MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
I. Một số vấn đề cơ bản của đầu tư quốc tế
1. Khái niệm về đầu tư quốc tế
2. Các hình thức chủ yếu của đầu tư quốc tế
2.1. Đầu tư của tư nhân
2.2. Hỗ trợ phát triển chính thức
II. Các vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
1. Khái niệm và các đặc trưng 4
2. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Lý thuyết kinh tế vĩ mô về FDI
2.2. Lý thuyết kinh tế vi mô về FDI
3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư
3.1. Đối với nước chủ đầu tư
3.2. Đối với nước nhận đầu tư
3.3. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển 6
4. Quá trình vận động của luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển Châu á những năm gần đây 8
Chương II: Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua 11
I. Đánh giá tổng quan về FDI tại Việt Nam 11
1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài 11
1.1. Tình hình chung 11
1.2. Các đối tác được cấp giấy phép đầu tư 13
1.3. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ 15
1.4. Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế 17
1.5. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư 19
2. Tình hình thực hiện của các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài 20
2.1. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 20
2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu 23
2.3. Tình hình khai thác công suất các dự án. 25
II. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng và phát triển kinh tế 26
1. Hoạt động ĐTTTNN góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển và gia tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế 26
2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng GDP 30
3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế 34
4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với hoạt động xuất nhập khẩu và quá trình mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới 36
5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với giải quyết công ăn việc làm, 39
nâng cao năng lực của người lao động 39
6. Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ, 41
nâng cao trình độ kỹ thuật của nền sản xuất 41
III. Những vấn đề đặt ra đối với FDI ở nước ta 44
1. Sự sụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam 44
2. Sự gia tăng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài 49
3. vấn đề góp vốn giữa các bên đối tác và một số quan hệ trong liên doanh 53
3.1. Vấn đề góp vốn của hai bên đối tác 53
3.2. Một số quan hệ trong liên doanh 54
4. Một số mặt trái của FDI tại Việt Nam 56
5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của ASEAN ở Việt Nam 58
5.1. Các yếu tố xác định FDI của ASEAN tại Việt Nam 58
5.2. Hạn chế của các nước chủ đầu tư 60
6. Các yếu tố xác định fdi vào Việt Nam 63
7. Tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài 67
7.1. Khủng hoảng tiền tệ của các nước Châu Á 67
7.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đối với hoạt động FDI tại Việt Nam 69
7.3. Mặt trái của việc sử dụng vốn nước ngoài và bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực Châu Á 71
Chương III: Một số giải pháp huy động vốn FDI đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế 74
I. Một số vướng mắc và yếu kém trong thu hút và sử dụng vốn FDI thời gian vừa qua 74
1. Những vướng mắc về mặt cơ chế, chính sách 74
2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng 75
3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật 75
4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI 76
5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI 76
iI. Xác định nhu cầu vốn FDI cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2005 77
1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta 77
Năm 78
2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế 80
III. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế 81
1. Những giải pháp trước mắt 82
2. Các biện pháp lâu dài 83
Kết luận 85
Tài liệu tham khảo 86
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3066 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhằm thực hiện dự án có hiệu quả. Đây chính là điều kiện tốt một mặt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, học tập và nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; mặt khác, để liên doanh có thể hoạt động tốt, nhà đầu tư nước ngoài cũng buộc phải đào tạo cán bộ quản lý cũng như lao động Việt Nam đến một trình độ đủ để đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật, công nghệ đang sử dụng trong các dự án. Như vậy dù không muốn thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam. Đến nay, chúng ta có khoảng 6.000 cán bộ quản lý, 25.000 cán bộ kỹ thuật đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn FDI. Họ chủ yếu là nước kỹ sư trẻ, có trình độ có thể cùng các chuyên gia nước ngoài quản lý doanh nghiệp, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và đủ khả năng để tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại thậm chí cả bí quyết kỹ thuật.
Như vậy, thông qua việc thu hút và tạo ra thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động xã hội, ĐTTTNN đã góp phần đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp và dịch vụ cả về số lượng, tỷ trọng lẫn chất lượng, góp phần giảm các tệ nạn xã hội cũng như giảm các tội phạm về kinh tế, tăng sự ổn định chính trị - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương.
