Truyện Kiều vốn có tên là Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về
nỗi đau đứt ruột). Tác giảdựa vào tác phẩm Kim Vân Kiều truyện (bằng 
văn xuôi) của Thanh Tâm Tài Nhân- Trung Quốc đểviết tác phẩm của 
mình. Nguyễn Du đã vay mượn đềtài cốt truyện, kèm theo sựsáng tạo để
viết nên Truyện Kiều. Truyện Kiều viết theo thểlục bát và có 3254 câu thơ. 
Nguyễn Du đã bỏmột sốchi tiết của Kim Vân Kiều truyện và thêm vào rất 
nhiều chi tiết khác, có thểnói Nguyễn Du đã cảm lại, nhận thức lại, sắp xếp 
lại cốt truyện cũ, nghĩa là Nguyễn Du chỉgiữlại những gì phù hợp với 
những điều mình từng trải nghiệm trong cuộc đời và thểhiện nó bằng ngòi 
bút tràn đầy cảm xúc của một nhà thơluôn đau đời và thắm tình người. 
Mộng Liên Đường chủnhân từng có nhận xét: “Lời văn tảra hình nhưmáu 
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ởtrên tờgiấy, khiến ai đọc đến cũng 
phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột” “Nếu không phải có 
con mắt trông thấu cảsáu cõi, tấm lòng nghĩsuốt nghìn đời thì tài nào có 
cái bút lực ấy”. Nguyễn Du đa sáng tác lại Truyện Kiều theo đặc điểm loại 
hình văn học dân tộc. Nguyễn Du đã kếthừa và phát huy được những ưu 
điểm, khắc phục nhược điểm của Kim Vân Kiều truyện đểsáng tạo nên 
một kiệt tác mới, toàn bích hơn, sâu sắc hơn. 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 119 trang
119 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4556 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương và vận dụng vào các đoạn trích Truyện Kiều trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (2006-2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng gian, thời gian đều có ý nghĩa riêng và có 
vai trò tác dụng trong việc biểu đạt nội dung. 
Trong phương pháp dạy đọc hiểu, giáo viên sẽ sử dụng tất cả các 
kiến thức, các phương pháp một cách hợp lý để hướng dẫn, dẫn dắt học 
sinh phân tích lý giải, khám phá tác phẩm trên cơ sở đọc tác phẩm. Trong 
phương pháp dạy đọc hiểu, học sinh sẽ là người chủ động giải quyết vấn 
đề. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, là người đi trước, có 
kinh nghiệm giúp học sinh tìm kiếm kiến thức. Phương pháp dạy đọc hiểu 
sẽ đáp ứng được yêu cầu: “Đổi mới phương pháp; cải tạo phương pháp; 
dạy học phải phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học 
sinh…..” của BGD. 
 Chương 2 
VẬN DỤNG DẠY ĐỌC- HIỂU VÀO CÁC ĐOẠN TRÍCH 
 TRUYỆN KIỀU TRONG SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 
(2006 – 2007) 
2.1. Giới thiệu về Truyện Kiều và các đoạn trích trong sách giáo khoa 
Ngữ văn 10 (2006-2007) 
 2.1.1. Vai trò, vị trí đặc biệt của Truyện Kiều trong nền văn học dân 
tộc nói chung và chương trình giảng dạy phổ thông nói riêng. 
 Nền văn học nước ta từ thế kỷ XVIII đến XIX đạt được những thành 
tựu rực rỡ cả về nội dung thơ văn và nghệ thuật. Để có được những thành 
tựu ấy, tầng lớp sáng tác thơ văn giai đoạn này, những người có tư tuởng 
tiến bộ, đã trực tiếp đóng góp nên những thành tựu ấy. Mỗi nhà thơ, nhà 
văn đều có vị trí quan trọng trong nền văn học góp phần làm nên thành tựu 
của văn học một thời kì. Xét trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu 
thế kỉ XIX hay xét trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, đại thi hào 
dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm của ông có vị trí đặc biệt quan trọng. 
 Nguyễn Du là một trong những tác gia lớn nhất trong giai đoạn phát 
triển rực rỡ nhất của văn học cổ điển nước ta. Với Truyện Kiều Nguyễn Du 
đã đưa thơ ca của dân tộc lên một đỉnh cao trước đó chưa từng thấy. 
