Luận văn Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Ta thấy rằng, mặc dù, Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài với quy mô còn nhỏ bé song cũng đạt được một số lợi ích

Một là phát hiện và tìm kiếm được nguồn thị trường mới đồng thời thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu hàng hoá cũng như lao động trong nước ra nước ngoài. Bên cạnh việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, phát triển các hoạt động ngoại thương, tăng cường xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, các công ty cũng ngày càng chú trọng đến các dịch vụ hậu mãi như bảo dưỡng, bảo hành, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng giúp cho việc giữ vững các thị trường cũ và phát huy có hiệu quả cácthị trường mới. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, có những doanh nghiệp do tránh sự bảo hộ thuế quan, phi thuế quan, đồng thời hạn chế nhập khẩu, đã triển khai xây dựng nhà máy ở nước thứ ba để tranh thủ giấy phép và hạn ngạch quota của nước này, thực hiện mục đích xuất khẩu của mình.

Hai là tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước mà Trung Quốc tiến hành đầu tư. Trung Quốc là một nước tuy rộng lớn nhưng nguồn tài nguên thì hạn hẹp, trữ lượng không cao do đó mà Trung Quốc phải nhập khẩu một khối lượng lớn để đảm bảo cho sản xuất trong nước.Chính vì điều đó mà Trung Quốc chú ý đến các nước có nhiều tài nguyên để tiến hành đầu tư, thành lập các doanh nghiệp từ đó khai thác nguồn tài nguyên ở các nước sở tại góp phần cung cấp ổn định nguồn nguyên liệu cho doanh nghiệp của mình và các doanh nghiệp khác trong nước.

 

doc39 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 2326 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang phát triển như Việt Nam. Trong đó Trung Quốc là một đối tác cũng tương đối lớn đã đóng góp nhiều vào sự phát triển của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư này đóng góp vào sự tăng lên của GDP, giúp vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên, tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ để cải thiện chất lượng hàng hoá tăng khả năng xuất khẩu, tạo thêm việc làm giảm thiểu thất nghiệp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng trao đổi quốc tế, đồng thời tiến tới công nghiệp hoá hiện đại hoá. Bảng 1.6: Đóng góp của khu vực FDI vào GDP Đóng góp của khu vực FDI 2001 2002 2003 2004 Tỷ trọng trong GDP (%) 13,1 13,9 14,3 14,8 Nộp ngân sách (triệu USD) 373 459 500 510  Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - MPI Tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm quốc nội cũng tăng dần qua các năm. Năm 2001 đóng góp 373 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 13,1%; năm 2002 đóng góp 459 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 13,9%; năm 2003 đóng góp 500 triệu USD với tỷ trọng trong GDP là 14,3%; và năm 2004 đóng góp 510 triệu với tỷ trọng trong GDP là 14,8%. Như vậy giai đoạn 2001- 2004 khu vực kinh tế có vốn FDI đã đóng góp vào 18, 42 tỷ USD. Và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó có Trung Quốc vào Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, cải thiện cán cân thanh toán. Thông qua vốn FDI nhiều nguồn lực trong nước được đưa vào sử dụng, đồng thời Nhà nước cũng chủ động hơn trong bố trí cơ cấu đầu tư, dành nhiều vốn ngân sách cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo “ cú huých” từ bên ngoài, ban đầu mở đường cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam cùng vốn đầu tư của các nước khác cũng tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ, các nhà đầu tư chuyển những công nghệ tương đối hiện đại đến Việt Nam để tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.Về chất lượng công nghệ đưa vào Việt Nam, nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuaộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Một số thiết bị qua sử dụng đã được nâng cấp trước khi đưa vào Việt Nam. Điều này đã làm cho các sản phẩm tăng sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam do các mặt hàng phong phú hơn chát lượng của hàng hoá được cải thiện rất nhiều so với thơì kỳ chưa mở cửa. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Một vấn đề quan trọng nữa là đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam cũng hình thành các doanh nghiệp mới từ đó góp phần giải quyết việc làm cho người lao động tăng thu nhập cho người dân (lương bình quân 80 – 85 USD/tháng cao hơn bình quân chung của các doanh nghiệp trong nước). Tính đến hết năm 2004, khu vực FDI nói chung đã tạo ra 800.000 lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp khác như xây dựng, cung ứng các dịch vụ liên quan. Nhiều lao động được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ tiên tiến, rèn luyên tác phong công nghiệp và thích ứng dần với cơ chế mới. Đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực FDI ngày một trưởng thành và tích luỹ được kinh nghiệm quản lý. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam góp phần mở rộng kinh tế thương mại của Việt Nam và Trung Quốc. Với vị trí là các nước láng giềng của nhau, có những điều kiện về địa lý tương tự nhau tạo điều kiện cho hai nước hiểu nhau hơn đồng thời thêm yếu tố đầu tư càng thúc đẩy mạnh mối quan hệ này. Việt Nam có thể mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc tức là dù trực tiếp hay gián tiếp thì qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản phẩm của Việt nam có điều kiện xâm nhập vào thị trường đông dân nhất thế giới của Trung Quốc thúc đẩy tăng trưởng trong nước và ngược lại sản phẩm của Trung Quốc cũng xâm nhập vào Việt Nam để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, do đó đảm bảo nguồn nguyên vật liệu với giá cả phải chăng. Điều đó chứng tỏ rằng đầu tư trực tiếp và ngoại thương có quan hệ tác động hỗ tương. Đầu tư tạo điều kiện thay đổi bộ mặt đất nước và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Bởi vì, khi muốn thu hút đầu tư thì Chính phủ phải có chiến lược đổi mới, xây dựng thêm cơ sở hạ tầng: giao thông vận tải, nhà cửa, Thêm và đó, Trung Quốc còn tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu chế suất điển hình là khu chế xuất Linh Trung ở TP Hồ Chí Minh. Nhờ các dự án mà Việt Nam mới có cơ hội sớm được tiếp nhận nhiều cái mới về cải thiện cơ sở hạ tầng, cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, tạo môi trường và điều kiện tốt để các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư, từ đó tạo khả năng mở rộng xuất khẩu, thông qua các khu chế xuất, khu công nghiệp. 4.2. Những tồn tại Bên cạnh những ưu điểm đạt được do nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc nói riêng vào Việt Nam thì vẫn còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Điều đó sẽ gây khó khăn cho việc xây dựng một chính sách phù hợp, có thể bỏ lỡ các dự án đầu tư, tạo môi trường đầu tư kém thu hút. Với thực trạng hiện nay, nguồn vốn của Trung Quốc vào Việt Nam còn ít so với tiềm lực của Trung Quốc và mối quan hệ của hai bên do đó xác định được những tồn tại để có biện pháp khắc phù một cách hợp lý. Trong những năm qua, các nhà đầu tư của Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư trực tiếp, tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiền vốn có hạn, kỹ thuật và công nghệ sản xuất chưa thật tiên tiến và hiện đại, do đó sức cạnh tranh yếu, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn. Đến nay, chưa thấy xuất hiện tại Việt Nam những dự án đầu tư trực tiếp quy mô tương đối lớn của các công ty và tập đoàn kinh tế lớn của Trung Quốc. Cơ cấu đầu tư tuy đã có nhiều cải tiến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều điều bất hợp lý, hiệu quả kinh tế – xã hội của khu vực đầu tư này chưa cao. Trung Quốc chủ yếu đầu tư khai thác các ngành công nghiệp nói chung đặc