6. Đầu tư trực tiếp nước với hoạt động chuyển giao công nghệ,
nâng cao trình độ kỹ thuật của nền sản xuất
Khi đầu tư vào Việt Nam, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước ta vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý...(còn gọi là công nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên Việt Nam và bên chủ đầu tư.
Về vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp FDI thuộc ngành công nghiệp nói riêng và trên toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng còn nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng qua đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn và phân tích theo logic ta thấy rằng:
- Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn làm mục tiêu hàng đầu. Những thiết bị công nghệ mà họ đưa vào sử dụng tại các dự án đầu tư ở ta tuy có thể đã đến lúc cần thay thế ở nước họ, nhưng vì đi cùng với những thiết bị, công nghệ này thường là một số lượng nhất định tiền vốn phải bỏ ra, xuất phát từ sự gắn liền với lợi ích của mình như vậy nên khi chuyển thiết bị, công nghệ vào nước ta, bên nước ngoài cũng cân nhắc tính toán kỹ. chúng ta tin rằng họ chỉ chuyển vào những thiết bị công nghệ mà họ thấy còn phù hợp với trình độ và phát huy được hiệu quả tại Việt Nam, để chí ít họ cũng còn khả năng thu hồi được vốn và có lãi (tất nhiên ta không loại trừ những trường hợp cá biệt, ngoại lệ).
- Thực tế, những thiết bị, công nghệ của nước ngoài chuyển vào thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam lâu nay chưa phải là những loại thuộc thế hệ hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn rất nhiều những thiết bị có trước đây tại Việt Nam.
Kết quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua đã góp phần nâng cao một cách rõ rệt trình độ công nghệ của sản xuất trong nước so với thời kỳ trước. Nhiều công nghệ mới đã được thực hiện và nhiều sản phẩm mới đã được sản xuất trong các xí nghiệp FDI. Một số ngành đã tiếp thu được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với trình độ hiện đại của thế giới như ngành bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí...Hầu hết các trang thiết bị được đưa vào các xí nghiệp FDI tương đối đồng bộ và là các thiết bị có trình độ cơ khí hóa trung bình, cao hơn các trang thiết bị cùng loại đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Phần lớn các thiết bị được trang bị các bộ gá chuyên dùng kèm theo các phương tiện nâng-hạ-vận chuyển phục vụ cho dây chuyền sản xuất chuyên môn hóa. Một số dây chuyền được trang bị các thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hóa cao, như các dây chuyền lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài điện thoại kỹ thuật số, lắp ráp các mặt hàng điện tử. Một số ít có các thiết bị tự động hóa hoàn toàn, sản phẩm thiết kế và sản xuất được điều khiển bằng kỹ thuật vi tính.
Hoạt động chuyển giao công nghệ trong đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt và hình thức, mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Đồng thời hạn chế đến mức tối đa các loại hàng trước đây ta phải nhập khẩu với khối lượng lớn như bia, sắt thép xây dựng, sứ vệ sinh, xi măng...
Chất lượng các loại sản phẩm của khu vực FDI hầu hết đạt tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), một số đạt tiêu chuẩn quốc tế (ISO).
Một vấn đề có ý nghĩa nữa là nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động, theo sự chỉ định kế hoạch của cấp trên, không cần đầu tư, cải tiến, không cần tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, sản phẩm sản xuất ra không bị cạnh tranh...thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn FDI đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng tích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đương nhiên đặt các doanh nghiệp Việt Nam trong hoàn cảnh bắt buộc tham gia vào cuộc cạnh tranh về mọi mặt để xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại được, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn con đường là phải thay đổi một cách căn bản từ công nghệ, phương thức sản xuất kinh doanh, trình độ của người lao động..Nhiều doanh nghiệp trong nước đã cố gắng đổi mới công nghệ, nhập các thiết bị công nghệ mới và đã tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý, không thua kém hàng nhập.
