Luận văn Dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk nông)

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU . 1

ChƯơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH

LƯỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM . 6

1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lƯợng trong Luật hình

sự Việt Nam. 6

1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự . 6

1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật

hình sự .

1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sự

1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt

Nam về dấu hiệu định lƯợng .

1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985 .

1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999 .

1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lƯợng

trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm. not d

1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy

định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999

1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy

định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999

pdf19 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk nông), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................................................... 6 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự ............................. 6 1.1.2. Phân biệt dấu hiệu định lượng và dấu hiệu định tính trong Luật hình sự ................................................ Error! Bookmark not defined. 1.1.3. Phân loại dấu hiệu định lượng trong luật hình sựError! Bookmark not defined. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Luật hình sự Việt Nam về dấu hiệu định lƣợng ........... Error! Bookmark not defined. 1.2.1. Giai đoạn 1945 đến 1985 ................... Error! Bookmark not defined. 1.2.2. Giai đoạn 1985 đến 1999 ................... Error! Bookmark not defined. 1.3. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về dấu hiệu định lƣợng trong cấu thành tội phạm cụ thể Phần các tội phạm.Error! Bookmark not defined. 1.3.1. Dấu hiệu định lượng về hình thức được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999Error! Bookmark not defined. 1.3.2. Dấu hiệu định lượng về nội dung được thể hiện trong các quy định tại các cấu thành tội phạm cụ thể Bộ luật hình sự năm 1999Error! Bookmark not defined. Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG DẤU HIỆU ĐỊNH LƢỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG) VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ............................. Error! Bookmark not defined. 2.1. Thực tiễn áp dụng dấu hiệu định lƣợng trong luật hình sự (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông)Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Sơ lược về tình hình địa chính trị, kinh tế, xã hội tỉnh Đắk NôngError! Bookmark not defined. 2.1.2. Những kết quả đạt và những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn từ 2010 đến 2014 ...... Error! Bookmark not defined. 2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại vướng mắc trong việc áp dụng dấu hiệu định lượng trong luật hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Nông ........................................... Error! Bookmark not defined. 2.2. Những kiến nghị đề xuất nâng cao hiệu quả áp dụng dấu hiệu định lƣợng trong luật hình sự . Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước trong hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về các tội phạm cụ thể có liên quan đến dấu hiệu định lượng ................................... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng trong một số cấu thành tội phạm cụ thểError! Bookmark not defined. 2.2.3. Các kiến nghị đề xuất khác liên quan đến áp dụng dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm .............................................. Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 11 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án hình sự tại các cấp tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông Error! Bookmark not defined. Bảng 2.2. Tình hình xét xử các vụ án hình sự có dấu hiệu định lượng tại các cấp tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông từ năm 2010 đến 2014 Error! Bookmark not defined. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (VAHS), các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử phải định tội danh căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhằm xác định đúng tính chất của vụ án. Việc nhận thức chân lý khách quan của vụ án hình sự là một quá trình hết sức phức tạp được tạo bởi các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ do các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện phù hợp với các qui định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, để định đúng tội danh mà người phạm tội đã thực hiện cần căn cứ vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, trong đó có dấu hiệu định tính và dấu hiệu định lượng trong mặt khách quan của tội phạm, tùy thuộc vào từng cấu thành tội phạm cụ thể mà Bộ luật hình sự quy định. Do “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” mà hành vi phạm tội có thể xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của 2 đời sống xã hội. