MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 7
1.1. Một số vấn đề chung về công chức thanh tra và đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp 7
1.2. Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp 35
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM 52
2.1. Thực trạng đội ngũ công chức thanh tra tư pháp 52
2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp 73
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 80
3.1. Quan điểm đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp 80
3.2. Các giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành tư pháp 82
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
102 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3245 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Những vấn đề khiếu kiện hiện nay của nhân dân với các cơ quan Nhà nước nổi lên rất nhiều: từ quản lý, sử dụng đất đai, thu chi ngân sách ở địa phương, giải quyết các chế độ, chính sách, huy động và sử dụng các khoản đóng góp của dân... Đó cũng là những vấn đề đòi hỏi người cán bộ thanh tra phải có bản lĩnh, năng lực, có tác phong gần gũi, lắng nghe ý kiến của quần chúng;
- Tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân; không quan liêu, hách dịch cửa quyền, sách nhiễu gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc;
- Có tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc; biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp và những người xung quanh; có lối sống giản dị, không bê tha đoàn kết, chân tình với đồng nghiệp, đồng sự. Gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tín nhiệm. Phấn đấu trở thành một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng thì cán bộ thanh tra phải luôn rèn luyện và trau dồi đạo đức cách mạng của người cán bộ thanh tra như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “cán bộ thanh tra phải cố gắng học tập, học cái hay, tránh cái dở, trau dồi đạo đức Cách mạng, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nghiệp vụ và trình độ chuyên môn để làm việc cho tốt” [6].
Từ những trình bày trên cho thấy, vấn đề nâng cao đạo đức, lối sống, năng lực hoạt động cho mỗi cán bộ thanh tra là một trong những yêu cầu cấp bách, một nhiệm vụ đặc biệt vừa có tính cấp thiết trước mắt, vừa mang tính thường xuyên, cơ bản lâu dài, góy phần vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của nước ta và nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra nói chung và thanh tra ngành Tư pháp nói riêng.
Thứ ba: trình độ đào tạo
Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương đảng lần thứ ba khoá VIII đã xác định nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: “ lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ xác định quá trình đào tạo, bồi dưỡng thống nhất trong hệ thống các trường. Nội dung bồi dưỡng phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu đối với từng loại cán bộ; chú trọng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, cả lý luận và thực tiễn, bồi dưỡng cả kiến thức cơ bản và hướng dẫn kỹ năng thực hành”. Để quán triệt tinh thần Nghị quyết, thanh tra Chính phủ và thanh tra các bộ, ngành đã xây dựng chương hành động cụ thể và cụ thể hoá bằng việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, xây dựng chiến lược về cán bộ thanh tra với mục tiêu chung là: “trang bị kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và quản lý nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa, tận tuỵ với công vụ; có trình độ quản lý tốt đáp ứng yêu cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý Nhà nước”.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo tiêu chuẩn của từng ngạch công chức và chức danh cán bộ quản lý đã được Nhà nước ban hành nhằm khắc phục cơ bản những khiếm khuyết, hẫng hụt hiện nay để thực thi công vụ, bảo đảm yêu cầu công việc và đào tạo nguồn nhân lực thường xuyên cho các cơ quan Nhà nước bao gồm thi tuyển công chức, đào tạo tiền công vụ, đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm nâng ngạch, bậc công chức [35].
Đối với đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra ngành Tư pháp hiện nay thì việc đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ là cần thiết và cấp bách. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức thanh tra là một vấn đề lớn, gồm nhiều nội dung: quan điểm, lập trường, phẩm chất đạo đức, tính trung thực, khách quan của người cán bộ thanh tra, về tài chính - kế toán, về xây dựng cơ bản, trình độ, phương pháp thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Muốn nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thì việc phân loại theo đối tượng để đào tạo, bồi dưỡng là một nhiệm vụ quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng.
