Luận văn Đánh giá mô hình ghép chồi cải tạo giống cà phê vối (Coffea canephora var. Robusta) tại vùng chuyên canh cà phê ở Đăk Lăk

MỤC LỤC

Lời cảm ơn i

Mục lục ii

Danh mục các chữ viết tắt iv

Danh mục bảng v

1. MỞ ĐẦU 1

1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu yêu cầu của đề tài 2

2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4

2.1. Đặc điểm nông sinh học cây cà phê vối 4

2.2. Cơ sở khoa học của nhân giống vô tính bằng phương pháp ghép 14

2.3. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống và kỹ thuật ghép chồi thay thế trên thế giới, Việt Nam và ở Đăk Lăk 26

3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31

3.1. Nội dung 31

3.2. Đối tượng nghiên cứu 31

3.3. Phương pháp nghiên cứu 32

4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 34

4.1. Điều tra đánh giá thực trạng canh tác cây cà phê ở Đăk Lăk 34

4.1.1. Hiện trạng các vườn cà phê vối ghép chồi thay thế ở Đăk Lăk 34

4.1.2. Hiện trạng các vườn cà phê chưa ghép chồi thay thế ở Đăk Lăk 38

4.2. Kết quả đánh giá mô hình ghép cải tạo 44

4.2.1. Sinh trưởng của các dòng vô tính sau ghép 36 tháng tại 2 điểm điều tra 44

4.2.2. Năng suất lý thuyết của 5 dòng vô tính tại 2 địa điểm điều tra 45

4.2.3. Phẩm chất quả, hạt của các dòng vô tính và đối chứng tại 2 địa điểm (kế thừa) 48

4.2.4. Đánh giá khả năng nhiễm bệnh gỉ sắt của các dòng vô tính và đối chứng (kế thừa) 51

5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 53

5.1. Kết luận 53

5.2. Đề nghị 53

TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

 

