Luận văn Đánh giá điều kiện tự nhiên phục vụ quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp vùng đồi núi tỉnh Thừa Thiên - Huế

Thừa Thiên - Huế

Từ năm 1975 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến lãnh thổ đồi núi Thừa Thiên - Huế và đến đề tài nghiên cứu ở các mức độ, khía cạnh khác nhau được tác giả tham khảo và vận dụng.

- Nhóm tài liệu địa lý liên quan đến lãnh thổ đồi núi Thừa Thiên - Huế:

Về địa chất: Các tác giả liên đoàn Bản đồ địa chất đã công bố công trình "Cấu trúc địa chất khu vực ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế", năm 1985, Đoàn địa chất 406 thuộc liên đoàn Địa chất 4 xây dựng báo cáo Địa chất và khoáng sản BTT, tập 1 & 2:

Về địa hình: Năm 1983 - 1988, tập thể bộ môn Địa lý trường Đại học Tổng hợp Huế đã tổ chức nhiều đợt khảo sát thực địa và hoàn thành công trình nghiên cứu cấp Bộ [52]. Từ 1986-1990, với tập thể nhà khoa học gắn liền với địa phương, các kết quả trên có độ tin cậy cao, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Năm 1989, chương trình 52 E[16] kết thúc, báo cáo "Phân tích và đánh giá điều kiện địa hình" [16, trang 19] được chúng tôi tham khảo xem như là tài liệu cơ bản về địa hình, có độ tin cậy cao. Ngoài ra còn có một số bài báo cáo [50] được chúng tôi tham khảo để đối chiếu lại với các nguồn tư liệu khác.

Về khí hậu, thủy văn: Cũng như địa chất và địa hình, "Bước đầu phân vùng khí hậu nông nghiệp Bình Trị Thiên" [16] và "Các yếu tố sinh khí hậu" [54] sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi được xem là tài liệu cơ bản. Ngoài ra còn tham khảo một số kết quả: "Những lý do gây mưa nhiều ở vùng đồng bằng khu vực Huế" và "Về phương pháp phân phối vùng khí hậu nông nghiệp bước đầu ứng dụng ở Thừa Thiên - Huế"[6] hay [76], các tài liệu khác [25,48,67].

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2741 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá điều kiện tự nhiên phục vụ quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp vùng đồi núi tỉnh Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trường. Phương pháp quy hoạch cảnh quan sinh thái được thực hiện qua 2 bước: - Soạn thảo số liệu: 1. Phân tích các số liệu chuyên ngành. 2. Tổng hợp thành lập bản đồ cảnh quan sinh thái. 3. Diễn giải ác số liệu cảnh quan sinh thái. - Tối ưu hóa việc sử dụng lãnh thổ dưới góc độ cảnh quan sinh thái: 4. Đánh giá. 5. Đề xuất. Đây là phương pháp chính trong khối SEV cũ để đánh giá lãnh thổ và quy hoạch [dẫn theo V. trang 23]. - ở Mỹ và các nước Tây Âu: Việc đánh giá các điều kiện tự nhiên ứng dụng không quá đi sâu và phụ thuộc vào học thuyết cảnh quan. Quan điểm này được gọi chung là quan điểm của trường phái không theo học thuyết cảnh quan. Trường phái này có nhiều hướng phát triển và quan điểm cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, điểm quan trọng là đều theo hướng nghiên cứu tổng hợp và xác định đối tượng nghiên cứu của địa lý ứng dụng là các đơn vị (Unit). Cũng như các nước Tây Âu và Mỹ, ở các nước Đông Nam á, Nam á và châu Phi ngày nay thường sử dụng các đơn vị (Unit) như Cartogrophic Unit hay Geographic Unit... hoặc là Landscapes, Landscapes Ecology [hải]... Các đơn vị Unit này đồng nghĩa với quan niệm về hệ địa lý, một thể tổng hợp tự nhiên lãnh thổ của một cấp bất kỳ hay ở các cấp khác nhau. Trường phái này chú trọng vào mục đích ứng dụng cụ thể mà xác định các đơn vị địa hệ cơ sở. Từ tác động của các thành phần nghiên cứu nào được quan tâm nhất mà chọn đơn vị đánh giá và quy