* Đối với thanh tra viên ngành Tư pháp:
Nhiệm vụ cụ thể: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo; Trực tiếp thực hiện hoặc tổ chức việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị hữu quan và phân công các thành viên trong đoàn tiến hành thu thập chứng cứ, hồ sơ có liên quan đến việc thanh tra, xét khiếu nai, tố cáo. Lập biên bản và viết báo cáo kết luận rõ đúng, sai, nguyên nhân, trách nhiệm, kiến nghị biện pháp giải quyết, chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình; Tạm đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình đồng thời báo cáo ngay cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện phần việc được giao, bàn giao hồ sơ, tài liệu của cuộc thanh tra theo quy định của cấp có thẩm quyền.
Hiểu biết: Nắm được chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, để vận dụng vào hoạt động thanh tra; Nắm được nguyên tắc, chế độ, thể lệ trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, quản lý Nhà nước, có kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành; am hiểu tình hình kinh tế - xã hội; nắm chắc quy trình nghiệp vụ thanh tra; có khả năng tổ chức và tập hợp quần chúng để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao; có năng lực phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình hoạt động quản lý ở cấp cơ sở.
Yêu cầu về trình độ đào tạo: Tốt nghiệp đại học, có kiến thức quản lý Nhà nước và kiến thức pháp luật. Nếu là đại học chuyên môn nghiệp vụ hoặc tương đương (đã qua thời gian tập sự) thì phải theo học một lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thanh tra; Qua khoá đào tạo quản lý hành chính Nhà nước ngạch chuyên viên. Biết một ngoại ngữ trình độ A (đọc, hiểu sách chuyên môn ngành Tư pháp và các văn bản thanh tra ngành).
* Đối với thanh tra viên chính ngành Tư pháp:
Nhiệm vụ cụ thể: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền; Trực tiếp thực hiện hoặc tổ chức việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị hữu quan và phân công các thành viên trong đoàn tiến hành thu thập chứng cứ, hồ sơ, tài liệu, có liên quan đến vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo; Lập biên bản và viết báo cáo kết luận rõ đúng sai, nguyên nhân, trách nhiệm, kiến nghị biện pháp giải quyết, chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình; Được đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi tích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình đồng thời báo cáo ngay cơ quan có thẩm quyền giải quyết; Tham gia xây dựng các quy trình nghiệp vụ thanh tra, xét khiếu nại, khiếu tố; Tổ chức tổng hợp, phân tích, tổng kết đúc rút kinh nghiệm trong hoạt động thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo, nghiên cứu đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện về công tác quản lý ngành; Trực tiếp phúc tra các vụ việc do thanh tra viên thực hiện và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết quả phúc tra; Tham gia bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho thanh tra viên.
Hiểu biết: Nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nắm được thực tiễn hoạt động quản lý Nhà nước và quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, đề xuất nội dung cần thanh tra; tổ chức thực hiện có hiệu quả; Nắm vững nguyên tắc, chế độ, thẻ lệ trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội; Có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ ngành theo lĩnh vực được phân công đảm nhận. Hướng dẫn, điều hành được thanh tra viên, cộng tác viên trong đoàn thanh tra; Có năng lực phân tích, tổng hợp, nghiên cứu những vấn đề thuộc phạm vi quản lý của một ngành, một lĩnh vực hoặc một cấp quản lý như: quận, huyện, sở, tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp...; Am hiểu sâu tình hình kinh tế - xã hội;
Yêu cầu về trình độ đào tạo: Tốt nghiệp đại học trở lên, phải ở ngạch thanh tra hoặc chuyên viên tối thiểu là 9 năm; Nếu là đại học chuyên môn nghiệp vụ hoặc tương đương (đã qua thời gian tập sự) thì phải theo học một lớp bồi dưỡng kiến thức cơ bản về nghiệp vụ thanh tra; Qua khoá đào tạo quản lý hành chính Nhà nước ngạch chuyên viên chính. Biết một ngoại ngữ trình độ B (đọc, dịch thông thường, hiểu sách chuyên môn ngành Tư pháp và các văn bản thanh tra của ngành).