biệt là công nghiệp nặng trong khi đó ngành nông lâm nghiệp mặc dù có nhiều ưu đãi, lại có nhiều tiềm năng nhưng nguồn vốn cho khu vực này thấp. Chính vì vậy gây ra sự mất cân đối trong phát triển các ngành kinh tế, không tạo được hiệu quả cao trong đầu tư. Thêm vào đó vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các địa phương có điều kiện thuận lợi như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, trong khi đó vốn đầu tư vào các địa bàn có điều kiện khó khăn thì hạn hẹp, làm cho chênh lệch kinh tế - xã hội giữa các vùng ngày càng lớn. Từ đó gây ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong việc thu hút FDI của các địa phương khiến cho các dự án đầu tư kém hiệu quả do chỉ tập trung thu hút mà thực hiện thì yếu kém. Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ, ổn định, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được gây khó khăn cho nhà đầu tư trong triển khai dự án. Công tác quản lý Nhà nước còn yếu nhiều mặt, vừa buông lỏng lại vừa can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp (quá tâp trung vào khâu cấp giấy phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau cấp giấy phép nên không nắm chắc được tình hình, kết quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI). Chất lượng lao động Việt Nam còn yếu kém. Một số cán bộ được cử vào làm việc trong liên doanh thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững luật pháp, không thành thạo ngoại ngữ. Đội ngũ lao động còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp về lao động có trình độ tay nghề cao, kỷ luật kém, năng suất lao động thấp, do đó thế mạnh của chúng ta về lao động bị suy yếu dần. Bên cạnh đó, còn nhiều hạn chế trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ: có những công nghệ chuyển giao đã cũ kỹ, lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả; công nghệ chuyển giao không đồng bộ và định giá không đúng. Từ đó dẫn đến sản phẩm làm ra có tính cạnh tranh chưa cao và còn gây ô nhiễm môi trường. Chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn một số nước khác trong khu vực, như: giá điện ở Việt Nam cao hơn gấp 2 lần tại Bangkok – Thái Lan, lương công nhân Việt Nam cao gấp 1,6 lần tại Jakata – Indonexia và thuế thu nhập cá nhân cao hơn cả Thượng Hải. 4.3. Nguyên nhân Lượng vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam còn ít do Trung Quốc vẫn đang trên đà phát triển, thiếu vốn (Trung Quốc có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất mạnh mẽ), lại đâng tiến hành xây dựng “Bốn hiện đại hoá” trên quy mô lớn cần thu hút nhiều đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Những lĩnh vực mà phía Việt nam muốn thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nhưng ở Trung Quốc, những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh đó vẫn đang cần đầu tư và có nhiều triển vọng phát triển, cho nên các doanh nghiệp Trung Quốc chưa có nhu cầu cấp bách đầu tư ra nước ngoài trong đó có Việt Nam. Do nhận thức về đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa thông suốt, nhất quán; một mặt do chúng ta đang thiếu vốn trầm trọng nên một mặt, muốn khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài để xây dựng đất nước; mặt khác, lại sợ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ngay trong lòng nước ta mà ta không khống chế được, nên lại tìm cách ngăn chặn. Việc “đóng”, “mở” thất thường sẽ làm cho các nhà đầu tư ngần ngại, không muốn đầu tư lớn và lâu dài ở nước ta.Lại thêm ở Việt Nam có một số người không thích thú lắm với đầu tư trực tiếp của Trung Quốc, cho rằng kỹ thuật và công nghệ sản xuất của Trung Quốc chưa tiên tiến hiện đại bằng các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khác, do đó, khi các doanh nghiệp Trung Quốc sang Việt Nam đầu tư sản xuất kinh doanh cò gặp nhiều khó khăn trở ngại. Do môi trường đầu tư của Việt Nam chưa dủ sức hấp dẫn. Việt Nam là một