Như vậy, bên cạnh một số tồn tại, các công nghệ và thiết bị được nhập vào nước ta qua các dự án đầu tư nước ngoài là những công nghệ đã ổn định và phổ cập ở các nước đang phát triển, phù hợp với quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ta. Các công nghệ này đã nhanh chóng tạo ra lợi nhuận, phù hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế thị trường, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Đồng thời hoạt động đầu tư nước ngoài cũng có tác động thúc đẩy phát triển công nghệ trong nước trong bối cảnh có sự cạnh tranh của cơ chế thị trường.
Nước ta có lợi thế so sánh về nguồn lực con người nên trước mắt, các công nghệ hiện đại có thể tác động không tốt đến công ăn việc làm nhưng về lâu dài, chúng ta cần phải có chính sách chú trọng tìm kiếm, đầu tư và thu hút các nhà đầu tư có công nghệ tiên tiến, kỹ thuật cao để đưa nền sản xuất nước ta theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới.
Trên đây là những tác động chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế như ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái, phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng các mối quan hệ ngoại giao... khó có thể đề cập hết trong khuôn khổ hạn hẹp của luận văn này.
Cần phải hiểu rằng, FDI không thể là phương thuốc thần kỳ có thể giúp giải quyết hết tất cả các vấn đề còn tồn tại của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, và thậm chí nó còn gây ra nhiều tác động tiêu cực đang được xem xét và đánh giá cụ thể. Tuy nhiên, trong sự tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ những năm vừa qua, FDI đã giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Những phân tích trên chưa thể đánh giá hết vai trò tích cực và tầm quan trọng của ĐTTTNN đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta. Tuy nhiên ta có thể khẳng định lại một điều đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp một phần tích cực và vô cùng quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua, nó như một nguồn năng lượng quyết định khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng và phát triển. ĐTTTNN là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự thành công của công cuộc CNH-HĐH, là một kênh đưa kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI FDI Ở NƯỚC TA
1. Sự sụt giảm của dòng FDI vào Việt Nam
Sau những năm phát triển mạnh mẽ, từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn. Nếu so với năm 1997 số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%; năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 30,01%. Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,52 triệu USD / dự án), bằng 41,19% quy mô bình quân của thời kỳ 1988-1999.
Đã có nhiều lý giải về nguyên nhân của xu hướng này:
Kinh tế Mỹ, Nhật, Tây Âu đang phục hồi sau một thời gian suy thoái đã thúc đẩy các chủ đầu tư trên thế giới đưa trên 70% tổng số vốn FDI vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước đang phát triển cạnh tranh gay gắt với nhau để thu hút 30% lượng vốn FDI còn lại, nhất là khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc và Ấn Độ. Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa phải là hấp dẫn so với các nước khác dẫn tới thu hút FDI gặp khó khăn.
Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á.
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN, cùng xây dựng AFTA thống nhất vào năm 2006, khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài phải tính toán: nếu môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa hấp dẫn thì có thể đầu tư vào các nước thành viên khác của ASEAN, vốn có môi trường đầu tư tốt và quen thuộc hơn, hoặc mở rộng quy mô, năng lực sản xuất tại các cơ sở hiện có của họ tại các nước này, sau đó thâm nhập vào thị trường Việt Nam bằng con đường thương mại.
Việt Nam chưa phải thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), chưa được hưởng chế độ Tối huệ quốc của Mỹ, cũng là trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam.
Sau hơn mười năm kể từ ngày ban hành, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã thay đổi hai lần và chi tiết thi hành luật đầu tư thay đổi 4 lần, đặc biệt chủ trương gần đây của Chính phủ điều chỉnh chính sách để đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào xuất khẩu, tăng tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam, quản lý chặt việc chuyển đổi ngoại tệ...khiến cho dư luận nước ngoài đánh giá chính sách đầu tư thiếu ổn định và nhất quán, việc thắt chặt các điều kiện đầu tư không phù hợp với thông lệ quốc tế .
So với các nước trong khu vực, thuế lợi tức và giá nhân công của Việt Nam thấp nhưng cường độ lao động và kỹ năng lao động của người Việt Nam cũng thấp, giá thuê dịch vụ văn phòng, cước phí viễn thông cao, chi phí đền bù và giải toả mặt bằng lớn.