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3673 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá mô hình ghép chồi cải tạo giống cà phê vối (Coffea canephora var. Robusta) tại vùng chuyên canh cà phê ở Đăk Lăk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g (không cưa). Các cành của cây không mong muốn được cắt đi, để lại một hoặc hai cành có đỉnh và ghép lên chồi mong muốn. Sau khi ghép thành công và nơi ghép đã liền lại việc cắt ngọn thân chính phía trên vết ghép (Cramer, 1924) có thể được thực hiện từ tháng 9 - 10 để làm tăng sinh trưởng của chồi ghép. Một thí nghiệm được tiến hành ghép thành công trên cây cà phê không cắt ngọn, cho thấy rằng việc ghép trên cây có nửa tán có ảnh hưởng có ý nghiã đến chiều cao, chiều dài lóng và chu vi thân của cây ghép khi so với cây có đủ tán. Ghép Nhiều phương pháp ghép đã được thử nghiệm ở Kenya: ghép chẻ, ghép bên, ghép nêm bên ... Trong số đó ghép bên có tỉ lệ thành công cao nhất so với các phương pháp khác (Wamatu và King' oro, 1993). Ở Ấn Độ, phưong pháp ghép đơn giản nhất và thực tiễn nhất là ghép nêm chẻ được áp dụng rộng rãi ở các nông trường cà phê. Kỹ thuật này được trình bày chi tiết dưới đây. Vật liệu ghép + Dụng cụ ghép Cưa tay, kéo cắt cành và dao ghép. Cưa tay được sử dụng để cưa gốc ghép. Kéo cắt cành được dùng để loại bỏ các chồi vượt không cần thiết mọc từ gốc đã cưa và dao ghép được dùng để tạo nêm ở chồi ghép và vết chẻ trên gốc ghép. Ngoài ra có một số vật liệu khác như dây nilon, túi nilon dùng để cột và che phủ lên cây sau ghép. + Khử trùng dao ghép Trước khi dùng dao ghép cần được khử trùng bằng cồn. Vì quá trình ghép được thực hiện trong mùa mưa, cây và cành mang rất nhiều bào tử nấm có thể ảnh hưởng đến bề mặt vết cắt của chồi và gốc ghép nếu không tuân thủ biện pháp giữ vệ sinh. + Tạo nêm và vết chẻ Có 2 loại gỗ được sử dụng cho ghép ngoài đồng đối với cà phê, đó là chồi ghép có gỗ mềm và gỗ nửa cứng. Chồi lấy từ cây non khoẻ mạnh cho kết quả ghép tốt hơn cây già. Chồi vượt > 6 tháng tuổi có màu nâu không thích hợp cho ghép vì cho tỉ lệ thành công thấp. Chồi vượt được cắt thành những đoạn cành có 1 đốt, có 2 cành ngang ở nách lá, giữ lại một diện tích là còn một nửa hay 1/3. Dạng khác của chồi ghép là chồi đỉnh có diện tích lá giảm đi 1/2 hay 1/3 kích thước. Chồi ghép nửa cứng cho tỉ lệ ghép tốt hơn trong mùa mưa. Sau khi tạo hình ở cổ rễ, những chồi mới nảy nở và sẵn sàng cho ghép trong tháng 6 - 7. Chỉ giữ lại 2 chồi khoẻ ở vị trí giữa của gốc ghép còn những chồi khác được vặt đi. Để tạo một vết chẻ trên gốc ghép, chọn 2 chồi khoẻ trên cây cưa được cắt ngang phía dưới của đốt đầu tiên ở độ cao 5-10 cm và chẻ một đường dọc từ trên xuống ở giữa gốc ghép. ở Kenya, sự để lại lá hoặc ngay cả cặp cành ngang trên chồi gốc ghép phía dưới vết ghép giúp tăng cao tỉ lệ ghép thành công (Cramer, 1957). Một chồi vượt nửa cứng, khoẻ mạnh có đường kính bằng cây bút chì được thu từ cây được đánh dấu là xuất sắc và một cành giâm có một đốt được chuẩn bị làm chồi ghép. Để tạo nêm người ta dùng một dao sắc tạo hai vết cắt xiên ở phần thấp hơn của cành giâm một đốt. Lá được cắt đi để lại 1/2-1/3 diện tích lá nhằm ngăn chặn sự thoát hơi nước quá mức thông qua hoạt động hô hấp. + Đặt nêm vào trong vết chẻ Phần nêm của chồi ghép được đặt vào trong vết chẻ của gốc ghép với sự ép nhẹ từ trên xuống và được buộc chặt bằng một dây polythene rộng 1-1,5 cm và chiều dài thích hợp. Cần cẩn thận trong khi quấn dây polythene lên cây ghép nhằm tránh nước mưa xâm nhập có thể gây thối cây ghép. + Che phủ cây ghép Lúc ghép, nếu thời tiết tiếp tục sáng sủa, các cây ghép nên được che phủ bằng những bao polythene