nước có dân số tương đối lớn nhưng thị trường lại hạn hựp, lợi thế so sánh mất đi, chính sách về thuế,quản lý ngoài hối thường thay đổi quá nhanh, cơ sở hạ tầng yếu kém. Điển hình như xây dựng khu công nghiệp với mục đích là địa phương mình cũng có khu công nghiệp chứ không phải xuất phát từ nhu cầu của các nhà đầu tư hoặc có địa phương không thuận tiên trong việc giao thông vận tải, không gần trung tâm kinh tế nhưng vẫn đầu tư các khu công nghiệp để chờ các nhà đầu tư nước ngoài, Thiếu một hệ thống luật pháp về đầu tư hoàn chỉnh. Hiện nay, nước ta mới đang tiến tới xây dựng một hệ thống luật đầu tư chung cho cả trong nước và nước ngoài. Còn luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1987 đã qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung nhưng vẫn thiếu sự đồng bộ và nhất quán, chưa đảm bảo tính rõ ràng. Khâu quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài còn nhiều yếu kém, dẫn đến việc cấp giấy phép đầu tư cho một số ngành hàng, lĩnh vực vượt quá nhu cầu, gây lãnh phí thiệt hại cho dất nước, làm các nhà đầu tư mất niềm tin. Còn thiếu một đội ngũ cán bộ có đủ tài đức để tham gia quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một đội ngũ công nhân lành nghề. Phần II Giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam Những định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc 1.1. Những lợi ích trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc Ta thấy rằng, mặc dù, Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài với quy mô còn nhỏ bé song cũng đạt được một số lợi ích Một là phát hiện và tìm kiếm được nguồn thị trường mới đồng thời thúc đẩy hơn nữa việc xuất khẩu hàng hoá cũng như lao động trong nước ra nước ngoài. Bên cạnh việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, phát triển các hoạt động ngoại thương, tăng cường xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài, các công ty cũng ngày càng chú trọng đến các dịch vụ hậu mãi như bảo dưỡng, bảo hành, lắp đặt, hướng dẫn sử dụng giúp cho việc giữ vững các thị trường cũ và phát huy có hiệu quả cácthị trường mới. Trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, có những doanh nghiệp do tránh sự bảo hộ thuế quan, phi thuế quan, đồng thời hạn chế nhập khẩu, đã triển khai xây dựng nhà máy ở nước thứ ba để tranh thủ giấy phép và hạn ngạch quota của nước này, thực hiện mục đích xuất khẩu của mình. Hai là tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên của các nước mà Trung Quốc tiến hành đầu tư. Trung Quốc là một nước tuy rộng lớn nhưng nguồn tài nguên thì hạn hẹp, trữ lượng không cao do đó mà Trung Quốc phải nhập khẩu một khối lượng lớn để đảm bảo cho sản xuất trong nước.Chính vì điều đó mà Trung Quốc chú ý đến các nước có nhiều tài nguyên để tiến hành đầu tư, thành lập các doanh nghiệp từ đó khai thác nguồn tài nguyên ở các nước sở tại góp phần cung cấp ổn định nguồn nguyên liệu cho doanh nghiệp của mình và các doanh nghiệp khác trong nước. Ba là tạo điều kiện tiếp nhận những thông tin mới về thị trường cũng như công nghệ. Sau khi được thành lập chỉ một thời gian ngắn các doanh nghiệp đã hiểu rõ xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, xu thế phát triển của thị trường, sự biến động của giá cả, nắm bắt được những thông tin mới nhất về công nghệ, về sự thay đổi chính sách của các nước trên thế giới, từ đó tao điều kiện xây dựng, hoạch định những chiến lược lâu dài, tổng quát, đưa ra những biện pháp hữu hiệu góp phần tích cực cho chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc. Bốn là tiếp cận rồi tiến tới áp dụng nguồn công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của nền công nghiệp hiện đại. Để thực hiện được mục đích này trong quá trình đầu tư ra nước ngoài thì các doanh nghiệp đã tiến hành mua các loại trang thiết bị hiện đại tham gia cổ phần vào các doanh nghiệp tiên tiến của nước ngoài hoặc hợp tác nghiên cứu