Ý nghĩa của Nguyễn Du trong lịch sử văn học Việt Nam, trước hết là 
Nguyễn Du phát hiện ra con người bị áp bức đọa đày của những thế kỉ 
phong kiến Việt Nam. Phát hiện ra con người bị áp bức, yêu thương bênh 
vực, chiến đấu vì sự thiêng liêng cao quý của con người, Nguyễn Du xứng 
đáng là nhà nhân đạo vĩ đại. Ong đã mô tả một cách sâu sắc xã hội phong 
kiến thối nát thời đại ông, đã tố cáo, phản kháng và phê phán những thủ 
đoạn tàn nhẫn bất công chà đạp lên vận mệnh con người, đồng thời nói lên 
lòng xót thương vô hạn của ông đối với những lớp người bị áp bức, đau 
 khổ. Nguyễn Du rọi tia nắng nhân đạo chủ nghĩa lên con người thời phong 
kiến. Nhân vật của ông cũng hành động trong phạm trù trung, hiếu, tiết, 
nghĩa phong kiến, nhưng giau dưới lớp vỏ hợp pháp đó là sự đổi mới vượt 
thời đại. Nguyễn Du, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, để cho 
con người tự ý thức trước cuộc đời và trước chính mình. Thúy Kiều là một 
người con gái bao giờ cũng đau đáu những câu hỏi ý thức về ý nghĩa của 
cuộc đời, về ý nghĩa của tình yêu, nhân phẩm, hạnh phúc. Nguyễn Du đã 
thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc khi để nhân vật tự ý thức bản thân. 
Nguyễn Du là một nhà thơ vừa của thời đại vừa là vượt thời đại và thuộc 
về mọi thời đại. 
Nguyễn Du là một tác gia lớn của Văn học Trung đại Việt Nam. 
Chương trình văn học bậc Phổ thông, Cao đẳng và Đại học đều giảng dạy 
tác giả Nguyễn Du. Ong là tác giả tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam giai 
đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Ong là một nhà thơ tài 
hoa, uyên bác. Với vốn sống phong phú và tấm lòng nhân đạo bao la, ông 
đã để lại trong những tác phẩm của mình những tư tưởng tiến bộ. Nguyễn 
Du đã thể hiện sự căm ghét chế độ phong kiến thối nát đã đẩy con người 
nhất là người phụ nữ đi vào ngõ cụt, đồng thời bày tỏ tấm lòng nhân đạo 
với những người bị áp bức bất công. Những tác phẩm của Nguyễn Du đã 
góp phần thể hiện tiếng nói chung của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế 
kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm của ông chiếm một vị trí quan 
trọng trong nền văn học Việt Nam và trong chương trình Văn học Phổ 
thông. Nó là bức tranh toàn cảnh xã hội Việt Nam trong những ngày chế độ 
phong kiến Việt Nam suy tàn. Tác phẩm của ông có thể giúp học sinh hình 
dung một cách rõ nét bức tranh đương thời của xã hội Việt Nam. Những tác 
phẩm của Nguyễn Du là những tác phẩm được sáng tác ra từ một thiên tài 
văn học, từ một người có vốn sống phong phú và cách nhìn tiến bộ về xã 
 hội, con người cho nên kiến thức chứa đựng trong nó là vô cùng phong 
phú. Từ những tác phẩm của Nguyễn Du, học sinh không chỉ có được vốn 
kiến thức về văn chương, thẩm mỹ mà còn rèn luyện được tư tưởng đạo 
đức, cách sống, cách nhìn về xã hội một cách tiến bộ. 
Truyện Kiều vốn có tên là Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về 
nỗi đau đứt ruột). Tác giả dựa vào tác phẩm Kim Vân Kiều truyện (bằng 
văn xuôi) của Thanh Tâm Tài Nhân- Trung Quốc để viết tác phẩm của 
mình. Nguyễn Du đã vay mượn đề tài cốt truyện, kèm theo sự sáng tạo để 
viết nên Truyện Kiều. Truyện Kiều viết theo thể lục bát và có 3254 câu thơ. 
Nguyễn Du đã bỏ một số chi tiết của Kim Vân Kiều truyện và thêm vào rất 
nhiều chi tiết khác, có thể nói Nguyễn Du đã cảm lại, nhận thức lại, sắp xếp 
lại cốt truyện cũ, nghĩa là Nguyễn Du chỉ giữ lại những gì phù hợp với 
những điều mình từng trải nghiệm trong cuộc đời và thể hiện nó bằng ngòi 
bút tràn đầy cảm xúc của một nhà thơ luôn đau đời và thắm tình người. 