hoạch. Chính vì vậy trong trường phái này thường thấy xu hướng hoặc chú trọng yếu tố hình thái địa hình (phát sinh địa mạo), hoặc chú trọng các yếu tố đất (các quá trình phát sinh thổ nhưỡng)... Thí dụ ở úc là các đơn vị đất của hệ thống đất trên cơ sở của bốn yếu tố địa chất, địa mạo, thổ nhưỡng, thực vật. ở Mỹ yếu tố quan tâm chính là đất và nguy cơ bị xói mòn, thoái hóa đất. Cũng trên quan điểm thực dụng ở Pháp là xu hướng sử dụng các đơn vị địa mạo - thổ nhưỡng, địa mạo - thủy văn như là các đơn vị đánh giá và quy hoạch chính. J.Tricard đã công bố các kết quả nghiên cứu liên kết đó trong công trình "địa mạo ứng dụng" (1978), địa lý sinh thái và quy hoạch môi trường tự nhiên (1979). Năm 1967, G. Calbaussed đã đưa ra bảng phân kiểu cảnh quan tỷ lệ 1:100.000 trên tờ Grenoble. Cách làm của ông là chồng xếp các bản đồ nham thạch, khí hậu, thủy văn. Ông quan niệm cảnh quan là lãnh thổ thích nghi của thiên nhiên với tác động của con người. G.Bertrand phân ra ba bậc: 1- Môi trường tự nhiên; 2- Các hệ sinh thái; 3- Tác động của con người. Năm 1980 Th.Brossard, I.C.Wieber đưa ra quan điểm nghiên cứu cảnh quan trên ba khía cạnh: cảnh quan là sự biểu hiện các lực bên ngoài (tự nhiên và nhân sinh) tác động vào nó; cảnh quan là phần trông thấy được của bề mặt trái đất, biểu hiện sự tổ hợp có quy luật của các yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cảnh quan là bề mặt nhận thức được. Tổng hợp cả ba mô hình này sẽ có khái niệm đầy đủ về cảnh quan. ở nước ta: Các công trình về đánh ĐKTN xuất hiện tương đối muộn, chủ yếu từ những năm 80. Đó là công trình của các tác giả: Nguyễn Thành Long và những người khác, 1984; Trương Thị Tùng, 1986; Nguyễn Văn Sơn, 1987;... đánh giá ĐKTN của Tây Nguyên và một vài nơi khác đối với các loại cây công nghiệp chè, cao su, cà phê [43, 59, 74, 100]. Nguyễn Đình Giang, 1986, 1988, về phân chia các thể tổng hợp tự nhiên nhằm mục đích đánh giá và đánh giá ĐKTN đối với cây khoai tây ở Thanh Hóa [26, tr. 30]. Các công trình này đánh giá trên cơ sở phân chia lãnh thổ ra các cảnh quan hoặc các cấp nhỏ hơn. Đánh giá chung có được bằng cách cộng điểm của các đánh giá riêng. Nguyễn Thế Thôn (1994), đánh giá ĐKTN đối với các đối tượng nuôi trồng ở huyện Quỳnh Lưu cũng trên cơ sở phân chia lãnh thổ ra các cảnh quan và đánh giá chung theo phương pháp nhân [65]. Một số công trình đánh giá khác, trong đó có công trình "Đánh giá tổng hợp ĐKTN - kinh tế xã hội và tài nguyên các tỉnh miền Trung" thuộc chương trình 52E của ủy ban KHKT nhà nước và Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành [80]. Các tác giả Viện Địa lý [79] chọn "diện cảnh quan sinh thái" với các bản đồ tỷ lệ 1/25.000 - 1/2.000; "loại cảnh quan sinh thái" với các bản đồ tỷ lệ 1/50.000 - 1/100.000. Theo hướng sinh thái cảnh quan, các công trình: "Quản lý tài nguyên rừng và nông lâm kết hợp" (1984) [16], "Phân kiểu sinh khí hậu Việt Nam" (1994) [6], "Đánh giá, phân hạng điều kiện sinh thái tự nhiên lãnh thổ trung du Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế cho nhóm cây công nghiệp dài ngày" (1995) [78], "Nghiên cứu cải tạo, sử dụng hợp lý hệ sinh thái vùng gò đồi Bình Trị Thiên" (1996) [46]; là những đại diện, trong đó các chỉ tiêu sinh thái (như nhiệt độ, độ ẩm, đất, độ dốc...) cho một số loài cây trồng được lựa chọn để đánh giá độ phù hợp. Dưới góc độ phân vùng địa lý tự nhiên, các nhà địa lý tiến hành phân vùng địa lý tự nhiên lãnh thổ nghiên cứu, từ đó xác định một cách khái quát nhất phương hướng sử dụng lãnh thổ [17], [41]. Trong các công trình này, các đơn vị lãnh thổ tương đối đồng nhất về một số chỉ tiêu nào đó, với những đặc điểm nhất định về tài nguyên, được sử dụng làm đơn vị cơ sở cho quy hoạch vùng và sử dụng tổng hợp lãnh thổ, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một mô hình thống nhất tối ưu về phương pháp đánh giá, kể cả các chỉ tiêu và đơn vị lãnh thổ cơ sở để đánh giá tổng hợp môi trường tự nhiên. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu theo hướng đánh giá đất và phân hạng đất đai phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp Nhằm ngăn chặn những suy thoái của tài nguyên đất đai gây ra do sự thiếu hiểu biết của con người, đồng thời nhằm hướng dẫn, sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này, công tác nghiên cứu về đất và đánh giá đất đai đã được thực hiện từ lâu. Hiện nay, những kết quả và những thành tựu về nghiên cứu đất và đánh giá đất đai đã được cộng đồng thế giới tổng kết và khái quát chung trong khuôn khổ của các tổ chức Liên Hợp Quốc như FAO, UNESCO, IRSC... như là tri thức chung của nhân loại [T-A.Phong, 1995]. Những nghiên cứu về đánh giá giá đất đai trên thế giới: Từ những năm 50 của thế kỷ XX con người bắt đầu thấy cần có những hiểu biết tổng hợp để đánh giá tiềm năng của đất đai (Land) cho các mục tiêu sử dụng đã được xác định. Vì vậy, việc đánh giá khả năng sử dụng đất được xem là bước nghiên cứu kế tiếp của công tác nghiên cứu đặc điểm đất (Soil). Từ mục đích đó công tác đánh giá đất đai đã được nhiều nhà khoa học và nhiều tổ chức quốc tế quan tâm và đã trở thành một trong những chuyên ngành nghiên cứu quan trọng phục vụ tích cực cho việc quy hoạch, hoạch định chính sách đất đai và sử dụng đất đai hợp lý. Phương pháp và hệ thống đánh giá đất đai ngày càng hoàn thiện, phổ biến là các hệ thống: - ở Hoa Kỳ: Phân loại khả năng thích nghi đất có tưới (Irrigation land Suitability Classification) của cục cải tạo đất đai thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ biên soạn năm 1951. Hệ thống phân loại bao gồm các lớp, từ lớp có thể trồng trọt được (Arable) đến lớp có thể trồng trọt được một cách giới hạn (Limited arable) và lớp không thể trồng trọt được (Non - arable). Trong hệ thống phân loại này, ngoài đặc điểm đất đai, một số chỉ tiêu về kinh tế cũng được xem xét nhưng ở phạm vi thủy lợi [T.A. Phong, 1995]. Ngoài ra, phân loại theo khả năng đất đai (Land Capability) cũng được mở rộng trong công tác đánh giá đất đai ở Hoa Kỳ. Phương pháp này do Klingebiel và Montgomery đề nghị năm 1964. Trong đó, các đơn vị bản đồ đất được nhóm lại dựa vào khả năng sản xuất một loại cây trồng hay thực vật tự nhiên nào đó, chỉ tiêu chính là các hạn chế của lớp phủ thổ nhưỡng đối với các mục tiêu canh tác được đề nghị. - ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu: Việc phân hạng và đánh giá đất đai thực hiện từ những năm 60, được thực hiện qua 3 bước: + Đánh giá lớp phủ thổ nhưỡng: so sánh các loại thổ nhưỡng theo tính chất tự nhiên. + Đánh giá khả năng sản xuất của đất đai: Yếu tố được xem xét kết hợp với địa hình, khí hậu, độ ẩm đất... + Đánh giá kinh tế đất: đánh giá khả năng sản xuất hiện tại của tự nhiên. Phương pháp này thuần túy quan tâm đến khía cạnh tự nhiên của đối tượng đất đai, chưa xem xét đầy đủ khía cạnh kinh tế - xã hội của việc sử dụng đất đai. - Vào những năm 70, song song với tiến trình thống nhất quan điểm về phân loại thổ nhưỡng, FAO đã tài trợ những chương trình nghiên cứu có tính toàn cầu về đánh giá