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng hành vi phạm tội xâm phạm vào các nhóm quan hệ xã hội khác nhau được pháp luật hình sự bảo vệ mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm xâm phạm ở từng lĩnh vực cụ thể. Để tránh những sai lầm trong việc xử lý hành vi nguy hiểm cho xã hội, Bộ luật hình sự có quy định dấu hiệu định lượng để phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức nào thì phải bị xử lý về hình sự hoặc đến mức nào thì phải bị xử lý về hành chính. Đây là vấn đề mấu chốt rất quan trọng để phân biệt hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và hành vi nguy hiểm cho xã hội không phải là tội phạm. Trên cơ sở đó đưa ra các chế tài xử lý phù hợp với từng hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vấn đề dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam đã được đề cập khi xây dựng Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, quá trình áp dụng Bộ luật hình sự 1985 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết trong việc quy định dấu hiệu định lượng nên đã dẫn đến sự tùy tiện trong việc định tội danh tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Bộ luật hình sự năm 1999 thay thế Bộ luật hình sự năm 1985 đã khắc phục tình trạng này bằng cách quy định rõ hơn những dấu hiệu định lượng trong từng nhóm tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật hình sự vào quá trình chứng minh vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng rất ít được quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự 1999 qui định về vấn đề này ở một chừng mực nào đó còn chưa cụ thể, chặt chẽ và đang phát sinh nhiều bất cập do sự thay đổi của tình hình kinh tế, xã hội đất nước. Mặt khác, trong khoa học luật hình sự còn không ít vấn đề về dấu hiệu định lượng còn chưa thống nhất về cách hiểu, thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau.Trong thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm đang diễn ra hết sức phức tạp, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm của 3 kẻ phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn thì cần quy định một cách rất cụ thể về dấu hiệu định lượng trong từng tội phạm vụ thể. Điều đó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu về dấu hiệu định lượng để góp phần hoàn thiện Bộ luật hình sự bổ sung, sửa đổi thời gian tới đây. Trước yêu cầu này, tác giả lựa chọn đề tài: “Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông)” viết luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có một số rất ít công trình công bố về kết quả nghiên cứu liên quan đến dấu hiệu trong luật hình sự. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ luật học năm 2004: “Vai trò của Yếu tố định lượng tài sản trong việc phân biệt tội phạm với hành vi không phải là tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam”của tác giả Nghiêm Xuân Cường; Bài viết: “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Lê Thúy Phượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 3/1999; Bài viết: Có cần định giá tài sản theo Bộ luật hình sự mới hay không” của tác giả Hồ Oanh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000; Bài viết: “Bàn về định lượng trong Bộ luật hình sự năm 1999” của TS. Đặng Anh đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 7/2002; Bài viết: “Dấu hiệu định lượng trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị Sơn đăng trên Tạp chí Luật học số 1/2005 v.v.... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu và các bài viết trên chỉ thể hiện ở một phần, ở một khía cạnh nhất định trong nghiên cứu dấu hiệu định lượng trong luật hình sự theo từng chương của Bộ luật hình sự ở từng nhóm tội phạm mà chưa nghiên cứu toàn diện những vấn đề liên quan đến dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như định lượng khi áp dụng tình tiết định khung tăng nặng và giảm nhẹ. Từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn dấu hiệu định lượng của tội phạm, đặt ra yêu cầu đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề lý luận và thực tiễn 4 của những quy định dấu hiệu định lượng trong luật hình sự. Đây là vấn đề hết sức cần thiết, nhằm không ngừng hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở đó tạo nền tảng cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án khắc phục thiếu sót nhằm xác định chính xác tội danh và bảo đảm xử lý công minh, công bằng, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay và tương lai. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn Mục đích của luận văn là làm quy định về dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam nhằm giúp cho việc định tội danh cũng như tính chất và mức độ phạm tội của từng tội phạm. Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu luận văn tập trung vào nghiên cứu cơ sở lý luận hình thành và của những quy định của luật thực định liên quan đến dấu hiệu định lượng trong luật hình sự; nghiên cứu thực trạng áp dụng những quy định về dấu hiệu định lượng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông; nghiên cứu làm rõ những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng pháp luật hình sự và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng khi định tội danh cũng như khi xem xét tính chất, mức độ phạm tội của những tội phạm có liên quan. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những dấu hiệu định lượng trong luật hình sự về những tội phạm cụ thể. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định dấu hiệu định lượng trong phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông từ năm 2009 đến 2014. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê 5 Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê xã hội học, điều tra để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, có 2 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về dấu hiệu định lượng trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về dấu hiệu định lượng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và các kiến nghị đề xuất. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẤU HIỆU ĐỊNH LƢỢNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, phân loại dấu hiệu định lƣợng trong Luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Dấu hiệu, theo Từ điển Tiếng Việt, là cái định ra theo quy ước để nhận diện một một sự vật, hoặc một hiện tượng. Ví dụ, hành vi giơ tay làm dấu hiệu. Còn định lượng, cũng theo Từ điển này, là số lượng cụ thể. Ví dụ, khẩu đội pháo cao xạ có 5 người, mỗi người làm một nhiệm vụ khác nhau liên quan đến hoạt động của khẩu pháo, nếu thiếu một người thì không thể là khẩu đội pháo. Như vậy, dấu hiệu định lượng được hiểu là dấu hiệu xác định số lượng hình thành một sự vật, một hiện tượng trong xã hội Khác với những sự vật, hiện tượng trong xã hội, tội phạm tuy là một hiện tượng xã hội, nhưng để xác định tội phạm phải dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội thể hiện ở chỗ nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để xác định hành vi nào đó do con người thực hiện có phải là tội phạm hay không phải dựa vào cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý thống nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Nhắc đến cấu thành tội phạm là đề cập đến các yếu tố bắt buộc cấu thành nên tội phạm đó cũng như các dấu hiệu của mỗi yếu tố đó. Phụ thuộc vào mỗi chế độ, nhà nước khác nhau và phụ thuộc vào chính sách hình sự của nhà nước đó mà quy định trong pháp luật hình sự những yếu tố nào là các yếu tố cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là những yếu tố đặc trưng của các loại tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự. Chỉ khi nào có đầy đủ các dấu hiệu bắt buột này thì hành vi vi phạm pháp luật 7 mới được coi là hành vi phạm tội. Những dấu hiệu bắt buộc bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm.  Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại như: “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.  Chủ thể của tội phạm là một cá nhân (con người cụ thể) có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình và có độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 của BLHS 1999 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.  Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong ý thức của người thực hiện hành vi phạm tội thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Do tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì vậy, Luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của người thực hiện hành vi. Xem xét mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Mỗi yếu tố có ý nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội. 8 Lỗi là biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Một hành vi của bị xem là có lỗi khi hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan để lựa chọn và thực hiện những xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi cố ý là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra; hoặc trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; hoặc trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Mục đích phạm tội là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội. Còn động cơ phạm tội là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội  Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm những dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi nguy hiểm gây nên; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu bên ngoài khác. Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mặt khách quan của tội phạm là tất cả những xử sự của con người được biểu hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định (hành động hoặc không hành động) gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để 9 trở thành hành vi khách quan của tội phạm thì hành vi đó phải có tính nguy hiểm cho xã hội; thể hiện bằng hành động hoặc không hành động; được quy định trong luật hình sự; gây nên hậu quả nguy hiểm cho xã hội bằng những thiệt hại nhất định (cho nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội luật hình sự bảo vệ. Hậu quả thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: hậu quả vật chất là những thiệt hại mà con người trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện kỹ thuật có thể xác định được một cách chính xác mức độ của nó (ví dụ, thiệt hại về vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hậu quả phi vật chất là những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác bằng các phương tiện đo lường. Sự thiệt hại này chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của con người. Thiệt hại loại này có thể kể đến như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm là mối quan hệ giữa các hiện tượng trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân (là hành vi khách quan) làm phát sinh một hiện tượng khác là kết quả (là hậu quả của tội phạm). Dùng để chỉ hành vi khách quan đóng vai trò là nguyên nhân, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đóng vai trò là hậu quả. Để xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chúng ta cần dựa vào các cơ sở có tính nguyên tắc sau: hành vi được coi là nguyên nhân phải là hành vi trái pháp luật hình sự và xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Nguyên nhân và hậu quả phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu. Một nguyên nhân bao giờ cũng chứa đựng mầm mống nội tại nhằm phát sinh kết quả nhất định. Bên cạnh các mặt biểu hiện đã nêu, mặt khách quan của tội phạm còn 10 được biểu hiện qua các nội dung khác như phương pháp, phương tiện, công cụ phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội Phương tiện phạm tội như phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, tiền Công cụ phạm tội như gậy gộc, súng, chất độc là những đối tượng được chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Phương tiện phạm tội trong một số trường hợp là dấu hiệu định tội và định khung hình phạt. Mỗi tội phạm cụ thể bao giờ cũng có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, trong các yếu tố cấu thành tội phạm thì khi xác định tính nguy hiểm của tội phạm thường được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét trước tiên là các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Tùy thuộc vào từng tội phạm cụ thể mà hành vi nguy hiểm cho xã hội, có thể thể hiện bằng hậu quả của tội phạm gây ra cho xã hội. Chính những dấu hiệu hậu quả nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu định tội như đã trình bày ở trên. Hậu quả có thể là vật chất được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất như tài sản bị phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép; thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên con người như tính mạng, sức khỏe v.v...); hoặc hậu quả có thể là phi vật chất thể hiện ở những những thiệt hại không thể tính toán một cách chính xác bằng các phương tiện đo lường mà chỉ được đánh giá thông qua hoạt động tư duy của con người như danh dự, nhân phẩm, quyền tự do của con người, chính trị, xã hội, đạo đức. Trong các loại hậu quả về vật chất được quy định trong mặt khách quan của tội phạm thì những hậu quả được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm được thể hiện ra bên ngoài có thể cân, đong, đo đếm được thì được coi là dấu hiệu định lượng. Đây chính là những dấu hiệu đặc trưng của từng tội dưới hình thức cấu thành tội phạm. Ví dụ mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị hư 11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Anh (2008), “Bàn về định lượng trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (7). 2. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1957), Sắc lệnh 001-SL ngày 19/4/1957, cấm mọi hoạt động đầu cơ. 4. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1957), Sắc lệnh 154-SL ngày 13/8/1957, trừng trị bọn làm bạc giả, phá hoại đồng tiền Việt Nam. 5. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1957), Sắc lệnh 267-SL ngày 19/8/1957, trừng trị mọi hoạt động phá hoại tài sản XHCN. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/10/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hòa thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 10. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội. 11. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, Hà Nội. 12 12. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2010), Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại điều 248 và điều 249 của Bộ luật hình sự, Hà Nội. 13. Nguyễn Lân (chủ biên) (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển và ngôn ngữ. 14. Nguyễn Đình Lộc (2000), “Sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999”, Kỷ yếu Tọa đàm khoa học. 15. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự năm 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội. 16. Quốc hội (1992 - 1993, 2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội. 17. Quốc hội (1999), Nghị quyết số 32/1999/NQ/QH10 ngày 21/12/1999 về việc thi hành Bộ luật hình sự, Hà Nội. 18. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. 19. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội. 20. Lê Thị Sơn (2005), “Về dấu hiệu định lượng trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí luật học, (1). 21. TAND tỉnh Đắk Nông (2010 - 2014), Các Báo cáo tổng kết, Đắk Nông. 22. Tòa án nhân dân tối cao – Việc kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Công an - Bộ tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "các tội xâm phạm sở hữu" của bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội. 23. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp (2007), Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương xviii “các tội phạm về ma túy” của bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội. 13 24. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân tối cao - Bộ công an - Bộ tư pháp - Bộ quốc phòng (2013), Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP ngày 28/8/2013 Hướng dẫn áp dụn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_nguyen_van_giang_8147_2010064.pdf
Tài liệu liên quan