Mộng Liên Đường chủ nhân từng có nhận xét: “Lời văn tả ra hình như máu 
chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng 
phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”… “Nếu không phải có 
con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có 
cái bút lực ấy”. Nguyễn Du đa sáng tác lại Truyện Kiều theo đặc điểm loại 
hình văn học dân tộc. Nguyễn Du đã kế thừa và phát huy được những ưu 
điểm, khắc phục nhược điểm của Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo nên 
một kiệt tác mới, toàn bích hơn, sâu sắc hơn. 
Truyện Kiều đã đặt ra một cách sâu sắc nhất nỗi đau khổ và khát 
vọng hạnh phúc của con người dưới chế độ phong kiến. Nguyễn Du đã đề 
cập đến một vấn đề chủ yếu của thời đại và giải quyết nó theo một lập 
trường nhân đạo bao hàm tính nhân dân sâu sắc. Truyện Kiều có giá trị 
hiện thực sâu sắc. So với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm 
 Tài Nhân, các nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ hoàn 
chỉnh hơn, nhất trí hơn về bộ mặt, tâm lý, diện mạo, tinh thần, mà còn chân 
thực hơn, sinh động hơn các nhân vật trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài 
Nhân. Các nhân vật đó có một bản sắc dân tộc, bản sắc Việt Nam rõ rệt 
trong nếp nghĩ, trong lời ăn tiếng nói, trong cốt cách tâm lý. Đây là sự gặp 
gỡ, kết hợp giữa khuynh hướng hiện thực và khuynh hướng dân tộc hoá 
trong nền văn học của thời đại này. 
Tất cả người đọc Truyện Kiều nhất trí cho rằng nghệ thuật tác phẩm 
là tuyệt diệu, nhất là ngôn ngữ. Ngôn ngữ Truyện Kiều phong phú tinh 
luyện, giàu sức gợi cảm, gợi tả và trong sáng. Nghệ thuật viết Truyện Kiều 
như kết cấu chuyển đoạn , kể chuyện, mô tả đều đạt tới mức tuyệt diệu. 
Nguyễn Du bên cạnh việc sử dụng tiếp thu những thành tựu rực rỡ của thể 
thơ ca dân gian mà ông còn gia công, phát triển, hoàn thiện nâng thể thơ 
dân tộc lên đỉnh cao hơn nữa. Ong đã thay đổi cách ngắt nhịp, tận dụng khả 
năng diễn tả của các từ lấp láy, khả năng giàu tính tượng hình, tượng thanh 
của tiếng Việt. Thể thơ lục bát của dân tộc được Nguyễn Du sử dụng trở 
nên linh hoạt, óng ánh, câu thơ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu, giàu biểu 
cảm, thiên biến vạn hóa. Truyện Kiều là kết tinh tinh hoa của thời đại, là 
thành tựu chói lọi của văn học cổ điển Việt Nam. 
Khác với các tác phẩm của văn học cổ điển Việt Nam, Truyện Kiều 
của Nguyễn Du, ngay từ đầu, với sức mạnh kì diệu của một kiệt tác nghệ 
thuật, đã đi thẳng vào trái tim của các tầng lớp độc giả kể cả những tầng lớp 
nhân dân lao động. Họ say mê đọc Kiều, ngâm Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều. 
Truyện Kiều chiếm vị trí cao trong đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc 
Việt Nam. Nhân dân Việt Nam say mê Truyện Kiều, đồng tình với những 
vui, buồn, giận, ghét trong truyện. Những người con gái tan vỡ mối tình 
đầu, hay những người phụ nữ chịu kiếp chồng chung sẽ bắt gặp mình qua 
 hình ảnh cuộc đời trầm luân của Kiều. Hay những người dân bị áp bức dồn 
nén trong sự ngột ngạt của chế độ phong kiến muốn giải phóng mình có thể 
đồng tình với nhân vật Từ Hải…. Trải qua biết bao nhiêu năm, chế độ 
phong kiến không còn tồn tại nữa nhưng Truyện Kiều, tiếng nói đoạn 
trường thoát ra từ những đau khổ, mất mát chẳng những không trở thành lỗi 
thời mà trái lại càng có ý nghĩa sinh động. Nhân dân vẫn say mê đọc Kiều, 
vịnh Kiều và bói Kiều. 