* Đối với thanh tra viên cao cấp ngành Tư pháp:
Nhiệm vụ cụ thể: Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện các vụ việc thanh tra, xét khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền được giao; Trực tiếp thực hiện tổ chức việc phối hợp với các cơ quan chức năng thuộc các cấp, các ngành, các đơn vị hữu quan và sử dụng được các cộng tác viên để thu thập, phân tích, thiết lập được hồ sơ, tài liệu chứng cứ rõ ràng, kết luận được việc đúng, sai, tìm ra nguyên nhân, trách nhiệm, kiến nghị biện pháp giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình về việc thanh tra. Phát hiện những sơ hở trong quản lý của các ngành, lĩnh vực hoặc một cấp quản lý để đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về quản lý nhà nước; Được đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân, hoặc gây cản trở đến cuộc thanh tra, chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình đồng thời báo cáo ngay cơ quan có thẩm quyền giải quyết; Chủ trì tổ chức hoặc tham gia xây dựng các quy trình nghiệp vụ về thanh tra, khiếu nại, tố cáo...; Trực tiếp phúc tra vụ việc thuộc thanh tra viên cấp dưới giải quyết và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về kết quả phúc tra; Chủ trì tổ chức được việc tổng kết, đánh giá đúc rút kinh nghiệm về công tác thanh tra Nhà nước và nghiên cứu đề xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung, nhằm hoàn thiện các văn bản pháp luật của Nhà nước về công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo; Chủ trì tổ chức xây dựng nội dung, chương trình và biên soạn các tài liệu để bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho các ngạch thanh tra viên cấp dưới và tham gia giảng dạy cho các lớp theo yêu cầu.
Hiểu biết: Nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong từng thời kỳ; Nắm vững các nguyên tắc, chế độ, thể lệ trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội; Am hiểu sâu rộng về kinh tế - xã hội trong và ngoài nước; Có khả năng phân tích, khái quát, tổng hợp được tình hình hoạt động quản lý của nhiều lĩnh vực; Có khả năng tổ chức và tập hợp các thanh tra viên, thanh tra viên chính, cộng tác viên thanh tra và quần chúng trong quá trình thanh tra.
Yêu cầu về trình độ đào tạo: Tốt nghiệp đại học trở lên, phải ở ngạch thanh tra viên chính hoặc chuyên viên chính tối thiểu là 6 năm; Qua khoá đào tạo về quản lý hành chính Nhà nước ngạch chuyên viên cao cấp của Học viện Hành chính - Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Qua lớp đào tạo bồi dưỡng chính trị cao cấp; Có trình độ ngoại ngữ C (đọc, dịch, nói thông thạo).
Trên thực tế, ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, công chức cần phải có hàng loạt các năng lực sau:
Khả năng ứng xử và giao tiếp: khả năng này đòi hỏi sự tinh tế, linh hoạt và kiến thức cũng như kinh nhiệm xã hội của người công chức. Khả năng này giúp công chức nói chung và công chức thanh tra Tư pháp núi riêng nâng cao sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau trên cơ sở nhận diện và công nhận các giá trị và nhu cầu của các đối tượng giao tiếp. Công nhận và chia sẻ các giá trị và thành tựu của người khác hoàn toàn không phải là việc đơn giản dù giá trị đó là của cấp dưới hay đồng nghiệp, hoặc cấp trên. Đây là cơ sở quan trọng của giao tiếp, xử lý mâu thuẫn và thương lượng. Đối với công chức lãnh đạo thì còn phải có khả năng thuyết phục, khả năng quản lý…
Khả năng thuyết phục: là khả năng làm cho người khác thấy được tính ưu việt, tính hợp lý trong ý tưởng của mình. Có ý tưởng tốt nhưng không thuyết phục được người khác tin và làm theo thì chắc chắn sẽ thất bại. Mô hình các nhà quản lý “lẳng lặng mà làm” không còn chỗ đứng trong môi trường Hội nhập quốc tế.
Khả năng quản lý: khả năng này bao gồm các kỹ năng hoạch định, tổ chức, điều hành cơ quan, và tổ chức công việc cá nhân. Hoạch định là quá trình thiết lập các mục tiêu, xây dựng các chiến lược và kế hoạch để thực hiện các mục tiêu. Trong quá trình này,người công chức lãnh đạo phải dự kiến được các khó khăn, trở ngại, những vấn đề có thể xảy ra và phương án giải quyết. Hoạch định có xa có gần. Xa là tầm nhìn về con đường phát triển của cơ quan, của ngành, của đất nước.
