn vòng trong câu hát tiếng nhạc.[18, tr.602] Những hình tượng thơ đẹp và hàm súc cũng tạo nên vẻ duyên dáng, đằm thắm cho trang văn. Các hình tượng này thường thể hiện ngay trên cách đặt tiêu đề của nhà văn. Ông có biệt tài đặt tiêu đề rất hay và gợi những cảm xúc thanh thoát, nhẹ nhàng. Các tiêu đề gắn liền với một hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên: Hương cỏ mật, Mùa cá bột, Ráng đỏ, Đường qua nhà, Mưa tạnh, Họa mi hót… Bên cạnh đó là các hình tượng giàu cảm xúc và liên tưởng: hình tượng mùa xuân, hình tượng họa mi hót, hình tượng ráng đỏ….Trong hầu hết các tác phẩm của Đỗ Chu, thời điểm mùa xuân không chỉ là cảm thức về sự luân chuyển của bốn mùa. Mùa xuân còn là biểu tượng của hạnh phúc, ước mơ, tình yêu, sự sum họp, đoàn viên. Nhiều tác phẩm lấy cảm hứng từ mùa xuân để khơi nguồn cảm xúc. Còn hình tượng họa mi hót lại là biểu tượng của tình yêu chung thủy, bền vững, của hạnh phúc… Chất thơ còn thể hiện ở nhịp điệu luyến láy được tạo ra bởi các câu văn dài, nhịp nhàng, chú ý đến sự đối xứng, cân đối hài hòa. Kiểu lặp từ, lặp ngữ, lặp cấu trúc rất có hiệu quả trong việc tạo ra nhịp điệu cho câu văn: - Một buổi sớm mùa xuân có bóng núi soi lung linh dưới đáy con sông xanh, có chim én liệng như thoi đưa trên trời rộng, chúng tôi men theo lối mòn lên thác Quế.” [18, tr.600] -“Trên bờ cao, bên những gốc mận nở hoa trắng ngát, ông già đứng đó, tóc bạc bay bay, miệng mỉm cười xa xôi, hai tay ông vịn lên những cành cây khô nhám, ông nhìn xuống dòng sông, nhìn xuống bờ dốc, những cánh hoa như từ trong tay ông được thả vào im lặng.” [18, tr.773] Nhìn chung, ngôn ngữ của Đỗ Chu vẫn là thứ ngôn ngữ trữ tình thơ mộng, nhiều chất lãng mạn và thi vị. Đặc biệt là các tác phẩm từ 1989 trở về trước. Do thiên về miêu tả, phản ánh cái đẹp, cái cao cả, chất lý tưởng nên nhìn chung câu văn giàu chất thơ, trang trọng, trau chuốt. Vẫn phản ánh hiện thực, miêu tả những cuộc đời bình dị nhưng được nhìn bằng con mắt lý tưởng nên ngôn ngữ mực thước, đằm thắm. Tất cả được lọc qua tâm hồn của người nghệ sĩ nên giàu chất thơ, thanh thoát, và nhẹ nhàng. 2.3.1.2 Ngôn ngữ giàu chất khẩu ngữ Từ sau 1989, bên cạnh những trang văn giàu chất thơ, văn Đỗ Chu trở nên thô mộc, sù sì, đậm chất hiện thực. Ngôn ngữ “đời” hơn do nhu cầu phản ánh các góc cạnh của đời sống. Ông định danh, định tính sự vật, hiện tượng bằng câu từ chính xác, không cầu kỳ, trau chuốt. Nhờ sự suồng sã, thân mật mà các đối tượng phản ánh trở nên thật hơn bao giờ hết, khắc họa được sinh động, sắc nét cá tính, chân dung các nhân vật. Một số truyện ngắn qua hai tuyển tập Mảnh vườn xưa hoang vắng và đặc biệt là Một loài chim trên sóng xuất hiện nhiều tiếng chửi, lối nói trần trụi, bụi bặm, dân dã. Khảo sát các truyện ngắn trong hai tập Mảnh vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng, ta thấy Đỗ Chu vận dụng khá nhiều thành ngữ, lối nói khẩu ngữ dân gian. Các thành ngữ, tục ngữ dân gian được Đỗ Chu sử dụng một cách thuần thục : mò kim đáy bể, vô công rồi nghề, say như điếu đổ, câm như hến, trâu chậm uống nước đục, quáng quàng như gà mắc tóc, hỉ mũi chưa sạch…. Ông mang lối diễn đạt địa phương