phát triển sản phẩm mới với nước ngoài nhằm thu hút sử dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới, đồng thời trong khi chung vốn hợp tác sản xuấtvà kinh doanh, các doanh nghiệp đã học hỏi được nhiều phương thức và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển, đưa sản xuất của các doanh nghiệp ngày càng pát triển và có hiệu quả cao. Ngoài ra, Trung Quốc còn học hỏi được các nghiệp vụ bán hàng thực tế và quản lý doanh nghiệp một cách khoa học. Năm là tận dụng được nguồn vốn nước ngoài. Với sự phát triển ngày càng nhanh, mạnh, Châu á trở thành một thị trường vốn tương đối lớn với nhiều kênh lưu thông rộng rãi, nên bất kỳ doanh nghiệp nào đầu tư vào cũng được hưởng vay vốn một cách dễ dàng từ Chính phủ để mở rộng kinh doanh, thậm chí có thể vay vốn để đầu tư cho các hạng mục mới. Doanh nghiệp tham gia góp vốn còn có thể tranh thủ vốn của đối tác chung vốn để đầu tư vào hạng mục do mình đảm nhiệm.Vì vậy mà các công ty của Trung Quốc đã tranh thủ lợi thế này tăng cường đầu tư ở nước ngoài để đạt mục đích kinh doanh xuyên quốc gia. 1.2. Những hạn chế trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc Bên cạnh những lợi ích đạt được từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thì Trung Quốc vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục trong quá trình đầu tư. Một là hạn chế về thể chế. Gần đây, Trung Quốc mới quan tâm chú trọng đến vấn đề đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, một thời gian dài đã không chú ý đến vấn đề chỉ đạo, hướng dẫn và quản lý. Nhà nước vẫn chưa có quy hoạch tổng thể thống nhất và bố trí hợp lý đối với lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài. Trong quá trình thẩm định, phê chuẩn các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài không có sự điều hành nhất quán, thông qua quá nhiều cửa nên cũng tạo sự phối hợp không đồng bộ, trình tự thẩm đinhj phê chuẩn các hạng mục quá quan liêu, phức tạp đã làm cho hiệu quả thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Đối với chính sách đầu tư ra nươca ngoài hiện nay, Chính phủ chưa có sự chỉ đạo, hướng dẫn thực hiên có hiệu quả, thiếu tính liên tục và đồng bộ, luôn có hiện tượng vừa ủng hộ vừa hạn chế. Hai là hạn chế về kỹ thuật. Hiện nay, ngành công nghiệp Trung Quốc mặc dù cũng đạt được trình độ phát triển cũng tương đối, nhưng nhìn chung thì khả năng về kỹ thuật của các doanh nghiệp Trung Quốc còn yếu và thiếu thốn. Trung Quốc vẫn cọn nhập khẩu nhiều những kỹ thuật mới của nước ngoài, đặc biệt là các công nghệ kỹ thuật cao và hiên đại. Vì thế, những năm qua, Trug Quốc chưa thể nắm bắt và tiếp thu những kiến thứ vè kỹ thuật mới được nhập vào, dẫn đến các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc khó có thể phát huy được khả năng sáng tạo và nội địa hoá kỹ thuật ở các nước sở tại. Ba là hạn chế về vốn. Trong một thời gian dài, các doanh nghiệp của Trung Quốc có tốc độ phát triển yếu kém bởi phần lớn phải trông chờ vào nguồn vốn của Nhà nước thông qua các khoản vay của ngân hàng. Hiện nay, hệ thống tiền tệ của Nhà nước chưa hoàn thiện, thị trường vốn trong nước kém phát triển, hệ thống ngân hàng Nhà nước rộng lớn vẫn chưa hoà nhập được với hệ thống ngân hàng thế giới, đồng thời trong một thời gian dài, vẫn chưa giải quyết thoả đáng một khối lượng lớn tài sản của doanh nghiệp quốc hữu.Vì thế trong quá trình đầu tư ra nước ngoài, hệ thống tiền tệ khó có thể phát huy được sức mạnh. Bốn là hạn chế về nhân tài. Các doanh nghiệp Trung Quốc hiện nay, đang đòi hỏi một lực lượng nhân tài có tố chất cao, trình độ quản lý giỏi. Hiện nay, lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài đòi hỏi phải có nhân tài thuộc loại kinh doanh cỡ quốc tế nghĩa là phải nắm bắt được tình hình, có kinh nghiệm phong phú về đầu tư quốc tế và nghiệp vụ kinh doanh xuyên quốc gia nhưng Trung Quốc khó có thể đáp ứng đầy đủ để thích ứng với nhu cầu đầu tư