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC VÀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC THANH TRA NGÀNH TƯ PHÁP THEO YÊU CẦU NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC THANH TRA TƯ PHÁP
2.1.1. Lịch sử phát triển của Thanh tra Việt Nam, Thanh tra Tư pháp ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức thanh tra ngành Tư pháp
2.1.1.1. Lịch sử phát triển ngành Thanh tra Việt Nam
Ngành thanh tra Việt Nam kể từ khi thành lập đến nay đã không ngừng phát triển qua các giai đoạn với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Đó là vào giai đoạn 1945 - 1960, thời kỳ giành chính quyền trong cả nước, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi lập lại hoà bình ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước, giai đoạn 1960 - 1990; giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bước đầu xây dựng đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi sướng và lãnh đạo. Ở mỗi giai đoạn, do có sự ngày càng hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức bộ máy nhà nước nhằm quản lý nhà nước ngày càng tốt hơn, cho nên tên gọi và nhiệm vụ của cơ quan thanh tra cũng được thay đổi cho phù hợp. Công tác thanh tra của thanh tra nhà nước đã bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và Chính phủ ở từng giai đoạn để có phương thức hoạt động phù hợp, từng giai đoạn hoạt động có trọng tâm, trọng điểm phục vụ cho quản lý nhà nước ngày càng có hiệu quả.
* Giai đoạn 1945 - 1960:
a) Ban thanh tra đặc biệt
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64-SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, là tổ chức tiền thân của ngành thanh tra Việt Nam ngày nay. Tại Điều 2 của Sắc lệnh số 64 - Sắc lệnh quy định Ban thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ và quyền hạn như sau: “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân, điều tra, hội chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát, đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biệt xét xử, tịch biên hoặc liêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập 1 hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt, Ban thanh tra có thể truy tố cả các vụ đã xảy ra trước ngày tuyên bố Sắc lệnh này” (Điều 2 Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945). Đây cũng là những nét đặc trưng nhất của hoạt động thanh tra trong thời kỳ đầu của Cách mạng nước ta của Ban thanh tra đặc biệt. Hoạt động của Ban thanh tra đặc biệt trong một thời gian ngắn đã đem lại hiệu quả to lớn góp phần vào việc giữ nghiêm kỷ cương phép nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào chính quyền Cách mạng. Ban thanh tra đặc biệt đã góp phần làm yên lòng dân của buổi ban đầu giữ vững chính quyền cách mạng và góp sức đề cao kỷ cương phép nước.
b) Ban thanh tra chính phủ.
Ngày 18/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138B thành lập Ban thanh tra chính phủ. Theo Sắc lệnh này, Ban thanh tra chính phủ đặt trực thuộc Thủ tướng Chính phủ và có nhiệm vụ: “xem xét sự thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ. Thanh tra các uỷ viên uỷ ban kháng chiến hành chính và viên chức về phương diện liêm khiết, thanh tra các sự khiếu nại của nhân dân. Bộ máy giúp Ban thanh tra gọn nhẹ, có một Văn phòng và một số phái viên thanh tra do Nghị định của Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm (Sắc lệnh 138B ngày 18/12/1949). Trong giai đoạn này, tổ chức thanh tra đã tập trung thanh tra việc những chính sách và công tác lớn của Đảng và Chính phủ như: chính sách động viên bán thóc khao quân, chính sách giảm tô, giảm tức, huy động dân công phục vụ tiền tuyến, công tác quản lý tài chính ở Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh, ở Tổng cục chính trị, một số cơ quan hậu cần quân đội, công tác thống nhất quản lý ngân sách, thu hồi các quỹ ở các tỉnh thuộc liên khu Việt Bắc, liên khu IV… chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô báo cáo cho Chính phủ kịp thời chấn chỉnh và đồng thời giúp các cấp lãnh đão địa phương tìm ra những biện pháp tích cực để chống tiêu cực ở các lĩnh vực này.
Với những hoạt động trên thanh tra đã góp phần xứng đáng vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, kết thúc bằng “chín năm làm một Điện Biên” hoà bình được lập lại ở Miền Bắc.
c) Ban thanh tra Trung ương của Chính phủ.
