Luận văn Đảng bộ huyện thường tín (thành phố Hà nội) lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề đề tài. 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 2

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn . 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 7

5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu. 7

6. Những đóng góp của luận văn . 8

7. Kết cấu của luận văn . 9

Chƣơng 1. ĐẢNG BỘ HUYỆN THƢỜNG TÍN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN

QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2010 .10

1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện

Quy chế dân chủ ở cơ sở. 10

1.1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa. 10

1.1.2.Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện Quy

chế dân chủ ở cơ sở. 12

1.2. Khái quát chung về huyện Thƣờng Tín và việc thực hiện Quy chế

dân chủ ở cơ sở của huyện trƣớc năm 2008

1.2.1. Khái quát chung về huyện Thường Tín.

1.2.2. Tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện trước

năm 2008 .

1.3. Đảng bộ huyện Thƣờng Tín lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ

sở từ năm 2008 đến năm 2010.

1.3.1. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà nội về thực hiện QCDC ở cơ

sở từ năm 2008 đến năm 2010 .

1.3.2. Chủ trương của Đảng bộ huyện Thường Tín về xây dựng và thực hiện

Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2010.

pdf29 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng bộ huyện thường tín (thành phố Hà nội) lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biệt giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ XHCN cũng như tính ưu việt của nền dân chủ XHCN và những yêu cầu cần phát huy dân chủ, dân chủ XHCN ở Việt Nam như một yêu cầu quan trọng trong yêu cầu phát triển chung. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về việc thực hiện quy chế dân chủ ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay. "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và vấn đề xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở", (1998), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, nghiên cứu đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở và một số văn bản hướng dẫn thực hiện QCDC ở cơ sở. Đỗ Quang Tuấn, (2001) "Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập hợp các bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạoĐảng, Nhà nước tại Hội nghị sơ kết chỉ thị 30 về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở; những đánh giá thực tế về việc thực hiện QCDC ở các địa phương. Hoàng Chí Bảo, (2007) "Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới" của , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã phân tích tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình hiện nay, những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở và những giải pháp khắc phục. Dương Xuân Ngọc, (2000) "Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,đã phân tích thực trạng công tác tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã trước yêu cầu thực hiện QCDC ở cơ sở, đồng thời kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện có hiệu quả QCDC ở cấp xã. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, (2003) "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nộilà kết quả của sự khảo sát, nghiên cứu vấn đề của tập thể tác giả tiến hành ở nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước, tham khảo kinh nghiệm thực hiện QCDC ở một số nước khác, cung cấp cách nhìn sinh động và cụ thể hơn trong việc thực hiện QCDC ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã. Bên cạnh đó, 2 tác giả còn có cuốn "Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay", (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội đã phân tích về vấn đề dân chủ và hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới, thể chế dân chủ với ổn định và phát triển nông thôn Việt Nam, xây dựng chính quyền cấp xã. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng tải trên các tạp chí, báo như: “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở là khâu đột phá, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa” của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trên báo Nhân dân ngày 5-3-2002; Bài “Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với củng cố chính quyền cơ sở” của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 4/2002; “Quy chế dân chủ có thành công hay không phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng” của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tạp chí Dân Vận, 5/2002; “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trương Quang Được, Tạp chí Cộng sản 12/2002; Lê Quang Minh "Để thực hiện dân chủ ở cơ sở, Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiên nay" Tạp chí Cộng sản số 11, tháng 4 năm 2003;Trần Bạch Đằng "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam" Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003; TS. Đoàn Minh Huấn "Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá trình mở rộng dân chủ XHCN ở nước ta", Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2004; PGS.TS Trần Khắc Việt "Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay: Vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2004...Những công trình nghiên cứu đã góp phần làm rõ nội dung, bản chất, tính chất và cơ chế thực hiện QCDCOCS, góp phần bổ sung lý luận, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của việc thực hiện QCDC trong bối cảnh đất nước hiện nay. Thứ ba, xuất phát từ góc độ nghiên cứu lịch sử Đảng, có một số công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phƣơng về thực hiện QCDC ở cơ sở nhƣ: "Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ 1998 đến năm 2005(Qua