Còn có quá nhiều lệ phí (theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có khoảng 200 loại lệ phí đang thực hiện, một số lệ phí thậm chí còn cao hơn thuế) gây cho nhà đầu tư cảm giác mình phải đóng quá nhiều thuế. Mức thuế xuất nhập khẩu ở nhiều khâu bất hợp lý gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Thủ tục hải quan không rõ ràng, tùy tiện áp mã số để tính thuế.
Thủ tục triển khai dự án phức tạp, kéo dài nhất là khâu cấp đất, giải phóng mặt bằng, xét duyệt và sửa chữa thiết kế, thủ tục hải quan, đăng ký các loại hình kinh doanh sau giấy phép.
Việc chưa cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được góp vốn bằng quyền sử dụng đất đai hợp pháp cũng hạn chế khả năng thu hút vốn đầu tư FDI.
Quản lý đầu tư nước ngoài thiếu thống nhất, mỗi địa phương có lệ riêng, thêm vào đó là nạn tham nhũng, khiến các nhà đầu tư nước ngoài không lường hết các khó khăn khi triển khai dự án đầu tư tại Việt Nam.
Thiếu một quy hoạch thu hút vốn đầu tư thống nhất theo ngành và theo lãnh thổ để hướng dẫn đầu tư, khiến nhiều dự án được cấp phép vào các ngành hàng còn dư thừa công suất, khâu triển khai sau giấy phép gặp khó khăn, nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả.
Chính sách hai giá trong một số dịch vụ đối với người nước ngoài và Việt Nam khiến cho nhà đầu tư cảm thấy bị đối xử không công bằng.
Nhiều địa phương còn có tiềm năng lợi thế thu hút FDI nhưng cơ sở hạ tầng yếu kém nên không hấp dẫn các nhà đầu tư.
Năng lực của những người thi hành luật như: hải quan, thuế vụ còn yếu, cán bộ quản lý bên phía Việt Nam tham gia các dự án liên doanh trình độ hạn chế. Đây cũng là những yếu tố ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của Việt Nam.
Thiếu nhiều luật cần thiết để đảm bảo cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình đầu tư như: Luật ngân hàng, luật bảo hiểm, luật cạnh tranh...
Tuy nhiên, nhiều lý giải trong số trên mới chỉ dừng lại ở những suy luận bề ngoài và thiếu tính thuyết phục. Chúng ta cần phải có sự nghiên cứu, phân tích sâu sắc hơn, có thể bắt đầu từ những vấn đề đặt ra dưới đây:
- Khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á mới xảy ra giữa năm 1997 mà dấu hiệu của sự chững lại của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam lại có từ những tháng cuối năm 1996.
- Tại sao khủng hoảng tiền tệ ở các nước khác trầm trọng hơn nhiều ở Việt Nam mà các nhà đầu tư nước ngoài không chuyển vốn sang Việt Nam.
- Tại sao Việt Nam không giành được phần thắng trong cạnh tranh thu hút 30% FDI đầu tư vào các nước đang phát triển.
- Tại sao trước kia Việt Nam cũng chưa phải là thành viên của WTO, chưa được hưởng Tối huệ quốc của Mỹ mà đầu tư trực tiếp từ bên ngoài vẫn tăng đều.
- Tại sao các phiền toái về thủ tục, lệ phí trước kia cũng đã tồn tại nhưng không ảnh hưởng tới tốc độ tăng FDI của Việt Nam.
Cũng cần phải tỉnh táo với các phàn nàn của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh tranh tối tranh sáng, các nhà tư bản thường khai thác được những kẽ hở để rồi thu hút được món lời nhiều hơn so với phần bị thiệt hại. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã có lời lớn nhờ trốn thuế, nhờ đưa vào liên doanh những thiết bị lạc hậu so với hợp đồng đã ký. Phải chăng đây là một lý do giải thích mặc dù thường bị xếp loại là môi trường làm ăn kém hiệu qủa, dễ rủi ro và khó khăn nhất so với các nước trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn có số vốn FDI khá cao, đứng hàng thứ ba sau Singapore và Malaixia , tính trong thời gian 1989-1994.