đất đai và sử dụng đất đai trên quan điểm lâu bền. Kết quả là một dự thảo đầu tiên về phương pháp đánh giá đất đai đã ra đời vào năm 1972 [N.A. Phồn, 96]. Dự thảo đã được nhiều quốc gia thử nghiệm và góp ý bổ sung, sau đó được Brinkman và Smyth biên soạn lại và in ấn năm 1973. Tại Hội nghị Rome 1975, các chuyên gia hàng đầu về đánh giá đất đai của FAO và các quốc gia khác (K.J.Beek, J.Bennema, P.J.Mabiler, G.A.Smyth...) đã tổng hợp kinh nghiệm của nhiều nước, bổ sung và biên soạn lại để hình thành đề cương đánh giá đất đai (A framework for Land Evaluation) được công bố vào năm 1976, sau đó được bổ sung, hoàn chỉnh năm 1983. Tài liệu này được cả thế giới quan tâm thử nghiệm, vận dụng và chấp nhận là phương tiện tốt nhất để đánh giá tiềm năng đất đai [Đất VN, 2000, T.A Fg, 95]. Tiếp theo đề cương tổng quát 1976 là hàng loạt tài liệu hướng dẫn cụ thể khác về đánh giá đất đai cho từng đối tượng chuyên biệt cũng được FAO xuất bản như: Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp nhờ nước mưa (FAO, 1983); Đánh giá đất đai cho lâm nghiệp (1984); Đánh giá đất đai cho nền nông nghiệp được tưới (FaO, 1985); Đánh giá đất đai cho đồng cỏ quảng canh (1989); Đánh giá đất đai cho mục tiêu phát triển (1990); Đánh giá đất đai và phân tích hệ thống canh tác cho việc sử dụng đất (1992). Hiện nay, công tác đánh giá đất đai được thực hiện trên nhiều quốc gia và trở thành một khâu trọng yếu của hoạt động đánh giá tài nguyên hay phục vụ quy hoạch (theo FAO, Guiderlines for land use Planning, 1994) [T.A.Phg. 1995]. Đánh giá đất đai ở Việt Nam ở nước ta, giai đoạn trước năm 1975 là thời kỳ xây dựng cơ sở lý luận cho khoa học thổ nhưỡng Việt Nam. Từ năm 1975 đến 1980 một số công trình nghiên cứu phân loại, xây dựng bản đồ đất đai và nghiên cứu ứng dụng các phương pháp đánh giá tổng hợp cho các mục tiêu sử dụng đất đã bắt đầu được tiến hành. Tuy nhiên, chỉ từ sau năm 1980 đến nay, việc nghiên cứu đánh giá đất đai mới được đẩy mạnh với việc sử dụng phương pháp của FAO vào Việt Nam. Nhiều nhà khoa học và các cơ quan có liên quan đến sử dụng đất đai đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về đánh giá phân hạng đất đai phục vụ cho mục tiêu phát triển nông lâm nghiệp ở nước ta. Có thể nêu ra một số công trình: - Đánh giá phân hạng đất đai toàn quốc (Tôn Thất Chiểu và các cộng sự) thực hiện năm 1984 tỷ lệ bản đồ 1/500.000) dựa vào nguyên tắc phân loại khả năng đất đai (Land Capability Classification) của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ [T.A.Phg ], chỉ tiêu sử dụng là đặc điểm thổ nhưỡng và địa hình, được phân cấp nhằm mục đích sử dụng đất đai tổng hợp bao gồm 7 nhóm, trong đó đánh giá cho sản xuất nông nghiệp (4 nhóm), lâm nghiệp (2 nhóm) và mục đích khác (1 nhóm). - Vận dụng phương pháp phân loại khả năng đất đai của FAO Bùi Quang Toản và CTV đã tiến hành đánh giá và qui hoạch sử dụng đất đai hoang ở Việt Nam (1985). Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá bao gồm các điều kiện tự nhiên. Thổ nhưỡng, thủy văn và tưới tiêu, khí hậu nông nghiệp. Hệ thống phân hạng đến cấp lớp (class) thích nghi cho từng loại hình sử dụng đất. - Năm 1986, nhóm tác giả Viện QHTKNN đã biên tập "Cơ sở khoa học bố trí sử dụng đất nông nghiệp đồng bằng Cửu Long" [56], trên cơ sở xây dựng bản đồ sinh thái nông nghiệp (tổng hợp các bản đồ: địa chất, địa mạo, đất, thủy văn, khí hậu nông nghiệp, hiện trạng sản xuất và lớp phủ thực vật). Đơn vị cơ sở là các đơn vị sinh thái. Từ đó, xây dựng các bản đồ thích nghi