không khoan lỗ (kích thước 8 " x 5 ") để bảo đảm thành công tốt hơn và bảo vệ chúng khỏi bị mặt trời đốt cháy. Trong khi che phủ, bề mặt bên trong của túi polythene được phun nước và được che phủ phía trên cành ghép để giữ ẩm bên trong. Phun nước bằng bình phun sương là rất tốt để đảm bảo thành công tốt hơn. Ở Kenya, túi polythen màu sữa được sử dụng cho tỉ lệ ghép thành công cao hơn. Một que được chèn vào bên trong phía trên cây ghép và đầu thấp hơn của ở cổ rễ được cột chặt lại và giữ ẩm, sau đó phần phía trên hơn của vết ghép cũng được cột lại bằng cách dùng một que chống cho gốc ghép được ghép phía bên. Người ta tuân theo qui trình này để tạo ẩm độ thích hợp giúp ghép thành công tốt hơn (Van der Vossen, 1977). + Tháo bỏ dây polythene Sau ghép 1 tháng, một vài chồi mới phát sinh từ chồi ghép, cho biết việc ghép đã thành công. Dây buộc polythene nên được tháo ra sau ghép 45- 60 ngày để tạo điều kiện cho cây ghép phát triển. Việc chậm bỏ dây buộc gây một thắt eo cho cây ghép, dẫn đến gãy chồi ghép ở phần bị thắt eo. Thành công này phụ thuộc vào sự thành thạo của người ghép, điều kiện môi trường, tình trạng sinh lý, sinh hóa của gốc ghép và chồi ghép, cũng như là đặc tính của cây được sử dụng. Tuy nhiên, ở Kenya, tỉ lệ sống đạt 85% ở những cây ghép có chụp bao plastic và được che chắn bởi giấy màu nâu (Van der Vossen, 1977). Sau khi sự hợp nhất đã xảy ra, thông thường có 2 chồi vượt được phát sinh từ phần đốt của chồi ghép, trong đó một chồi mọc nhanh hơn và một chồi mọc chậm. Chồi mọc khoẻ được giữ lại, chồi yếu hơn được vặt đi. Sức sống và khả năng phát chồi mới phụ thuộc vào kích thước và tuổi của gốc ghép cũng như mùa ghép. + Những yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công của việc ghép - Sự tương hợp, dạng cây, nhiệt độ, ẩm độ, điều kiện Oxy, sự hành thạo của người ghép,kỹ thuật ghép, sức khoẻ của gốc ghép và chồi ghép, tuổi của chồi ghép và gốc ghép, tình trạng sinh lý và sinh hóa, đặc điểm thực vật của gốc ghép và chồi ghép + Tính tương hợp (compatibility) là khả năng của hai cây khác nhau, được ghép chung, tạo ra được sự tiếp hợp thành công tốt và về sau phát triển tốt thành một cây hỗn hợp hoàn chỉnh. Dĩ nhiên, hiện tượng ngược lại thì gọi là tính không hợp (incompatibility), giữa một tiếp hợp ghép hợp với không hợp không có ranh giới rõ rệt. Một mặt, gốc và chồi ghép của những cây quan hệ gần dễ dàng kết hợp và mọc thành một cây. Mặt khác, gốc và chồi của hai cây không có quan hệ ghép chung thì hầu như hoàn toàn không kết hợp. Nhiều phối hợp ghép nằm giữa hai thái cực này, trong đó thoạt đầu chúng có tiếp hợp, thành công thấy rõ, nhưng dần dần bộc lộ những triệu chứng suy thoái theo thời gian, do tiếp hợp bị hư hỏng hoặc xuất hiện kiểu sinh trưởng bất thường. + Triệu chứng của sự ghép không tương hợp. Sự tiếp hợp không tốt nơi ghép do sự không hợp thường luôn có đi kèm với một số triệu chứng bên ngoài. Dưới đây là các triệu chứng đi kèm với các tổ hợp ghép không phù hợp: - Không thành lập được sự hợp nhất trong khi ghép. - Tỉ lệ ghép thành công thấp. - Cây ghép chết ngay cả sau khi sự hợp nhất đã xảy ra. - Lá vàng và rụng trong giai đoạn chưa thành thục. - Triệu chứng thiếu dinh dưỡng. - Sinh trưởng tốt hay xấu ở phía trên và dưới vết ghép. - Tạo những khối u (sưng phồng quá mức) ở vết ghép. - Gãy cây ở vết ghép. + Các lý do của sự không tương hợp - Kỹ thuật ghép có lỗi. - Không thành thạo trong thao tác ghép. - Sự khác biệt về đặc điểm thực vật của cành và gốc ghép. - Sự khác biệt về tình trạng sinh học của cành và gốc ghép. - Sự khác biệt về cấu trúc gen của cành và gốc ghép. - Tuổi của gốc ghép. + Sự hình thành vùng tiếp hợp ghép Tóm