Do đó ta cần phải tiếp cận vấn đề cơ bản hơn là: Tìm hiểu sự chững lại của FDI vào Việt Nam hiện nay trong sự phát triển mạnh mẽ trước đó.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những nỗ lực chủ quan trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sự nỗ lực đó biểu hiện cụ thể qua việc hàng loạt các chủ trương chính sách đã được cụ thể hóa thành các văn bản pháp quy như Luật đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, các nghị định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các bộ luật, mở rộng điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài.
Các chính sách trên không chỉ là tháo gỡ rào cản về mặt chính sách đối với đầu tư trực tiếp từ bên ngoài vào mà còn bày tỏ thiện chí của Chính phủ Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thiện chí này đôi khi quan trọng hơn cả những nội dung, những điều khoản cụ thể trong các văn bản ban hành. Chính vì vậy, trong một thời gian ngắn tình hình đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đã diễn ra khá tích cực (số dự án tăng, số vốn đầu tư tăng, mức nộp thuế tăng, cơ cấu đầu tư thay đổi..). Rõ ràng các nhà đầu tư nước ngoài đã ráo riết tận dụng cơ hội mở ra nhằm thu lợi nhuận trên miền đất mới. Và đương nhiên, cơ hội đầu tư càng được khai thác nhanh và nhiều bao nhiêu thì xu hướng bão hòa càng đến gần bấy nhiêu.
Sự chững lại của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thời điểm năm 1997 chính là phần biểu hiện của xu hướng bão hòa giữa đầu tư bên ngoài và điều kiện hoạt động kinh doanh của nền kinh tế trong nước. Chúng ta có thể thấy điều này qua một số khía cạnh sau:
Các lĩnh vực, các mặt hàng vốn hấp dẫn hơn cả đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nay đã có khá nhiều dự án như: khách sạn, văn phòng cho thuê, sản xuất thức ăn gia súc, lắp đặt và sản xuất xe hơi, xe gắn máy, hàng điện tử, may, sản xuất chất tẩy rửa...Định hướng phát triển của Việt Nam những năm qua chủ yếu vẫn là thay thế nhập khẩu, có rất nhiều mặt hàng được hàng rào bảo hộ che chắn kỹ càng. Vì lẽ đó mà có không ít chủ đầu tư đã coi đây là thị trường tiêu thụ nội địa hơn là nơi sản xuất hàng xuất khẩu. Trong khi đó, thị trường Việt Nam được coi là lớn về tiềm năng với khoảng 80 triệu dân nhưng sức mua lại rất thấp (do thu nhập bình quân đầu người thấp), chỉ khoảng 30 tỷ USD và gần 2/3 thu nhập dân cư được chi tiêu cho lương thực thực phẩm, quần áo và các dịch vụ cơ bản. Việc các nhà đầu tư liên tục đổ dồn vào các lĩnh vực sản xuất thay thế nhập khẩu trong những năm 1997-1998 đã khiến hàng loạt các mặt hàng sản xuất ra rất khó tiêu thụ như: xi măng, sắt thép, hàng may mặc, công nghệ ô tô, xe máy, tuy khu vực này là nơi có số vốn thực hiện cao nhất nền kinh tế. Đây có thể nói là kết quả của việc các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá khả quan quá mức dung lượng thị trường của Việt Nam về các mặt hàng này và cho thấy dấu hiệu bão hòa. Như vậy, việc giảm vốn cam kết và đình hoãn giải ngân là không thể tránh khỏi.
Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu thúc đẩy công nghiệp hóa, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa phương. Các địa bàn kinh tế được coi là hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai...) đã trở nên khá chật hẹp.
Hình thức đầu tư quan trọng là xí nghiệp liên doanh đang bộc lộ những hạn chế như đối tác chủ yếu phía Việt Nam là các xí nghiệp quốc doanh vốn yếu kém về khả năng quản lý, điều hành, thiếu vốn (tỷ lệ góp vốn thấp, chủ yếu bằng quyền sử dụng đất, nhà xưởng) làm cho nhiều liên doanh hoạt động thiếu hiệu quả, lâm vào tình trạng thua lỗ.