Từ khi mới ra đời, Truyện Kiều của Nguyễn Du trải qua biết bao 
nhiêu lời bình luận. Người ta đến với Truyện Kiều, phê bình Truyện Kiều 
dù ý thức hay không ý thức cũng đã mang đến cho Truyện Kiều những màu 
sắc khác nhau, những cách cảm, những cách nghĩ khác nhau, những cách 
đánh giá, bình luận khác nhau về nhân sinh và nghệ thuật. Nó tuỳ thuộc vào 
quan niệm và giai cấp của người phê bình. Có thể thấy từ khi ra đời cho 
đến nay có hàng trăm độc giả thuộc nhiều chính kiến khác nhau, hoạt động 
trong những lĩnh vực xã hội khác nhau đã tham gia nghiên cứu, bình luận 
Truyện Kiều. Nguyễn Lộc cũng đã từng nhận xét: “Trong lịch sử nghiên 
cứu phê bình văn học Việt Nam không có một tác phẩm thứ hai nào được 
các nhà nghiên cứu phê bình cũng như đông đảo công chúng quan tâm đến 
như vậy”.[52] 
 Trong chương trình phổ thông cũ cũng như chương trình Ngữ văn 
mới, Nguyễn Du đều được học với tư cách là một tác gia lớn. Truyện Kiều 
không chỉ tiêu biểu cho tác giả Nguyễn Du, cho văn học Việt Nam giai 
đoạn cuối thế kỉ XVIII nửa đầu XIX mà còn tiêu biểu cho cả nền văn học 
dân tộc. Truyện Kiều là một kiệt tác. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một 
bức tranh toàn cảnh về chiều sâu của xã hội phong kiến Việt Nam trong 
giai đoạn suy tàn đổ nát. Truyện Kiều không chỉ có giá trị trong nước mà 
còn có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn học nhân loại, nó đã được 
 đông đảo bạn bè thế giới biết đến và ưa thích. Bên cạnh nội dung sâu sắc 
chứa đựng tư tưởng tiến bộ, Truyện Kiều còn có giá trị nghệ thuật chói lọi. 
Dạy Truyện Kiều còn giúp cho học sinh biết, hiểu về ngôn ngữ Việt Nam, 
giáo dục cho học sinh yêu quí ngôn ngữ, tiếng nói, thể thơ truyền thống của 
dân tộc Việt Nam. Trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (2006-2007) Nguyễn 
Du và Truyện Kiều chiếm năm tiết dạy gồm một tiết về tác giả, bốn tiết học 
các đoạn trích Truyện Kiều. 
 2.1.2. Những điểm cần lưu ý về Truyện Kiều của Nguyễn Du 
 Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của văn học cổ điển. Truyện 
Kiều giống như những tác phẩm khác đều phản ánh đặc điểm chung của 
văn học thời kì Trung đại bên những những đặc điểm riêng của nó. 
 2.1.2.1. Giá trị nội dung 
Truyện Kiều là một bài ca lớn về tinh thần nhân đạo, góp phần thể 
hiện chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Trung đại. Truyện Kiều là câu 
chuyện kể về nhân vật có tên Vương Thuý Kiều vì chữ hiếu mà phải bán 
mình chuộc cha và trải qua mười lăm năm lưu lạc “Thanh lâu hai lượt, 
thanh y hai lần”. Truyện Kiều đã nói lên vận mệnh con người trong xã hội 
và ước mơ tự do, công lý, chính nghĩa của những người bị áp bức trong 
một xã hội bất công tàn bạo. Truyện Kiều là bản cáo trạng đanh thép đối 
với các thế lực chà đạp con người. Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Du 
trong Truyện Kiều sâu sắc và có ý nghĩa rộng lớn. Truyện Kiều là bức 
tranh rộng lớn về cuộc sống, Nguyễn Du muốn làm nổi bật sự đối lập gay 
gắt giữa quyền sống của con người nhất là của người phụ nữ, với sự áp bức 
của chế độ phong kiến trong lúc suy tàn. Có thể nói một chủ nghĩa nhân 
đạo chừng mực nào đó có tính chiến đấu chống phong kiến là nền tảng 
vững chắc cho tác phẩm vĩ đại này. Chủ nghĩa nhân đạo ấy hay cảm hứng 
 nhân đạo ấy thấm nhuần trong mọi tình tiết của tác phẩm trong cách miêu 
tả con người cũng như trong cách miêu tả thiên nhiên, tạo vật. 
 Truyện Kiều không đơn giản là câu chuyện về cuộc đời Thúy Kiều. 
Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du viết bằng “những điều trông thấy” 
là cả một xã hội. Cái khác cơ bản giữa Truyện Kiều với truyện Nôm khác, 
là lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, nhà thơ có quan niệm tương 
đối hiện thực về cả một xã hội. Trong Truyện Kiều, các biến cố của cuộc 
sống không phải diễn ra một cách ngẫu nhiên, do một nhân vật có ý chí, 
hay ý chí một nhân vật nào đó quyết định, mà do nhiều nguyên nhân chồng 
chéo lên nhau quyết định. Những lực lượng xã hội trong tác phẩm không 
phải như những tính cách đạo đức mà là cả những cá tính có tính chất xã 
hội. Cuộc đấu tranh giữa các thế lực trong tác phẩm không phải được nhìn 
nhận như cuộc đấu tranh để bảo vệ đạo đức, hay đấu tranh để thay thế 
những nhân vật xấu cá biệt bằng những nhân vật tốt cũng cá biệt nốt, mà 
phản ánh một cách nghệ thuật cuộc đấu tranh phức tạp vốn có trong xã hội, 
trong đời sống. Có thể nói thực sự có một xã hội trong Truyện Kiều. Một 
xã hội đầy dẫy những bất công khiến cho cuộc đời của con người nhất là 
người phụ nữ bị bóc lột hết sức dã man. Đó là xã hội của các thế lực quan 
lại, nhà chứa, và thế lực đồng tiền. Tất cả các thế lực đó hiển hiện một cách 
công khai trong tác phẩm và công khai đè bẹp con người một cách có tổ 
chức mà luôn được công nhận. Trong nhận thức của nhà thơ, ở cái xã hội 
này, kẻ có quyền, có tiền đều độc ác xấu xa, bỉ ổi, mất nhân cách của một 
con người như Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Tú Bà….. Chỉ có những con 
người bị bóc lột mới thực sự là người tốt có đạo đức, biết thương yêu người 
khác. Nó đủ để phản ánh rằng xã hội phong kiến trong Truyện Kiều không 
phải là một xã hội đang thịnh mà là một xã hội đang tàn tạ, đang thối rữa. 
 Và xã hội đó chính là hình bóng của xã hội Việt Nam thời nhà thơ đang 
sống. 
 2.1.2.2. Giá trị nghệ thuật 
 Truyện Kiều của Nguyễn Du là loại truyện thơ Lục bát trường thiên 
ra đời trong thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX- thời đại hoàng kim của 
loại truyện thơ Nôm viết theo thể lục bát. Truyện Kiều của Nguyễn Du 
cũng không thoát khỏi khuôn khổ của nghệ thuật văn chương giai đoạn 
Trung đại. Xét về kết cấu, thì Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng không 
vượt ra khỏi kết cấu theo trình tự thời gian. Lối kết cấu chất phác, đơn giản 
đó nhằm mục đích dễ nhớ, dễ thuộc, dễ kể trong hoàn cảnh mà vấn đề văn 
tự , ấn loát, phổ biến còn phải chịu những điều kiện hạn chế rất ngặt nghèo. 
Kết cấu đó dựa trên ba chặng phát triển tình tiết chủ yếu sau đây: “Hội 
ngộ- Lưu lạc- Đoàn viên”. Truyện Kiều của Nguyễn Du không tránh khỏi 
kết thúc truyền thống đó nhưng nhờ trực giác nghệ thuật mẫn tiệp của 
mình, kết thúc trong tác phẩm có hậu nhưng cũng nói lên được cả cái gì 
“không có hậu” mà các nhà nghiên cứu mệnh danh là “bản cáo trạng cuối 
cùng trong Truyện Kiều”. Kết thúc truyện, Kiều được trở về sum hợp với 
gia đình. Trong buổi tiệc mừng sum hợp, Thuý Vân đã đặt vấn đề trả lại 
chồng cho Kiều. Nhưng giữa Kiều và Kim Trọng chỉ là tình bạn bè mà 
thôi. Kiều không thiết tha gì với tình yêu nữa. Màn đoàn viên “có hậu” về 
cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu” hiện tại sum hợp chẳng đủ 
xua đi bóng đen của quá khứ đang hiện diện phủ phàng. Đó cũng là nỗi đau 
đớn cuối cùng mà Kiều phải chịu đựng 
Xét về thi pháp thì cách kể, cách miêu tả của Nguyễn Du cũng không 
vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ thống thi pháp Trung đại. Cũng vẫn là cách 
kể, cách tả theo tính ước lệ, tượng trưng….. nhưng một điều mà hầu như 
các nhà nghiên cứu Truyện Kiều đều phải công nhận, khẳng định Nguyễn 
 Du là bậc thầy của ngôn ngữ dân tộc, là người đã nâng ngôn ngữ văn học 
dân tộc của thời đại lên đỉnh cao chói lọi. Truyện Kiều là tập đại thành về 
ngôn ngữ dân tộc. Những bút pháp nghệ thuật trong Truyện Kiều dưới ngòi 
bút của Nguyễn Du biến đổi linh hoạt, sinh động, mới mẽ. Thành công của 
Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với 
lịch sử. Truyện Kiều đã đem lại lòng tin cho mọi người về khả năng phong 
phú của Tiếng Việt và khai sáng cho nhiều nhà văn, nhà thơ đời sau về 
phương diện sử dụng ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn chương. 