tắt các bước trong chuỗi sự kiện làm lành vết ghép như sau: - Xếp thẳng tượng tầng: Mô chồi ghép vừa mới bị cắt có khả năng hoạt động phân sinh được cho dính chặt và an toàn với mô gốc ghép cũng vừa mới bị cắt sao cho vùng tượng tầng của cả hai thật gần khít với nhau. Điều kiện nhiệt độ và ẩm độ phải phù hợp để thúc đẩy hoạt động sinh trưởng trong các tế bào vừa mới tiếp xúc và các tế bào xung quanh. - Phản ứng lành vết thương: Từ vách và các chất nội bào của các tế bào bị cắt của chồi và gốc ghép hình thành chất hoại tử. - Hình thành cầu sẹo: Các tầng tế bào không bị thương và nằm bên ngoài ở vùng tượng tầng của cả gốc và chồi ghép tạo ra các tế bào nhu mô nhanh chóng trộn lẫn và gắn chặt vào nhau, lấp đầy khoảng trống giữa chồi và gốc ghép; đây được gọi là mô sẹo. - Hình thành tượng tầng: Một số tế bào của sẹo mới hình thành nằm ngay hàng với tượng tầng cũ của chồi và gốc ghép phân hóa thành các tế bào tượng tầng mới. - Hình thành mô mạch dẫn: Các tế bào tượng tầng mới này tạo ra các mô mạch dẫn mới, về phía trong là mạch gỗ, còn phía ngoài là mạch libe, nhờ đó hình thành sự nối liền mạch dẫn thứ cấp giữa chồi và gốc ghép, một điều kiện bắt buộc phải xảy ra để cho sự tiếp hợp ghép được thành công. Quá trình lành vết ghép có thể coi như lành một vết thương. Loại thương tích đối với mô như xảy ra khi chẻ dọc cành sẽ nhanh chóng lành nếu hai mảnh chẻ được buộc chặt lại với nhau. Sẽ tạo ra các tế bào nhu mô mới nhờ các tế bào vùng tượng tầng của cả hai mảnh sinh sôi nhiều, hình thành mô sẹo. Một số tế bào nhu mô mới tạo ra phân hóa thành các tế bào tượng tầng, các tế bào tượng tầng sau đó tạo ra mạch libe và mạch gỗ. Giữa hai mảnh chẻ, nếu người ta chèn vào một mảnh thân thứ 3 đã rời khỏi cây mẹ và được cắt sao cho phần lớn các tế bào tượng tầng có thể được đặt dính khít với tế bào tượng tầng của hai mảnh chẻ kia, thì sự sinh sôi của các tế bào nhu mô ở tất cả các vùng tượng tầng sẽ nhanh chóng làm vết thương lành hoàn toàn và mảnh cây rời từ bên ngoài chèn vào được nối hoàn toàn giữa hai mảnh chẻ ban đầu. Tiếp hợp ghép chính là một vết thương được lành, với một mảnh mô lạ từ bên ngoài đưa vào gắn chặt qua vết thương đã lành. Tuy nhiên, mảnh mô được thêm vào, là phần chồi ghép, sẽ không tiếp tục sinh trưởng thành công, trừ khi sự nối mạch dẫn có xảy ra để cho chồi ghép có thể lấy được nước và dinh dưỡng khoáng. Ngoài ra, chồi ghép phải có vùng phân sinh ngọn - 1 mầm - để chồi tiếp tục sinh trưởng, và sau cùng cung cấp chất quang hợp cho hệ rễ. Trong quá trình lành vết ghép, các bộ phận ghép trước đó được chuẩn bị và lắp đặt dính chặt với nhau, bản thân chúng không tự vận động hoặc tự sinh trưởng chung. Sự tiếp hợp chỉ hoàn tất nhờ các tế bào phát triển sau khi thực hiện công đoạn ghép thực sự. Ngoài ra, xin nhấn mạnh: trong tiếp hợp ghép không xảy ra sự trộn lẫn của vật chất bên trong tế bào (nghĩa là hòa lẫn vật chất bên trong tế bào hay nguyên sinh chất). Các tế bào do gốc ghép và chồi ghép tạo ra đều duy trì đặc điểm riêng của gốc và chồi. Xem xét chi tiết hơn các bước có liên quan tới lành vết ghép chúng ta có thể nói rằng điểm đầu tiên liệt kê dưới đây là một bước sơ bộ nhưng lại là quan trọng và là bước mà người nhân giống có thể kiểm soát. - Tạo sự tiếp xúc chặt cho phần lớn vùng tượng tầng của gốc và chồi ghép trong điều kiện môi trường phù hợp. Cần có điều kiện nhiệt độ gây hoạt động tế bào. Thường thường nhiệt độ: 12.80C - 320C (55-90oF), tùy loài cây, dẫn tới sinh trưởng nhanh. Do đó nếu ghép ngoài trời thì nên ghép khi trong năm có nhiệt độ thích hợp và khi mô cây, nhất là tượng tầng, nằm trong trạng thái hoạt động tích cực tự nhiên. Nói chung các