cho một số cây trồng như lúa, ngô, mía... với 4 cấp: thích hợp nhất, thích hợp, ít thích hợp và không thích hợp. - Năm 1989, Viện Thổ nhưỡng - Nông hóa đã tiến hành nghiên cứu đánh giá, phân hạng đất Tây Nguyên cho cây cao su, cà phê, chè và dâu tằm do Vũ Cao Thái chủ trì. Đề tài đã vận dụng phương pháp phân hạng đất đai của FAO theo kiểu định tính và hiện tại để đánh giá tiềm năng đất đai của vùng. Đất đai được phân theo 4 hạng riêng cho từng cây trồng. - Năm 1990, tác giả Hoàng Xuân Tý và cộng sự đã thực hiện đề tài "Nghiên cứu đánh giá tiềm năng sản xuất đất trống đồi núi trọc và xác định phương hướng sử dụng hợp lý"[96], việc đánh giá tiềm năng đất đai dựa trên phân loại sinh khí hậu, xây dựng bản đồ mức độ thích hợp về mặt sinh khí hậu, đánh giá khả năng gây trồng và phục hồi rừng, áp dụng cho vùng đồi Quảng Nam - Đà Nẵng. - Trong chương trình qui hoạch tổng hợp (Master Plan) vùng đồng bằng sông Cửu Long, việc nghiên cứu khả năng sử dụng đất đai toàn vùng đồng bằng đã được thực hiện (M.E.F.Van Mens voost, Nguyễn Văn Nhân,1993). Các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá là các điều kiện tự nhiên có liên quan đến mục tiêu sử dụng đất. - Dự thảo nghị định của Chính phủ về phân hạng đất tính thuế - 1993 với sự tham gia của các cơ quan chức năng và nhiều nhà khoa học đã đề ra chỉ tiêu và tiêu chuẩn phân hạng đất trồng lúa, cây trồng cạn ngắn ngày, nuôi trồng thủy sản, trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả... (tài liệu chưa xuất bản) [Hội đất Việt Nam 2000]. Căn cứ để xác định phân hạng đất đai gồm 5 yếu tố: chất đất, vị trí địa hình, điều kiện thời tiết khí hậu, điều kiện tưới tiêu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu và đánh giá, phân hạng đất đai ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ áp dụng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đối với ngành lâm nghiệp, nghiên cứu mới chỉ ở mức độ khái quát. - Trong thời kỳ 1992-1994,Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã thực hiện công tác đánh giá đất đai trên 9 vùng sinh thái của cả nước với bản đồ tỉ lệ 1/250.000 (mã số KT- 02.09.00 Trần An Phong chủ trì) và ở một số địa phương khác [42], [90],[92].[134]. Các công trình đã vận dụng phương pháp của FAO vào việc đánh giá hiện trạng sử dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, xác định đất đai (land) là một vùng đất, bao gồm tất cả các thành phần của môi trường có ảnh hưởng đến việc sử dụng đất. Do đó, đất đai không chỉ đề cập đến thổ nhưỡng mà còn bao gồm cả địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật cùng với những công trình cải tạo đất như hệ thống đê điều, hay các hệ thống tưới tiêu. Đơn vị cơ sở để đánh giá là các đơn vị đất đai hay đơn vị bản đồ đất đai (Land unit/land mapping unit). Các đơn vị đất đai được xác định dựa trên 7 chỉ tiêu tự nhiên (thổ nhưỡng, độ dày tầng đất, độ dốc, lượng mưa, thủy văn, tưới tiêu, nhiệt độ). Kết quả đánh giá đã xác định được tiềm năng đất đai của các vùng và khẳng định nội dung, phương pháp đánh giá đất đai của FAO theo tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể của Việt Nam là phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay [Hội đất Việt Nam]. Hướng nghiên cứu này thích hợp cho việc đánh giá nhằm xây dựng bản đồ thích nghi cây trồng. Các đơn vị bản đồ đất đai với những khoanh vi hẹp, có ý nghĩa cho việc thiết kế hệ thống cây trồng cụ thể, điều này chi tiết hơn nhiều so với mục đích nghiên cứu của đề tài. Mặt khác, tiến trình đánh giá