Tỷ lệ giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ 19/81 năm 1991 lên 33,9/ 66.1 năm 1995 và tương đối ổn định ở tỷ lệ hơn 2 đồng vốn trong nước mới có một đồng vốn nước ngoài trong các năm tiếp sau. Xét về nhiều khía cạnh, tỷ lệ này là phù hợp và nếu duy trì được trong những năm tới là điều khá lý tưởng.
Tỷ lệ thoát mù chữ ở Việt Nam đạt trên mức 90% nhưng chất lượng giáo dục, dạy nghề sau xoá mù chữ lại thấp. Do đó, hiện nay mặc dù dư thừa lao động nói chung nhưng vẫn thiếu lao động có tay nghề cao và đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.
Một trong những nguyên nhân chính của sự bão hòa này là do cơ cấu phân bổ đầu tư không hợp lý, cộng với những đánh giá có phần lạc quan của nhiều nhà đầu tư. Bên cạnh đó, có rất nhiều lĩnh vực có tiềm năng mà các chủ đầu tư Âu, Mỹ có thể tham gia nhưng Việt Nam lại tỏ ra kém cỏi trong việc thu hút. Tất cả những điều trên cộng với sức cạnh tranh của Việt Nam đã không cao lại đang giảm sút so với các nước trong khu vực đang rất năng động để thoát ra ngoài khủng hoảng, có thể nói rằng thu hút FDI vào Việt Nam sẽ không khả quan hơn trong một vài năm trước mắt.
Tuy nhiên, tính chất bão hòa ở đây không có nghĩa là tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam đã hoàn toàn cạn kiệt. Trái lại sự bão hòa này gắn liền với giới hạn của trình độ phát triển hiện tại của nền kinh tế nước ta. Nó đánh dấu một mốc quan trọng: giai đoạn thu hút FDI dựa trên trình độ sẵn có đã hết, cần chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn thu hút FDI dựa trên những bước phát triển mới của nền kinh tế. Chú trọng xây dựng nền tảng mới thu hút FDI gắn liền với trình độ phát triển mới của nền kinh tế, có thể cụ thể hóa trên các mặt: chuyển mạnh sang chiến lược hướng về xuất khẩu, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, phát triển nguồn nhân lực, đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh...Trong số những nhân tố cấu thành của môi trường đầu tư: cơ sở pháp lý, thủ tục hành chính, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên...thì nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng (theo nghĩa rộng bao gồm cả khoa học công nghệ, ngân hàng, tài chính, giao thông, liên lạc thông tin...) giữ vai trò quan trọng vì đó chính là những nhân tố cơ bản quyết định quá trình tăng trưởng dài hạn và lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Chính vì vậy mà khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến, tạo mọi điều kiện cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, hướng các ngành có vốn FDI vào xuất khẩu, phát triển cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực là không thể thiếu được trong chiến lược thu hút FDI.
Như vậy cần phải thay đổi cách tiếp cận trong nỗ lực thu hút FDI của chúng ta. Cùng với việc nêu ra các tiềm năng nói chung như: lao động rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú...cần xác định tiềm năng cụ thể của từng giai đoạn. Tiềm năng này chính là cơ sở đề ra các mục tiêu mang tính khả thi và cho phép hình dung ra bức tranh về FDI trong từng thời kỳ. Cần phải chú ý nỗ lực mở rộng tiềm năng để thu hút FDI. Bên cạnh việc đổi mới thể chế, chính sách cần phải xác định được giới hạn mà chính sách thể chế không thể vượt qua. Đồng thời trong so sánh với các nước về khả năng thu hút FDI cần chú ý đến chỉ tiêu trình độ phát triển kinh tế.