ra nước ngoài với phạm vi và quy mô lớn. Mặc dù, Trung Quốc có chú trọng đến bồi dưỡng đào tạo nhân tài, nhưng cũng xuất hiện hiện tượng những người được cử đi đào tạo ở nước ngoài sai khi tốt nghiệp đã không về nước mà ở lại nước ngoài. Tình trạng này làm cho Trung Quốc không dễ dàng giải quyết thoả đáng vấn đề đào tạo và hình thành một đội ngũ nhân tài kinh doanh xuyên quốc gia. 1.3. Định hướng đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc Cùng với việc tổng kết những kết quả và kinh nghiệm của chiến lwocj đầu tư ra nước ngoài thời gian qua, Trung Quốc tiếp tục đưa ra nhữnh chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư trực tiếp ra nước ngoài hiệu quả hơn nhằm dẩy nhanh chiến lược này. Một là xây dựng hệ thống bảo đảm để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài. Trước tiên, phải xây dựng hệ thống lập pháp về các lĩnh vực đầu tư trực tiếp, lao động nhằm khắc phục tình trạng đầu tư kinh doanh không hợp pháp ở ngoài nước, hướng dẫn các doanh nghiệp Trunh Quốc tranh thủ vận dụng những quyền lợi mà tổ chức thương mại thế giới dành cho để tiến hành các vòng đàm phán thương mại song phương, đa phương có hiệu quả, cố gắng giảm hoặc xoá bỏ hàng rào bảo hộ của nước ngoài trong đầu tư, thương mại. Hai là mở rộng chính sách thẩm định phê chuẩn đầu tư ra nước ngoài. Chính phủ Trung Quốc sẽ thực hiện một số quy định có tính nguyên tắc. Đó là: phân định và điều chỉnh chức năng của các ngành hữu quan một cách hợp lý và có hiệu quả, đơn giản hoá trình tự, thu hẹp nội dung thẩm định phê chuẩn; căn cứ theo nhu cầu phát triển kinh tế thị trường tham khảo phương thức tự do hoá từng bước trình tự thẩm định của các nước trên thế giới để học hỏi, thay đổi; cùng với việc coi trọng thẩm định các hạng mục đầu tư ra nước ngoài, sẽ tăng cường giám sát và quản lý các hạng mục đầu tư sau khi đã hoàn thành; áp dụng các nguyên tắc đã xác định rõ ràng điều kiện, trình tự thẩm định, phê chuẩn, thực hiện thẩm định công khai, công bằng, dân chủ. Ba là thực hiện cải cách ngành quản lý ngoại hối, hoàn thiện hệ thống dịch vụ tiền tệ cho đầu tư ra bên ngoài. Trung quốc thời gian này đang tiến hành đẩy mạnh cải cách chế độ quản lý ngoại hối, cải thiện chính sách cho vay ngoại hối nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư ra nước ngoài. Cho đến nay, cục quản lý ngoại hối đã bắt đầu nới lỏng hạn chế về ngoại hối, đơn giản hoá các thủ tục, thực hiện xoá bỏ chế độ thẩm tra rủi ro đối với đầu tư ra nước ngoài bằng ngoại tệ. Mặt khác, nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống dịch vụ tiền tệ, xây dựng chế độ bảo đảm rủi ro về chính trị cho các doanh nghiệp trong khi đầu tư ở bên ngoài theo thông lệ quốc tế . Bốn là hoàn thiện chính sách và chế độ quản lý và đầu tư ở nước ngoài. Để góp phần hoàn thiện hơn nữa chính sách đầu tư ở bên ngoài, Trung Quốc không những xoá bỏ quan niệm coi lĩnh vực đầu tư ra ngoài chỉ là bộ phận kết hợp hữu cơ trong chính sách mậu dịch đối ngoại mà còn chú trọng nâng cao tính độc lập của lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài, đồng thời, cùng với việc tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài sẽ xác lập một chính sách đầu tư ra ngoài phù hợp với tình hình đất nước, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài. Đồng thời tăng cường chế độ quản lý thông qua các biện pháp: từng bước chuyển biến phạm vi quản lý và phương thức đãi ngộ; Trung Quốc sẽ xây dựng cơ quan chuyên ngành dịch vụ tư vấn thông tin cho các doanh nghiệp đầu tư ở nước ngoài; tăng cường bồi dưỡng và đào tao nhân viên chuyên môn lành nghề để giúp cho các doanh nghiệp xây dựng được một đội ngũ các nhà doanh nghiệp và nhân viên quản lý có trình độ cao có thể triển khai hoạt động đầu tư kinh doanh xuyên quốc gia. 2. Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam 2.1. Nâng cao nhận thức về đầu tư trực tiếp nước ngoài Cần thông suốt tư tưởng, nhận thức về đầu tư trực tiếp nước ngoài từ trên xuống dưới, từ các vị lãnh đạo cho đến người dân địa phương. Phải nhận thức rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một phần không thể thiếu cho quá trình phát triển kinh tế. Với những gì nó đem lại như: đóng góp lớn vào tăng trưởng, tăng nguồn vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế, giải quyết việc làmthì nó cần được đánh giá cao và chú trọng phát triển. Từ đó, phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, nhăm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài với yêu cầu phải phù hợp và gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, gắn với quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, tăng sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phải có sự cho lọc, phải chú ý đến ván đề an ninh quốc phòng, độc lập, tự chủ, không bị phụ thuộc về bất cứ vấn đè gì. Bên cạnh đó phải có cái nhìn đúng và chính xác hơn về Trung Quốc. Trung Quốc là một nước lớn, có sự tăng trưởng mạnh và liên tục, mức sống người dân liên tục được cải thiện, mặc dù Trung Quốc không là nước có nhiều công nghệ nguồn nhưng lại là nước có nguồn công nghệ phù hợp với Việt Nam. Chính vì vậy, tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc là hết sức cần thiết. Và khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc rất lớn và từ đó, sẽ có nhiều bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 2.2. Xây dựng và không ngừng cải thiện môi trường đầu tư Khi đầu tư thì bất kỳ nhà đầu tư nào cũng muốn làm sao thu được lợi nhuận là lớn nhật nhưng khi các nơi có khả năng thu được nguồn lợi nhuận lợi nhuận tương đương nhau thì nhà đầu tư sẽ chọn nơi nào có ít rủi ro nhất để đầu tư. Mặc dù, Việt Nam là một thị trường lớn nhưng sức mua còn nhỏ hẹp chưa tương xứng. Vì vậy, điều quan trọng nhất là phải làm sống động lại cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, phải dùng các biện pháp thích hợp để kích thích tăng chi tiêu, tạo ra sức mua bền vững cho nền kinh tế. Có thể bằng cách áp dụng mặt bằng giá thống nhất cho một số loại hàng hoá, dịch vụ đối với doanh nghiệp đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Phải có biện pháp xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế để một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, mặt khác đảm bảo sự quản lý của Nhà nước về hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Hệ thống này phải có sự mạch lạc, rõ ràng thì mới tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam nói riêng chỉ chú trọng phần lớn để đầu tư cho ngành công nghiệp, trong khi đó Việt Nam lại rất cần đầu tư phát triển ngành nông – lâm nghiệp một ngành ta có nhiều lợi thế về nguồn nguyên liệu và sử dụng nhiều lao động. Bên cạnh đó, nguồn vốn lại chủ yếu đổ về các khu vực trung tâm có nhiều thuận lợi hơn. Vì vậy, các dự án đầu tư về ngành nông - lâm nghiệp và các vùng kinh tế khó khăn nên có chính sách ưu đãi cao hơn các vùng khác. Có như vậy, mới có sự cân đối về cơ cấu ngành và cơ cấu vùng. Khuyến khích doanh nghiệp hướng mạnh vào thị trường xuất khẩu từ sử dụng nguyên liệu trong nước, chế biến thành sản phẩm hoàn chỉnh để xuất khẩu, hạn chế cấp giấy phép cho các dự án xuất khẩu nguyên liệu hoặc sản phẩm chỉ qua sơ chế. Cần linh hoạt hơn trong việc quyết định các hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế cho phép các liên doanh trong một số trường hợp được chuyển đổi hình thức đầu tư sang 100% vốn nước ngoài hoặc 100% vốn trong nước. Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh liên doanh với nước ngoài; thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tạo điều kiện huy động nhiều nguồn vốn với mọi loại quy mô vốn cho sự phát triển nền kinh tế. Ngoài các khu công nghiệp nhỏ và các cụm công nghiệp để di dời các nhà máy trong các thành phố l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8361.doc
Tài liệu liên quan