đất đai của FAO cũng cho thấy việc xác định các đơn vị đất đai không thể thống nhất chung cho mọi địa phương. Mỗi lãnh thổ cần có một bộ chỉ tiêu với các quy tắc và tiêu chuẩn phân loại khác nhau là những khó khăn đáng kể đối với cá nhân nghiên cứu. Thừa Thiên - Huế Từ năm 1975 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến lãnh thổ đồi núi Thừa Thiên - Huế và đến đề tài nghiên cứu ở các mức độ, khía cạnh khác nhau được tác giả tham khảo và vận dụng. - Nhóm tài liệu địa lý liên quan đến lãnh thổ đồi núi Thừa Thiên - Huế: Về địa chất: Các tác giả liên đoàn Bản đồ địa chất đã công bố công trình "Cấu trúc địa chất khu vực ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế", năm 1985, Đoàn địa chất 406 thuộc liên đoàn Địa chất 4 xây dựng báo cáo Địa chất và khoáng sản BTT, tập 1 & 2: Về địa hình: Năm 1983 - 1988, tập thể bộ môn Địa lý trường Đại học Tổng hợp Huế đã tổ chức nhiều đợt khảo sát thực địa và hoàn thành công trình nghiên cứu cấp Bộ [52]. Từ 1986-1990, với tập thể nhà khoa học gắn liền với địa phương, các kết quả trên có độ tin cậy cao, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. Năm 1989, chương trình 52 E[16] kết thúc, báo cáo "Phân tích và đánh giá điều kiện địa hình" [16, trang 19] được chúng tôi tham khảo xem như là tài liệu cơ bản về địa hình, có độ tin cậy cao. Ngoài ra còn có một số bài báo cáo [50] được chúng tôi tham khảo để đối chiếu lại với các nguồn tư liệu khác. Về khí hậu, thủy văn: Cũng như địa chất và địa hình, "Bước đầu phân vùng khí hậu nông nghiệp Bình Trị Thiên" [16] và "Các yếu tố sinh khí hậu" [54] sử dụng trong nghiên cứu của chúng tôi được xem là tài liệu cơ bản. Ngoài ra còn tham khảo một số kết quả: "Những lý do gây mưa nhiều ở vùng đồng bằng khu vực Huế" và "Về phương pháp phân phối vùng khí hậu nông nghiệp bước đầu ứng dụng ở Thừa Thiên - Huế"[6] hay [76], các tài liệu khác [25,48,67]. Đặc biệt các kết quả ơ4 [22] được xem như là tài liệu chủ đạo; khi tham khảo [16,54] chúng tôi đều có kết hợp với [22]. Về đất: Trong số các hợp phần của cảnh quan, phải nói rằng những công trình nghiên cứu về đất ở lãnh thổ trung du Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế là rất phong phú và đa dạng. Có những kết quả nghiên cứu về đất dưới dạng chuyên khảo như [5], có những báo cáo viết về đất dưới dạng nghiên cứu tổng hợp các hợp phần như [6,16,50]. Là một trong những tỉnh có diện tích đất trống đồi trọc lớn, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế đã có 2 công trình nghiên cứu "Điều tra, đánh giá, khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên đất trống đồi trọc" [73,74], đây là những báo cáo có giá trị thực tế lớn, được chúng tôi tham khảo khi xử lý số liệu phân tích đất. Các tài liệu [53, 54] là những công trình nghiên cứu được triển khai thực hiện công phu, nghiêm túc. Tóm lại, các kết quả nghiên cứu về đất như quá trình hình thành và phát triển, động thái, hiện trạng sử dụng đất, đặc điểm lý hóa,... được chúng tôi tham khảo và sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình. Về thực vật: Các kết quả nghiên cứu thực vật có liên quan lãnh thổ trung du Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế phải kể đến trước hết là " Số liệu điều tra và thống kê tài nguyên rừng năm 1983" [9], "Đặc điểm thảm thực vật và tài nguyên rừng Bình Trị Thiên" [16], "Tóm tắt báo cáo khoa học về điều tra cơ bản" [50]. Đây là nguồn tài liệu cơ bản được sử dụng chính trong công trình của chúng tôi. Ngoài ra còn tham khảo thêm [21, 