khảo sát thực tế ở Thành phố Thanh Hóa và các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hóa, Quảng Xương", Luận văn Thạc sỹ lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Dung; "Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007", Luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của tác giả Đinh Ngọc Chính; "Đảng bộ Thành phố Hải Phòng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1996 đến năm 2006", Luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Thanh Sâm; "Đảng bộ huyện Đan Phượng (Hà Nội) lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 2001 đến năm 2012", Luận văn Thạc sỹ Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam của tác giả Trần Thị Quỳnh ChiNhững công trình nghiên cứu này là nguồn tài liệu tham khảo quý của luận văn. Ở Thường Tín, cho đến nay ngoài "Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở " và "Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH 11, ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn huyện (2007-2012) của Huyện ủy, chưa có công trình khoa học nào đề cập riêng đến việc Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện. Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; đồng thời, phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, con đường, biện pháp, để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, làm sáng tỏ bản chất của vấn đề, vai trò của việc mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015. Những tài liệu trên là nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả trong quá trình hoàn thành bản Luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu, làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015. Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời gian tới đạt kết quả cao hơn. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở. - Phân tích, luận giải, làm sáng tỏ chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 2008 đến năm. - Phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân trong quá trình lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Thường Tín từ năm 2008 đến năm 2015. - Đúc kết những kinh nghiệm sau 7 năm Đảng bộ huyện lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thường Tín (thành phố Hà Nội) trong thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, thị trấn thuộc huyện Thường Tín. - Về nội dung: Việc xây dựng và thực hiện QCDC được tiến hành trên nhiều loại hình: xã, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp... nhưng luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thường Tín trong việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, thị trấn thuộc huyện Thường Tín. - Về không gian: nghiên cứu trên phạm vi huyện Thường Tín thuộc thành Phố Hà Nội từ năm 2008. - Về thời gian: nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện từ năm 2008 đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân chủ của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước có liên quan đến đề tài, nhất là Chỉ thị 30- CT/TW, ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị và Nghị định 29/NĐ-CP, ngày 11/5/1998 của Chính phủ. Đồng thời, tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các công trình khoa học của các tác giả khác đã được công bố. 5.2. Cơ sở thực tiễn Để hoàn thành bản luận văn, tác giả tiến hành điều tra, nghiên cứu thực tiễn ở một số xã, thị trấn thuộc huyện Thường Tín trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ, đối chiếu so sánh với việc thực hiện quy chế dân chủ ở một số huyện lân cận và kết quả thực hiện Quy chế dân chủ trong phạm vi cả nước. 5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp các phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ của luận văn. 5.4. Nguồn tƣ liệu - Các văn kiện, văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. - Các văn bản cụ thể hóa việc tổ chức thực hiện các chính sách trên của Đảng bộ huyện Thường Tín. - Các báo cáo tổng kết của Đảng bộ huyện Thường Tín về việc thực hiện Quy chế dân chủ từ năm 2008 đến năm 2015 và số liệu của Chi Cục thống kê huyện Thường Tín. - Các báo cáo chính trị và Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Thường Tín các khóa XIX, XX, XXI, XXII,XXIII. Ngoài ra, tác giả có tham khảo và tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến luận văn. 6. Những đóng góp của luận văn Đề tài góp phần hệ thống hóa, tổng quát quá trình Đảng bộ huyện Thường Tín lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 2008 đến năm 2015, chỉ rõ những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế khuyết điểm, làm rõ nguyên nhân và đúc kết những kinh nghiệm từ thực tiễn có giá trị tham khảo đến hiện tại. Là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho việc tìm hiểu, nghiên cứu cho những người quan tâm đến vấn đề QCDC ở cơ sở của huyện Thường Thường Tín và Thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chƣơng 1 ĐẢNG BỘ HUYỆN THƢỜNG TÍN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2010 1.1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 1.1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa * Khái niệm “Dân chủ” Dân chủ từ bao đời nay luôn là đề tài hấp dẫn đối với các học giả trong và ngoài nước bởi dân chủ liên quan mật thiết tới cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội. Vấn đề dân chủ đã, đang và sẽ còn là một vấn đề thời sự được quan tâm, tìm tòi, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ (Demokratia) là từ ghép được cấu thành từ hai từ gốc: Demos là nhân dân (danh từ) và Kratia (có nguồn gốc từ chữ Kratos) là cai trị (động từ). Nếu dịch sát nghĩa thì Demokratia có nghĩa là nhân dân cai trị. Sau này, các nhà chính trị học đã xác định thực chất của dân chủ là “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Nội dung của khái