Ngày 28/3/1956, Chủ tịch Hồ Chính Minh ký Sắc lệnh số 261 – Sắc lệnh thành lập Ban thanh tra Trưng ương của Chính phủ. Trong Sắc lệnh quy định Ban thanh trung ương của Chính phủ có nhiệm vụ: “… thanh tra công tác của các bộ, các quan hành chính chuyên môn các cấp, các Đảng của Nhà nước, thanh tra việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản Nhà nước, chống phá hoại, tham ô, lãng phí…Sắc lệnh số 261/ SL ngày 28/3/1956 thời kỳ này miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, cùng miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định Giơ -ne-vơ, thống nhất nước nhà. Thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn này Đảng và Chính phủ đã có một số chủ trương chính sách lớn như: giảm tô, cải cách ruộng đất, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đây là thời kỳ mà thanh tra quản lý chỉ đạo của Chính phủ từng bước mở rộng đến tất cá các lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá, xây dựng, đến tất cả các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, nội dung quản lý ngày càng phong phú, nhưng cũng phức tạp.
Đây là thời kỳ thanh tra góp phần phục vụ có hiệu quả cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, khắc phục trong công cuộc cải tạo, khôi phục phát triển xây dựng kinh tế - văn hoá ở miền Bắc.
* Giai đoạn 1960 - 1990:
a) Uỷ ban thanh tra của Chính phủ
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 18/LCT công bố: “Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Tại Điều 3 của Luật này quy định có 24 bộ và cơ quan ngang Bộ trong đó có Uỷ ban thanh tra của Chính phủ. Ban Thanh tra Chính phủ được đổi tên là Uỷ ban thanh tra của Chính phủ, phương thức và nội dung hoạt động thanh tra cũng được điều chỉnh và củng cố cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Đây là giai đoạn xây dựng bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, dốc sức chi viện miền Nam chống Mỹ xâm lược.
Giai đoạn này, Hội đồng Chính phủ ra Nghị Quyết 164 - CP về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan thanh tra của Nhà nước, trong đó xác định: “ thanh tra là 1 phần công tác quan trọmg trong toàn bộ công tác quản lý bộ máy Nhà nước. Nó có mục đích giúp cơ quan lãnh đạo vừa kiểm tra tính đúng đắn của bản thân sự lãnh đạo của mình, vừa kiểm tra việc chấp hành của các cơ quan thuộc quyền, nhằm tìm ra những biện pháp chỉ đạo và quản lý tốt nhất, bảo đảm cho những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, pháp luật của Nhà nước, nhất là về quản lý kinh tế, được chấp hành một cách đầy đủ và có hiệu lực [18].
Trong giai đoạn này các văn bản pháp lý trên của Nhà nước đề cập về tổ chức và hoạt động thanh tra, mở ra một bước phát triển mới, rất quan trọng cho ngành thanh tra. Trong thời gian ngắn, các tổ chức thanh tra ở tỉnh, thành phố đã được thành lập và sau đó phát triển đến một số quận, huyện, các tổ chức thanh tra ở bộ, ngành quản lý kinh tế, sự nghiệp cũng được thành lập, củng cố và hoàn thiện thêm một bước.
b) Uỷ ban thanh tra Nhà nước TW.
Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước độc lập. Vậy là giai đoạn cả nước thống nhất, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và bước đầu thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi sướng và lãnh đạo.
Ngày 3/01/1977, Hội đồng Chính phủ ra Nghị Định 01- CP ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Uỷ ban thanh tra của Chính phủ, trong đó quy định một số nguyên tắc và hoạt động thanh tra.
Ngày 15/2/19824, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết 26 - HĐBT, về việc tăng cường tổ chức thanh tra và nâng cao hiệu lực lượng thanh tra. Trong Nghị quyết số 26, HĐBT đã khẳng định: “tổ chức thanh tra phải là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản, đồng thời là một hình thức tổ chức của quần chúng để thực hiện quyền làm chủ của mình trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước” [17]. Nghị quyết này đã xác định tổ chức và hoạt động thanh tra phải thể hiện được tính chất Nhà nước và tính chất nhân dân, phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật, giữ vững khách quan, trung thực, có tính chiến đấu cao, nhằm mục đích phát huy mặt đúng, ngăn ngừa, sửa chữa cái sai, làm cho chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh và có hiệu quả thiết thực.