23, 49, 58] Về nghiên cứu, đánh giá tổng hợp thể sản xuất lãnh thổ và xây dựng mô hình: Khi nghiên cứu, đánh giá tiềm năng tự nhiên của các tổng thể tự nhiên, có nhiều công trình nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau, [16, 54] là những công trình nghiên cứu đồng bộ nhất, có giá trị cao về cả lý thuyết lẫn thực tế. Ngoài ra, [50, 51] là những kết quả nghiên cứu tổng hợp, được chúng tôi sử dụng trong luận án. Nhiều mô hình được nghiên cứu mô phỏng và đúc kết qua thực tế sản xuất đã được các tác giả đưa ra khi thực hiện đề tài [19, 21, 23, 32, 34,49, 54]. Chúng tôi cho rằng đây là những kinh nghiệm quý báu, tuy nhiên, với thực tế tự nhiên và cơ chế xã hội như hiện nay, nguồn tài liệu này chỉ dừng lại ở mức tham khảo. - Nhóm tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Cũng như lãnh thổ nghiên cứu, đề tài nghiên cứu của chúng tôi có liên quan với nhiều công trình đã công bố. Trong số đó có những loại tài liệu như sau: Việc đánh giá tổng hợp các đơn vị tự nhiên, xác định chức năng của chúng, nhằm kiến nghị hướng sử dụng hợp lý, lâu dài và ổn định. Các đề tài [43, 48, 51, 54, 58, 80, 81] cùng có mục tiêu như cách đặt vấn đề của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu lãnh thổ trung du Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Nghiên cứu cảnh quan lãnh thổ, nhằm mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây là hướng nghiên cứu "Sinh thái hợp cảnh quan", các công trình [1, 20, 23, 26, 54, 63, 68, 86] ở một mức độ nào đó đã giải quyết đúng mục tiêu này, ở góc độ của chúng tôi, xem nhóm loại đề tài đã dẫn như tài liệu cơ bản. Tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình, nghiên cứu đề xuất mô hình kinh tế - môi trường sinh thái, đó là mục tiêu và nhiệm vụ mà các đề tài [7, 8, 10, 18, 19, 20, 21, 23, 32, 34,49, 54, 55, 65, 78, 83] đã giải quyết. 1.2. Một số khái niệm sử dụng trong luận án 1.2.1. Đánh giá là xem xét một đối tượng nào đó dưới hình thức so sánh, đối chiếu với những tiêu chuẩn hay yêu cầu nhất định. Trong nghiên cứu môi trường tự nhiên thì đánh giá phản ánh giá trị của tự nhiên đối với một yêu cầu kinh tế - xã hội cụ thể. Đặc điểm của tự nhiên là đơn trị, nhưng giá trị kinh tế - xã hội của nó là đa trị. Bất kỳ thành phần riêng biệt nào của môi trường tự nhiên cũng có thể là đối tượng đánh giá, song vì các thành phần tự nhiên luôn tác động tương hỗ, gắn bó chặt chẽ với nhau nên việc đánh giá tổng thể tự nhiên như một chỉnh thể - đánh giá tổng hợp - là nhiệm vụ thiết yếu nhất. "Việc đánh giá những tham số riêng biệt của hệ địa lý theo quan điểm thực tiễn nào đấy (giao thông, nông nghiệp, giải trí,...) về thực chất là sự trừu tượng hóa bởi vì từng hợp phần của hệ thống không bao giờ hoạt động riêng lẻ" [33, tr. 31]. Hoạt động đánh giá tổng hợp dựa vào sự hiểu biết kỹ lưỡng các đặc điểm của các hệ thống tự nhiên và các hệ thống kinh tế - xã hội để xác định chính xác mối quan hệ giữa chúng. Vì thế, mục tiêu chính của hoạt động đánh giá tổng hợp là nhằm điều khiển mối quan hệ tương hỗ này sao cho sản xuất có hiệu quả cao nhất, huy động được nhiều tiềm năng tự nhiên nhất, nhưng tự nhiên vẫn được bảo vệ theo cân bằng địa sinh thái, thậm chí được cải tạo để trở nên giàu đẹp hơn. Sự thống nhất đặc biệt của tự nhiên cho thấy việc tìm kiếm các ranh giới (ngưỡng) phân cấp lãnh thổ một cách rõ rệt là vô cùng hiếm, thường thì khu vực ranh giới bao giới bao giờ cũng mang tính chất chuyển tiếp. Cũng vì thiên nhiên có tính thống nhất đặc biệt nên