điều kiện này thường xẩy ra trong các tháng mùa xuân. Dĩ nhiên nếu ghép trong nhà kính và có bàn ghép thì có thể khống chế nhiệt độ, cho phép có kết quả tốt hơn và ghép dàn trải trong thời gian lâu hơn. Mô sẹo mới hình thành từ vùng tượng tầng gồm các tế bào có vách mỏng và mọng nước, dễ bị khô nước và chết. Quan trọng là phải giữ ẩm độ không khí quanh vùng tiếp hợp ghép ở mức cao để tạo các tế bào nhu mô được thuận lợi. Do đó cần phải buộc kín hay bôi sáp kín hoàn toàn cho vùng vết ghép hoặc là đặt phần gốc ghép trong môi trường ẩm để duy trì mức trương nước cao của tế bào. Yếu tố cũng quan trọng nữa là phần tiếp hợp ghép phải giữ không bị vi sinh vật gây bệnh. Trong điều kiện ẩm độ và nhiệt độ tương đối cao, thuận lợi cho vi khuẩn và nấm phát triển, các tế bào nhu mô vách mỏng dễ bị bệnh và rất khó tiếp hợp tốt. Bao bọc, che nhất thời cho vùng ghép giúp ngăn chặn nhiễm bệnh. Nhất thiết phải dùng cách gì đó để giữ chặt chung cho cả hai thành phần ghép ban đầu, như quấn, buộc, chốt đinh, hoặc nêm chặt, sao cho các bộ phận không bị lay động làm bật các tế bào nhu mô đang đan vào nhau sau khi bắt đầu sinh sôi nhiều. Người ta thường nói để ghép thành công thì các tượng tầng của gốc và chồi ghép phải phù hợp nhau về kích thước. Đó là mong muốn cần đạt nhưng chưa chắc có sự phù hợp hoàn toàn của hai lớp tượng tầng. Thực vậy, điều cần thiết duy nhất là các vùng tượng tầng phải đủ gần nhau để cho các tế bào nhu mô từ cả gốc lẫn chồi ghép được tạo ra trong vùng này có thể đan vào nhau. Các lớp tượng tầng của gốc và chồi ghép hơi chồng lên bảo đảm cho sẹo đan vào nhau. Chính trong vùng tượng tầng sự tạo sẹo xảy ra mạnh nhất. Hai tượng tầng không khớp nhau có thể làm chậm tiếp hợp, nếu hoàn toàn không khớp nhau thì tiếp hợp không xảy ra. Khi nghiên cứu ghép cây 1 lá mầm, nhận thấy tượng tầng không nhất thiết cần phải có để tiếp hợp thành công, mà miễn là có bất kể mô phân sinh nào có thể tạo sẹo và dẫn tới hình thành chỗ tiếp hợp giữa gốc và chồi. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống và kỹ thuật ghép chồi thay thế trên thế giới và Việt Nam. Để khắc phục, hạn chế những tồn tại của chủng cà phê vối trong sản xuất, các nhà khoa học cũng như các nước trồng cà phê luôn không ngừng chọn tạo nhằm cải tiến giống cà phê vối thông qua việc chọn tạo giống và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tình hình nghiên cứu chọn giống và kỹ thuật ghép chồi thay thế trên thế giới Chọn lọc dòng vô tính được tiến hành ở nhiền nước trên thế giới như: Indonesia (Ferwarda, 1969) và các nước cộng hòa Trung Phi (Dublin, 1967), Côte d’Ivoire (Capot, 1977), Togo (Agbodian & Berttand, 1987), Cameroom (Bouharmont & Awemo, 1980) Kết quả đã chọn được nhiều dòng vô tính năng suất cao như: Cộng hòa Trung Phi đã chọn được 10 dòng năng suất trên 2 tấn nhân/ha, Cameroom đã chọn được 9 dòng năng suất trên 2 tấn/ha, Uganda đã chọn được 10 dòng có năng suất khoảng 2,3 – 3,5 tấn/ha, Togo có 5 dòng năng suất từ 2,1 – 3 tấn/ha. Tại Indonesia, Madagasca và Ấn Độ ghép được sử dụng để phục hồi các vườn cà phê vối có năng suất thấp, chất lượng kém. Ghép đã được áp dụng từ khá lâu trên cây cà phê. Ngay từ năm 1888, nhà làm vườn ở Java là G.van Riemsdik đã áp dụng ghép chẻ hông chồi cà phê chè lên cà phê dâu da (Liberica) với ý định làm tăng tính kháng gỉ sắt của cây cà phê chè. Mặc dù kỹ thuật ghép được cải tiến dần cho tỷ lệ sống cao nhưng không làm tăng tính kháng gỉ sắt, sau đó chỉ được áp dụng rải rác trên một số vườn cà phê kinh doanh để ghép chồi có năng suất cao lên gốc ghép cho năng suất thấp [3]. Ở Ấn Độ, vào thời kỳ 1890, kỹ thuật ghép cà phê cũng đã được quan tâm tại Labagh, Bangalore