Ngày 20/2/1984 Ban bí thư Trung ương Đảng (khoá V) ra Chỉ thị số 38/CT-TW về việc: “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác thanh tra”. Trong Chỉ thị số 38/CT-TW cũng nhấn mạnh vai trò của Ban Thanh tra nhân dân “Ban thanh tra nhân dân ở cơ sở có vai trò rất quan trọng phát huy hiệu lực hoạt động thanh tra....” [1].
Đây là một Chỉ thị quan trọng thể hiện quan điểm của Đảng về tăng cường chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Hoạt động Thanh tra thời gian này ở miền Bắc tập trung vào Thanh tra thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, chấn chỉnh và cải tiến quản lý một số lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp; ở miền Nam tập trung vào việc xây dựng và tăng cường chính quyền nhân dân từ tỉnh đến cơ sở, thực hiện các chủ trương, cơ sở cải tạo xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp. Hơn nữa với việc ban hành Pháp lệnh về khiếu nại, tố cáo năm 1981 trong giai đoạn này ra đời có vai trò to lớn trong việc tham gia xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo ở cơ sở khi được giao; góp phần quan trọng vào việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp nội bộ nhân dân ở địa phương, trong cơ quan, đơn vị.
* Thời kỳ 1990 đến nay
a) Thanh tra Nhà nước(1990 – 2004), thời kỳ tiến hành công việc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đất nước toàn diện. Tiếp đó, năm 1989, Hội nghị Trung ương 6 khóa VI đã có Nghị quyết về việc thực hiện đường lối đổi mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm: phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chức trách của mình, các tổ chức Thanh tra có vai trò to lớn phục vụ cho việc thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Tại Hội nghị Thanh tra toàn quốc (26/5/1989), nguyên đồng chí Đỗ Mười – Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưỏng đã chỉ rõ: “chúng ta phải khẳng định dứt khoát vị trí của Thanh tra trong công cuộc đổi mới là rất quan trọng” [28].
Ngày 1/4/1980, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký Lệnh số 33 LCT/HĐNN và công bố Pháp lệnh Thanh tra, có hiệu lực từ ngày 1/6/1990. Việc ban hành Pháp lệnh Thanh tra đã mở ra một thời kỳ mới về công tác Thanh tra của ngành Thanh tra Việt Nam. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay của ngành Thanh tra. Pháp lệnh khẳng định “Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Trong giai đoạn này hoạt động Thanh tra đã bám sát yêu cầu đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, nhất là đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế; nhiều cuộc Thanh tra đã mang tính chất phục vụ cho yêu cầu quản lý vĩ mô của Chính phủ cũng như của ngành, đại phương. Năm 1991, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân thay thế pháp lệnh khiếu nại tố cáo năm 1981. Sự ban hành Pháp lệnh nhằm đổi mới và nâng cao một bước công tác xét giải quyết khiếu nại tố cáo, làm rõ hơn nữa quyền, nghĩa vụ của người đi khiếu nại tố cáo. Hoạt động Thanh tra, xét khiếu tố đã có bước phát triển mới quan trọng. Việc ban hành Pháp lệnh Thanh tra và Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân có ý nghĩa tác động rất lớn đối với tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nước ta, đã tạo sự đồng bộ cơ sở pháp lý về quy định trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước các cấp phải chăm lo và tăng cường công tác Thanh tra không phải thẩm quyền quản lý của mình và có trách nhiệm giải quyết khiếu nại tố cáo theo thẩm quyền.
b) Thanh tra Chính phủ (10/2004 đến nay), đây là giai đoạn đất nước phấn đấu thực hiện mục tiêu trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Pháp lệnh Thanh tra được triển khai mười bốn năm đã có nhiều sự đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước, thu được những kết quả quan trong trong quá trình phát triển kinh tế, giữ vững và ổn định tình hình chính trị và trật tự trị an xã hội, góp phần xứng đáng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã họi chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Quốc hội nước Cộng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV.doc
- bia.doc