khi sử dụng tài nguyên thiên nhiên, loài người đã tham gia tích cực vào việc trao đổi vật chất, năng lượng và không khỏi làm chúng thay đổi. Những thay đổi không mong muốn của môi trường tự nhiên là những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu. Những thiệt hại này được xếp thành 2 nhóm: sinh thái và kinh thế. Thiệt hại về kinh thế là những mất mát vật chất liên quan đến sự cạn kiệt tài nguyên và chi phí để làm sạch nước hay sử dụng nguyên liệu kém phẩm chất... Thiệt hại về sinh thái là sự sút kém phẩm chất của môi trường. Do đó, bất kỳ biện pháp nào phải nhằm ngăn chặn sự thiệt hại về kinh tế và sự sút kém của điều kiện sinh thái đều phải dựa trên cơ sở các cơ chế hoạt động của tổng hợp thể tự nhiên. Đây chính là cơ sở khoa học đầu tiên của quy hoạch. 1.2.2. Định nghĩa về đất đai Theo học thuyết sinh thái học cảnh quan (landscape ecology), đất đai được coi là vật mang của hệ sinh thái. Đất đai được định nghĩa đầy đủ như sau: "Một vạt đất xác định về mặt địa lý là một diện tích bề mặt của trái đất với những thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi có tính chất chu kỳ có thể dự đoán được của sinh quyền bên trên, bên trong và bên dưới nó như là: không khí, đất (soil), điều kiện địa chất, thủy văn, thực vật và động vật cư trú, những hoạt động hiện nay và trước đây của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính này ảh có ý nghĩa tới việc sử dụng vạt đất đó của con người hiện tại và trong tương lai" (Christian và Stewart - 1968: Brinkman và Smyth - 1973). Từ định nghĩa trên, ta có thể hiểu đơn giản: Đất đai là một vùng đất ranh giới, vị trí cụ thể và có các thuộc tính tổng hợp của các yếu tố tự nhiên kinh tế - xã hội như: thổ nhưỡng, khí hậu, địa hình, địa mạo, địa chất, thủy văn, thực vật, động vật và hoạt động sản xuất của con người. Đơn vị đất đai (Land Units) là thuật ngữ được dùng trong hướng dẫn đánh giá đất cho nông nghiệp nhờ nước trời FAO, 1985. Trong: Đề cương đánh giá đất FAO 1976 thì được gọi là đơn vị bản đồ đất đai (Land Units), ở Việt Nam thuật ngữ đó tương ứng với "Khoanh" hoặc "Khoảnh" do Bùi quang Toản đề xuất năm 1977. Đơn vị đất đai được hiểu là: những vùng đất trên thực tế, tương ứng với các khoảnh đất trên bản đồ có sự đồng nhất tương đối về tất cả các chỉ tiêu. Đó là các tính chất, đặc điểm đất đai cơ bản thuộc cả về tự nhiên (đất, nước, khí hậu....), kinh tế xã hội. Được xác định là một đơn vị đất đai có nghĩa là sẽ có cùng khả năng sử dụng, với cùng một mức độ thích hợp cho một loại sử dụng đất đai nào đó. Đơn vị đất đai là cơ sở đề tiến hành đánh giá, phân hạng mức độ thích hợp ở bước sau. Vì vậy cần phải được tổ hợp và xác định một cách hợp lý và chuẩn xác. 1.2.3. Khái niệm về đánh giá, phân hạng đất đai Các nhà thổ nhưỡng học đã đi sâu nghiên cứu các đặc tính cấu tạo, các quy luật và quá trình hình thành đất (Soils), điều tra lập bản đồ đất theo các tỷ lệ khác nhau. Sử dụng thành tựu đó và qua thực tế sản xuất trên đồng ruộng, các nhà kinh tế học, xã hội học, sinh thái học và cả những người nông dân đã đi sâu nghiên cứu và xem xét tới nhiều khía cạnh có liên quan trực tiếp tới quá trình sản xuất trên từng vạt đất đai (lands). Từ đó dẫn tới khái niệm: đánh giá, phân hạng đất đai. Theo A. Young: Đánh giá đất đai là quá trình đoán định tiềm năng của đất cho một hoặc một số loại sử dụng đất được đưa ra để lựa chọn. FAO đã đề xuất định nghĩa về đánh giá đất đai (176): Đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan an.doc
Tài liệu liên quan