vào ngôn ngữ nhân vật khiến câu văn rất tự nhiên: ăn nói thì cấm ca cấm cảu như người hóa dở, mặt đang trắng bỗng chốc xạm xanh như đít nhái, dở ngô dở ngọng, ngủ gà ngủ vịt, tập tọng, thế rồng chầu hổ phục, ngồi đâu ngủ đấy, cờ bạc lu bù tít, nhai tóp tép, ba lăng nhăng, đêm tối mịt mùng như vải thâm che kín mắt, ngã dúi ngã dụi, ăn sung mặt sướng…. Đỗ Chu cũng vận dụng hệ thống các từ láy rất thô mộc, đời thường tạo nên sự chân thật và sinh động cho hiện thực nhà văn phản ánh. “Cái loa phóng thanh đằng cổng làng đã thôi không còn cọ kẹ như cóc nghiến răng nữa…[16, tr.61] “Những cái miệng dẩu ra như mỏ kền kền, bàn chân đen đủi như chân cuốc đung đa đung đưa…những khuôn mặt ngây ra đầy vẻ vờ vịt, những đôi mắt đen lay láy …[16, tr.61] ...“nó thì đã thành lú lẫn mịt mùng từ lâu rồi…[16, tr.74] “râm ran hết chiến công này đến thắng lợi khác…”[16, tr.5] “tấm tức như vừa bị ăn một quả lừa”…[16, tr.6] “nhả hơn phè phè như hổ mang phun, những ngón tay thì lóng nga lóng ngóng, tiếng kèn ậm è nghe chán bỏ sừ. Nghe cứ tức anh ách…[16, tr.14] Ngoài ra để cá tính hóa ngôn ngữ của nhân vật, trong một số truyện Đỗ Chu còn sử dụng các tiếng chửi thề. Lời độc thoại của ông chú nghĩ về đứa cháu mình : “Tưởng thằng này đã dạn dày vào sinh ra tử nào ngờ vẫn còn nhát gan bỏ mẹ.” [Tuyển tập Mảnh vườn xưa hoang vắng tr.19] hay khi ông bất bình vì giá cả leo thang :“Thời giá thì bấp bênh như con đĩ đồng đanh, trẻ con ngoài chợ đang gọi một nghìn là một đồng rồi, liệu anh còn sống thêm được mấy ngáp.”[16, tr.19] Lời của nhà văn khi “bình” về mối quan hệ của hai người đàn ông làng Đặng Xá cùng yêu một người phụ nữ : “Vậy thì sẽ ra sao, tình hình sẽ đi đến đâu, cuộc đối đầu thầm lặng của hai người đàn ông làng Đặng Xá sẽ phát triển như thế nào, bề ngoài tưởng chừng êm ả mà hóa ra lại rất kỳ cục, rất “tởm” và thật tình là rất khó hiểu.”[16, tr.28] Lời chửi của cha Trữ đầy bất bình khi bọn cán bộ địa phương cậy quyền thế làm điều ác: “Tính ngậm miệng để yên thân mà được chăng, khi những người ngay thẳng ở đời đã chịu nép mình, nhũn nhặn một tí, cúi thấp lưng xuống một tí, thế là cái ác bồng lên ngay, thế là tình hình sẽ nát như cháo như bùn, là họ nhà tôm lộn cứt lên đầu.” [16, tr.81] 2.3.1.3 Ngôn ngữ mang tính triết luận Văn xuôi Đỗ Chu giai đoạn này cũng gia tăng ngôn ngữ mang tính triết luận. Các nhân vật thường phát biểu suy nghĩ, triết lý về cuộc đời, về nhân tình thế thái. Ngôn ngữ trở nên đa nghĩa, gợi nhiều liên tưởng được tạo ra từ các ẩn dụ, các biểu tượng. Ngôn ngữ của ông bớt đi phần kể, phần tả để tăng phần triết luận, khái quát. Nhà văn hoặc các nhân vật tư tưởng sẽ hiện diện nhiều hơn qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”. Ta có thể bắt gặp rất nhiều các hình ảnh ẩn dụ, các biểu tượng được sử dụng để chuyển tải triết lý sống của nhà văn: “Con người ta cũng có mang một nét gì đó giống như cây củ đậu ở trong vườn. Vào lúc nào thì con người trở nên từng trải, trở nên độ lượng, trở nên bao dung? Một khi cây củ đậu trong vườn đã khô trắng lá cành là lúc trong lòng đất và củ của nó ắt đã lên hương,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH013.pdf