Sự ổn định chính trị – xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong việc hội nhập với khu vực và thế gioứi và những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. Các nỗ lực gần đây của Chính phủ để hệ thống chính sách ưu đãi và đảm bảo đầu tư ngày một thông thoangs hơn so với nhiều nước trong khu vực cần phải có thời gian để kiểm chứng song chắc chắn sẽ phát huy tác dụng. Như vậy, Việt Nam vẫn sẽ là một thị trường hấp dẫn và có nhiều cơ hội đầu tư, tất nhiên là phải với một tư duy và cách thức điều hành kinh tế đổi mới hơn.
2. Sự gia tăng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài
Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất Việt Nam, trực tiếp nắm quyền điều hành và quản lý các cơ sở này, chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh nhưng phải tuân thủ theo luật pháp Việt Nam. Hình thức này phù hợp với các dự án có khả năng rủi ro cao, nhu cầu vốn lớn mà đối tác trong nước không đủ khả năng liên doanh hay hợp tác sản xuất.
Như đã chỉ ra ở các phần trên, trong giai đoạn 1988-1999, liên doanh là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, chiếm tới khoảng 60% số dự án và 70% vốn đăng ký. Tuy nhiên, hiện nay trong số các dự án còn hiệu lực thì hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn về số dự án với 1530 dự án tương đương 56,64% tổng số dự án còn hiệu lực, với lượng vốn đầu tư 10962,091 triệu USD, chiếm 30,17% tổng vốn đầu tư FDI. Nguyên nhân của sự gia tăng này đã được giải thích một phần ở mục cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư. Ở đây ta sẽ xem xét sâu hơn về thực chất nội dung của sự gia tăng đó và định hướng chiến lược của chúng ta đối với các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong thời gian gần đây hình thức liên doanh đã bộc lộ nhiều nhược điểm về việc quản lý điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh dự án. Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã thực sự cởi mở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cho các dự án 100% vốn nước ngoài và đối xử công bằng như đối với hình thức liên doanh nên đã khuyến khích các đối tác đầu tư vào hình thức này. Mặt khác, sau một thời gian đầu tư tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đã có hiểu biết về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Do đó, các dự án mới được cấp phép thời gian gần đây chủ yếu là dự án 100% vốn nước ngoài (VNN). Tuy nhiên, rất nhiều liên doanh lớn ở Việt Nam cũng đã hoặc đang xin chuyển sang 100% VNN. Đây là một vấn đề cần được quan tâm xem xét nghiêm túc. Điển hình là P&G Việt Nam (liên doanh giữa công ty P&G Mỹ và công ty bột giặt Phương Đông), công ty Coca-Cola Việt Nam (liên doanh giữa Coca-Cola Mỹ và công ty nước giải khát Chương Dương) đang lỗ lớn và đề nghị giải pháp chuyển sang 100% VNN. Công ty P&G Việt Nam đã được phép thay đổi tỷ lệ góp vốn, phía nước ngoài từ 70% lên 93%. Công ty Coca-Cola Việt Nam đang trong thời gian xem xét song cũng đang có xu hướng thay đổi cơ cấu vốn đầu tư các bên. Công ty BGI Việt Nam sản xuất bia và nước giải khát, liên doanh giữa công ty BGI Pháp với một công ty của Tiền Giang cũng lỗ nặng và đã chuyển sang công ty 100% VNN của BGI và nay thuộc công ty Foster của Úc. Công ty Prezioso chuyên hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ xây dựng của Pháp, cũng bắt đầu ở Việt Nam năm 1992 bằng liên doanh với một công ty Việt Nam. Sau đó, năm 1995 công ty đã xin và được phép chuyển sang 100% VNN. Mới đây, công ty A&B là liên doanh của công ty Đài Loan và công ty Việt Nam thông báo lỗ gần 6 triệu USD, cũng xin chuyển thành 100% VNN. Như vậy, đã xuất hiện xu hướng các liên doanh đang hoạt động chuyển sang hình thức 100% VNN.
Trong vòng 3 năm trở lại đây, có hiện tượng các liên doanh có vốn FDI liên tục khai lỗ, trong khi liên doanh lại là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu ở nước ta. Chỉ riêng TP Hồ Chí Minh, địa phương có vốn FDI cao nhất nước, tỷ lệ này lên đến 70-80%. Số liệu dưới đây cho thấy rõ nét tình trạng hoạt đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.docx