bằng cách dùng chồi cà phê chè ghép lên gốc cà phê mít, chồi cà phê mít ghép lên cà phê chè và cà phê chè ghép lên gốc cà phê chè. Vào năm 1917, tại Uganda, Maitland đã ghép chồi cà phê chè, cà phê dâu da, cà phê mít trên gốc cà phê vối nhưng gốc ghép mọc không tốt nên không chú ý phát triển. Tới 1930, Snowden lại ứng dụng ghép chẻ cà phê chè và cà phê vối lên các gốc cà phê vối, dâu da và cà phê mít để trồng các vườn sản xuất hạt giống. Kết quả cho thấy tất cả các loại gốc ghép đều phù hợp cao với cà phê vối và cà phê chè hơn là trên gốc dâu da. Vào năm 1928 các nghiên cứu về ghép cà phê mới được tiến hành lại và sử dụng nhiều vật liệu gốc ghép và chồi ghép ở Bangalore. Hiện nay, phương pháp ghép chồi nối ngọn được áp dụng rộng rãi ở các trạm nghiên cứu cà phê và các đồn điền ở nhiều vùng cà phê trên thế giới. Năm 1993 Ramchadran và cộng sự đã nghiên cứu ghép ngọn thành công đối với chủng Cv.Cauvery trên gốc ghép cà phê vối, các nghiên cứu về ghép chồi Catimor lên gốc ghép Robusta, Arabusta. Năm 1999 Anvilkumar và Srinivasanddax mô tả chi tiết phương pháp nối ngọn để phục vụ cho việc ứng dụng trong thực tiễn sản xuất. Về tỷ lệ thành công của phương pháp ghép: trong điều kiện Kenya, các nghiên cứu của Vandervossen đã ghi nhận được tỷ lệ thành công 80 – 90%. Ngoài việc ghép để phục hồi các vườn cà phê lớn tuổi, trong nghiên cứu chọn giống ghép dùng để rút ngắn chu kỳ chọn lọc và đặc biệt hữu hiệu trong việc thu thập và lưu trữ dòng vô tính trong tập đoàn Costa Rica, Colombia và Brasil Theo kết quả của trạm nghiên cứu cà phê Chikmagalur (Karnataka, Ấn Độ), cây cà phê chè ghép trên gốc cà phê Robusta 60 tuổi sau 2 năm cho 5kg quả chín/cây. Cà phê Arabusta ghép trên gốc cà phê Robusta 20 – 25 năm tuổi, cho năng suất 10 – 15 kg quả/ cây sau 26 tháng ghép. Tại Ấn Độ, theo R.Naidu cây cà phê trồng bằng hạt cần 4 – 5 năm mới cho quả, nhưng với cây ghép trên gốc cà phê lớn chỉ cần 2 – 3 năm sau khi ghép đã cho thu hoạch. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của gốc ghép lên chồi ghép cho thấy: quan hệ giữa chồi ghép và gốc ghép rất phức tạp. Gốc ghép có thể ảnh hưởng đến sinh trưởng của chồi ghép và ngược lại. Những công trình nghiên cứu trên thế giới và ở trong nước đã chứng minh: gốc ghép có ảnh hưởng đến đường kính gốc, chiều dài cành, song không có ảnh hưởng rõ ràng đến chất lượng cà phê tách. Gốc ghép không ảnh hưởng đến chất lượng và phẩm vị nước uống vốn có của cây ghép. Sự không tương hợp giữa gốc ghép và chồi ghép đã được ghi nhận khi ghép cà phê và được thể hiện bằng các dấu hiệu: cây ghép sinh trưởng kém, ít cành thứ cấp, nhiều cành bị khô. Tuy nhiên hiện tượng này chỉ chiếm khoảng 2% của số cây ghép. Để khắc phục hiện tượng này có thể tiến hành ghép lại với một hay nhiều dòng vô tính khác trên gốc ghép cũ. Gốc ghép cà phê có tính kháng rất được ưa chuộng ở những vùng trồng cà phê có dịch bệnh hại rễ nhất là bệnh tuyến trùng thường xảy ra nghiêm trọng ở những vùng trồng cà phê lâu đời. Những đồn điền ở Guatemala và những vùng khác ở châu Mỹ la tinh hầu như phát triển cà phê chè dựa trên gốc ghép là cà phê vối để lợi dụng tính kháng bệnh rễ ở cà phê vối và chất lượng tốt ở cà phê chè. Ở Kenya, 80% diện tích cà phê bị tuyến trùng hại rễ đã làm mất 60% năng suất. Bằng việc sử dụng gốc ghép kháng bệnh như Coffea dewvrei đã sản xuất được hàng loạt cây giống kháng bệnh để trồng thay thế và mang lại hiệu quả kinh tế cao (Serracin, 1999). Trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM – Integated Pest Management) trên cây cà phê thì ghép là một kỹ thuật có giá trị để tạo ra những cây giống kháng bệnh mà ở Kenya, Brazil, Colombia đã làm đối với cà phê chè. Trong nghiên cứu chọn giống, kỹ thuật ghép được dùng trong nghề trồng cây ăn quả đều được áp dụng thử trên cây cà phê và cho các kết quả khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp ghép chồi chẻ ngối ngọn được coi là phù hợp hơn cả so với các phương pháp ghép khác. Các chỉ dẫn ghép chẻ nối ngọn trước đây thường làm trên gốc lớn 8 – 12 tháng tuổi, chồi ghép mang 2 – 3 cặp lá, tỷ lệ sống thường dưới 60% thậm chí tại Madagasca, ghép khác loài giữa cà phê vối trên cà phê mít thì tỷ lệ sống đạt 15%. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống và kỹ thuật ghép chồi thay thế ở Việt Nam. Cà phê vối ở Việt Nam có nguồn gốc ban đầu từ Java trong nhưng thập kỷ đầu của thế kỷ 20 và sau đó được du nhập thêm vào từ Cộng hòa trung Phi trong những năm 1955 – 1960. Cà phê vối đã có Việt Nam từ thời Pháp thuộc nhưng chưa có chương trình nghiên cứu chọn lọc. Để tạo được các dòng vô tính làm vật liệu để ghép là cả một quá trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ta liên tục trong những năm 1960 đến nay. Năm 1960 – 1964, trạm thực nghiệm Tây Hiếu đã bình tuyển cây đầu dòng cà phê vối năng suất cao và đã tiến hành nhiều thí nghiệm giâm cành, ghép nhưng sau đó chương trình khoa học không được tiếp tục. Năm 1980 – 1985, Viện nghiên cứu cà phê bắt đầu công việc bình tuyển cây đầu dòng ở các vườn trong sản xuất. Triển khai các thí nghiệm khảo sát vườn tập đoàn, so sánh đời con và so sánh dòng vô tính mở đầu cho công tác chọn tạo giống giai đoạn I. Trong giai đoạn I tiêu chuẩn chọn lọc chú trọng về năng suất, kích cở hạt trung bình, trọng lượng 100 nhân > 13gr, tỷ lệ hạt trên sàng 16 (6,3 mm) chiếm 40%. Năm 1990 – 1995 tiếp tục triển khai các thí nghiệm khu vực hóa và đã phóng thích ra sản xuất 3 dòng vô tính chọn lọc, các dòng vô tính này đã được công nhận là giống quốc gia, có năng suất từ 2,8 – 5,9 tấn nhân/ha, cở hạt trong bình lớn, trong lượng 100 nhân 14,1 – 15,7 gr và bệnh gỉ sắt ở mức độ nhẹ. Năm 1995 – 2002 viện KHKTNLN Tây Nguyên đã bắt đầu giai đoạn II chương trình cải tạo giống cà phê vối theo hướng nâng cao chất lượng cà phê thương phẩm. Tiếp tục triển khai khảo sát các thí nghiệm so sánh các đời con thụ phấn tự do. Triển khai các thí nghiệm khu vực hóa, tiếp tục theo dõi để phóng thích, sản xuất những DVT chọn lọc để làm nguyên liệu ghép, tiến tới lập vườn sản xuất hạt lai đa dòng [2]. Tại Việt Nam hàng loạt các thí nghiệm có hệ thống trên cây con và trong vườn ươm đã được thực hiện tại Viện nghiên cứu cà phê vào những năm 1994 – 1996, phương pháp ghép chẻ nối ngọn được cải tiến thành công với tỉ lệ sống trong vườn ươm đạt trên 95%. Năm 2002 – 2005 Viện KHKTNLN Tây Nguyên tiếp tục đánh giá các DVT chọn lọc tại địa phương, khảo nghiệm sản xuất thử, mở rộng diện tích nghiên cứu các mô hình khảo nghiệm thay thế giống xấu bằng biện pháp ghép cải tạo các vườn cà phê năng suất thấp, chất lượng hạt kém và từng bước hoàn thiện quy trình kỹ thuật ghép cải tạo ngoài đồng ruộng [2]. Công nghệ ghép cải tạo cải tạo cà phê bằng phương pháp nối ngọn đã được Viện KHKTNLN Tây Nguyên nghiên cứu và đã được hội đồng Khoa học Công nghệ bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật cho phép áp dụng vào sản xuất. Việc áp dụng công nghệ ghép nhằm cải tạo vườn cà phê năng suất thấp, chất lượng hạt kém đã được triển khai rộng rãi tại các tỉnh Đăk Lăk, Gia Lai, Kom Tum từ năm 2000 đến nay. Công nghệ này cũng đã được Viện KHKTNLN Tây Nguyên và Trung tâm nghiên cứu chuyển giao công nghệ Nông – Lâm nghiệp Eakmat tập huấn, đào tạo và chuyển giao cho các đơn vị, nông trường và hộ nông dân trông cà phê tại các địa phương vào những năm 