niệm dân chủ, về cơ bản, vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thế chế chính trị nhất định”. [ 90, tr. 653] Trong lịch sử phát triển của nhân loại, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều học giả đề cập đến ý nghĩa, khái niệm “Dân chủ”: Democritus, một triết gia Hy Lạp cổ đại thì lại cho rằng: “Thà sống nghèo trong một nước dân chủ còn hơn cái gọi là cuộc đời hạnh phúc trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nô lệ”. Các nhà chính trị học ngày nay định nghĩa “Dân chủ là hình thức tổ chức chính trị của một xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải quyết những vấn đề của quốc gia và trao cho các công dân một loạt quyền và quyền tự do thực sự”. Tại Mỹ, đất nước tiêu biểu cho một nền dân chủ tư sản, cựu Tổng thống Mỹ, R. Reagan, cho rằng “Dân chủ không chỉ là biện pháp cai trị mà còn là biện pháp giới hạn quyền lực của Chính phủ để nó không ngăn cản sự phát triển những giá trị quan trọng nhất mà con người nhận được từ gia đình và nhà trường”. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể tiếp cận khái niệm dân chủ ở một số khía cạnh sau:Dân chủ là một hình thái nhà nước, một chế độ xã hội trong đó thừa nhận về mặt pháp luật những quyền tự do, quyền dân chủ, quyền bình đẳng của nhân dân (tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do bầu cử). Dân chủ được quy định thành quyền, nghĩa vụ của công dân với nhà nước và trách nhiệm của nhà nước với công dân. Dân chủ là một phạm trù chính trị bởi vì nó gắn liền với bản chất giai cấp thống trị xã hội, bảo vệ cho lợi ích của gia cấp thống trị. Theo nghĩa này, không có dân chủ thuần túy phi giai cấp, đồng thời dân chủ sẽ mất đi khi nào trong xã hội không còn giai cấp. Mặt khác, dân chủ là một phạm trù lịch sử, khi gắn với chế độ nhà nước. Dân chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống áp bức, bóc lột, đòi quyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá trị cao nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân chủ sẽ tồn tại lâu dài khi xã hội còn giai cấp và nhà nước. Dân chủ chi phối tính dân tộc, phản ánh tính chất của chế độ chính trị, văn hóa, xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể. Dân chủ là một nhu cầu khách quan, tất yếu của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng dân cư, theo nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số phục tùng đa số. Trên thế giới hiện nay tồn tại hai hình thức của dân chủ: Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Đặc điểm quan trọng nhất, bản chất của dân chủ là quyền tự do cá nhân, là sự tôn trọng cá nhân, con người. “Công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình, nhân loại, công nhận các quyền bình đẳng và bất khả phân của họ là cơ sở của tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới” (Lời nói đầu Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền). * Dân chủ xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa xã hội là giải phóng toàn bộ nhân loại khỏi áp bức, bóc lột. Vì thế, dân chủ XHCN là một nền dân chủ kiểu mới, một nền dân chủ của những con người thoát khỏi áp bức, bóc lột. Mặc dù, kế thừa các giá trị quý báu của mọi nền dân chủ đã có của nhân loại, nhưng dân chủ XHCN có đặc điểm riêng: Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN; dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng XHCN; dân chủ XHCN là nền dân chủ của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, không có dân chủ nghĩa là không có chủ nghĩa xã hội. Dân chủ XHCN chính là sự hiện thực hóa khát vọng dân chủ của toàn thể nhân dân lao động. Dân chủ XHCN ra đời như là kết quả tất yếu của lịch sử đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân dân lao động. Dân chủ XHCN là nền dân chủ được xây dựng và hình thành trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, mang bản chất của giai cấp công nhân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để thực hiện và đảm bảo quyền làm chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân đối với xã hội. 1.1.2.Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 1.1.2.1.Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu về xây dựng nền dân chủ Sự phát triển dân chủ trong lịch sử có một quá trình lâu dài và phức tạp. Xây dựng chế độ thật sự do nhân dân lao động làm chủ không chỉ là mục tiêu phấn đấu, mà còn phải thực hiện từng bước trong cuộc sống hàng ngày, nhằm tạo động lực cho sự phát triển. Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, những người cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và giương cao ngọn cờ dân chủ chân chính, đối lập với chế độ phản dân chủ của bọn thực dân phong kiến, nên đã huy động được sức mạnh toàn dân đứng lên làm cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về dân chủ đã nhấn mạnh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, dân chủ là quý báu nhất trên đời. Bao nhiêu lợi ích đều là của dân. Bao nhiêu quyền hành cũng là của dân" [65,tr.398]. Ngay từ năm 1945, khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ"; "dân chủ là dân làm chủ và dân là chủ. Dân chủ là quý báu nhất trên đời, dân chủ là chìa khóa của sự tiến bộ và phát triển" [68, tr.217]. Xác định dân chủ là một mục tiêu, Hồ Chí Minh đồng thời khẳng định nó là một động lực của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Người nhấn mạnh "Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng cách mạng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên" [68, tr.592]. "Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn" [70, tr.243]. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ là rất sâu sắc, triệt để và là chỉ dẫn vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay. Thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn quan tâm chú trọng đấu tranh chống tệ quan liêu, mất dân chủ và đề ra các chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Lãnh đạo sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta coi bài học kinh nghiệm hàng đầu là "Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động" [68, tr.212]. Trong tiến trình cách mạng ở mỗi chặng đường gắn với nhiệm vụ cụ thể, quan điểm của Đảng về dân chủ được cụ thể hóa thành các mục tiêu phù hợp. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951), trước nhiệm vụ chống Thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta xác định: Chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam phải là chính quyền nhà nước tiêu biểu cho lợi ích của tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và dân chủ...Trước những thời cơ và vận hội mới khi đất nước thống nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động sao cho nhân dân xứng đáng là người chủ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và chinh phục tự nhiên. Từ Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta đã xác định việc xây dựng chếđộ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN, và cũng là một trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta. Quan điểm đóđược tiếp tục khẳng định và cụ thểhóa từng bước trong nghị quyết Đại hội V của Đảng. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội mở đầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất; đổi mới nội dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại, bảo đảm quá trình đổi mới diễn ra đúng nguyên tắc tập trung dân chủ... Bởi vậy, trên thực tế, quyền làm chủ của Nhân dân đã từng bước được khơi dậy và phát huy. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với việc thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXHđã nhấn mạnh: "Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ", và "Toàn bộ tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân" [22, tr. 19]. Có thể nói: Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa làđộng lực của công cuộc đổi mới. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), tiếp tục khẳng định "Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trịở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thểđể thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở" [22, tr. 43]. Việc ban hành Chỉ thị 30 CT/TW của Bộ Chính trị và Nghịđịnh 29/1998/NĐ-CP là sự cụ thể hóa quan điểm đó của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001), được xem làĐại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này, nội dung dân chủ lại càng được coi trọng. Dân chủ đãđược đặt trong những mục tiêu của con đường đi lên CNXH ở nước ta, đó là: "Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [26, tr. 22]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: "Xây dựng một xã hội dân chủ, xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội" và khẳng định: "Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của đất nước". Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011), quan điểm của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ ở Việt Nam tiếp tục là sự kế thừa và phát triển có chọn lọc các giá trị nhân loại phù hợp với điều kiện của đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân [34, tr.47]. Đảng cộng sản Viêt Nam đã quán triệt sâu sắc và hoàn thiện hơn mục tiêu XHCN: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển của đất nước, vì nó phát huy tích cực, chủ động, tự giác, giải phóng năng lực sáng tạo của con người. Nhìn nhận về vấn đề dân chủ và mở rộng dân chủ trong Đảng cũng như trong xã hội, có thể nói, từ Đại hội XI đến Đại hội XII (2016) của Đảng, đã có một bước tiến đáng kể. Với việc đặt “dân chủ” lên trước “công bằng”, “văn minh” trong mục tiêu phấn đấu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đại hội XII nêu lên “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân”, trong đó có cả việc “tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”. Dân chủ và phát huy dân chủ là một nội dung lớn, quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là kết quả của quá trình tiến hành tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng trong suốt quá trình hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng và 30 năm đổi mới đất nước. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đồng thời cũng là nền tảng chống lại những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. 1.1.2.2.Thực hiện Quy chế dấn chủ ở cơ sở - Bước đột phá trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta Nhận thức rõ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta không ngừng nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện và bước đầu tìm tòi các hình thức dân chủ trực tiếp. Vì thế, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì nền dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng, từ dân chủ về chính trị, kinh tế đến dân chủ trên lĩnh vực ý thức, tư tưởng. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn đẩy lùi được. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa thành pháp luật nên chậm đi vào cuộc sống. Tình trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc, quyết định những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân, không minh bạch về tài chính, tình trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải quyết hoặc giải quyết không kịp thời đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền, làm triệt tiêu nguồn động lực của nhân dân và xâm phạm bản chất tốt đẹp của chế độ. Chính vì vậy, ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW về thực hành và thực hiện QCDC ở cơ sở. Bộ Chính trị đã xác định, lúc này "khâu quan trọng và cấp bách trước hết là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004624_2246_2006146.pdf
Tài liệu liên quan