1999 – 2003. Phương pháp ghép non nối ngọn để cải tạo cây xấu trên vườn cà phê vối kinh doanh bằng các DVT chọn lọc cà phê kinh doanh cũng đã được Viện nghiên cứu cà phê tiến hành. Kết quả đã khẳng định cây cà phê ghép cải tạo ngoài đồng ruộng có tốc độ sinh trưởng nhanh hơn so với trồng bằng hạt, mau cho quả, năng suất cao, chất lượng hạt được cải thiện và kháng cao với bệnh gỉ sắt. Kỹ thuật ghép chồi thay thế hay còn gọi là ghép chồi nối ngọn đối với cây cà phê đã được các nước trồng cà phê trên thế giới áp dụng trong sản xuất từ lâu. Đến nay kỹ thuật này đã trở thành công nghệ ghép, không chỉ ghép cải tạo trên vườn cà phê kinh doanh mà còn áp dụng ghép cây cà phê ươm bằng hạt ở giai đoạn vườn ươm. Hiện nay kỹ thuật ghép non nối ngọn đã có bước tiến đáng kể là không sử dụng bao chụp chồi sau ghép và để trần hay còn gọi là ghép trần (không chụp). Ưu điểm của phương pháp này là có thể ghép vào mùa khô và tỷ lệ sống rất cao, vì vậy đã giảm được giá thành cây ghép [2]. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nội dung: Điều tra đánh giá hiện trạng của những vườn cà phê cưa ghép cải tạo Khảo sát sinh trưởng, năng xuất và đánh giá hiệu quả kinh tế của 5 dòng vô tính cà phê vối ưu tú đã được công nhận: TR4, TR5, TR6, TR7, TR8 tại 2 địa bàn khảo nghiệm Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu. Năm DVT chọn lọc đã được Bộ NN&PTNT công nhận là giống chính thức và cho phép ứng dụng các giống này trên các vùng trồng cà phê vối ở các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2006 Bảng 3.1: Đặc điểm của 5 dòng vô tính chọn lọc STT DVT Năng suất (Tấn nhân/ha) TL 100 nhân (g) Hạt trên sàng 16 (%) Tỉ lệ T/N Hàm lượng Caffeine (g/100g chất khô) CSB 1 2 3 4 5 TR4(Ng.13/8) TR5(Th 2/3) TR6 (A41/20) TR7 (N.17/2) TR8 (Ng.14/8) 7,3 5,3 5,6 4,5 4,2 17,1 20,6 17,5 17,5 17,6 70,9 90,5 75,0 72,8 68,4 4,1 4,7 4,3 4,4 4,6 1,69 1,58 1,95 1,85 1,57 0,1 0,0 0,0 0,1 0,3 TB 5,4 18,1 75,5 4,4 1,73 0,1 Địa điểm nghiên cứu: Địa điểm: Krông Păk, Krông Buk (Đăk Lăk) Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 05/04/2010 đến ngày 28/06/2010 Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra Sử dụng phương pháp điều tra nhanh nông thôn (RRA) phỏng vấn trực tiếp hộ nông dân Các chỉ tiêu theo dõi * Các chỉ tiêu sinh trưởng Đo sinh trưởng sau ghép 36 tháng: - Đo đường kính thân (cm): đo cách vết ghép 2 - 3 cm, dùng thước kẹp đo đường kính hai lần vuông góc nhau, rồi tính trị số trung bình. - Chiều cao cây: dùng thước dây đo từ vết ghép đến đỉnh sinh trưởng ngọn của cây. - Số cặp cành cơ bản (cành cấp 1): được tính bằng cách đếm toàn bộ số cặp cành mọc trên thân chính. - Chiều dài cành cấp 1 (cm): bằng cách đo chiều dài của 4 cành nằm ở phần giữa thân cây và được phân bố theo 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, rồi tính chiều dài trung bình của mỗi cành cấp 1. - Số đốt trên cành được tính bằng cách đếm số đốt trên bốn cành đã đo chiều dài, rồi tính số đốt trung bình trên mỗi cành. * Các chỉ tiêu cấu thành năng suất Số cành mang quả/cây, số đốt mang quả/cành, số quả/đốt: Quan trắc trên những cây theo dõi sinh trưởng bằng cách đếm từ đó tính ra năng suất lý thuyết và tính năng suất trên ha. * Các chỉ tiêu phẩm chất quả hạt (kế thừa) Cách lấy mẫu: Lấy mẫu từng dòng vô tính, mỗi dòng lấy 1 mẫu/ lần nhắc, lấy mẫu trong 2 năm liền, rồi tính trung bình cho từng chỉ tiêu của mỗi dòng vô tính. - Tỷ lệ quả tươi/nhân: Được tính từ 1,5 kg quả tươi để có tỉ lệ nhân tương ứng ở độ ẩm 13% (ẩm độ cà phê nhân được xác định theo tiêu chuẩn Việt Nam - TCVN 5701 : 1993). - Trọng l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo Vinh.doc
  • docmuc luc.doc