 2.1.2.3. Chất tự sự, trữ tình trong Truyện Kiều 
 Tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một 
tiểu thuyết chương hồi dài tất cả 20 hồi. Truyện có nhiều tình tiết phức tạp, 
nhiều nhân vật, sự kiện. Nguyễn Du dựa vào đó viết lại dưới hình thức 
truyện thơ Nôm nên những yếu tố tự sự của của tác phẩm vẫn còn thể hiện 
rõ nét trong tác phẩm. Nhìn tổng quát, truyện là một câu chuyện hoàn chỉnh 
về kết cấu, cốt truyện, nội dung. Trong tác phẩm có những đoạn kể, độc 
thoại, đối thoại giữa các nhân vật, những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật đặc 
sắc. Dựa vào cách kể, tả, bình trong 3254 câu Kiều, ta có thể xếp Truyện 
Kiều của Nguyễn Du vào loại tự sự vì ở đây có lời kể, tình tiết, cốt 
truyện…. với các biến cố và hoạt động các nhân vật trong mối liên hệ với 
sự vật…..đồng thời, cũng là nơi bộc lộ cá tính sáng tạo, phong cách riêng, 
tâm trạng điển hình trong những hoàn cảnh cụ thể. 
 Nhìn chung cốt truyện Truyện Kiều của Nguyễn Du giống với cốt 
truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du không 
phải hoàn toàn sáng tác, cũng như không phải dịch truyện mà Nguyễn Du 
viết Truyện Kiều trên cơ sở dựa khá sát vào một câu chuyện sẵn có. Nhưng 
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không phải là một tác 
phẩm xuất sắc trong văn cổ điển Trung Quốc, còn Truyện Kiều lại là một 
 kiệt tác. Chúng ta có thể nói trước nhất Truyện Kiều từ dạng tiểu thuyết 
chương hồi ở dạng văn xuôi của Thanh Tâm được viết lại dưới hình thức 
truyện thơ thể văn vần. Thể loại được tác giả sử dụng ở đây là thể thơ lục 
bát- một thể thơ truyền thống của dân tộc. Chính vì sử dụng thể thơ truyền 
thống của dân tộc nên nó dễ đi vào lòng người bằng những âm điệu ngọt 
ngào.“Khả năng của thể thơ lục bát thuộc lĩnh vực trữ tình. Về phương diện 
này Truyện Kiều có những trang trữ tình ưu tú nhất trong văn học Việt 
Nam.”[51, tr.366]. 
 Truyện Kiều tức là một “truyện”, một tác phẩm tự sự. Nhưng trong 
truyện dù Nguyễn Du có khéo léo giấu mình đến đâu đi nữa thì đôi khi ông 
vẫn bộc lộ mình trên trang sách, trên dòng thơ, trực tiếp nói lên ý nghĩ, tình 
cảm của mình. Như khi kể đến đoạn Thuý Kiều bị Tú Bà đánh “Uốn lưng 
thịt đổ, dập đầu máu sa” nhà thơ cũng đau đớn thốt lên: 
 “Thịt da ai cũng là người, 
 Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau” 
 (Truyện Kiều-Nguyễn Du) 
Rồi đến khi những bọn ‘bán thịt buôn người”, “đầu trâu mặt ngựa” bị Thuý 
Kiều chém đầu trong công đường thì nhà thơ cũng cất tiếng hả hê: 
 “Cho hay muôn sự tại trời 
 Phụ người chẳng bỏ khi người phụ ta 
 Những người bạc ác tinh ma 
 Mình làm mình chịu kêu mà ai thương” 
 (Truyện Kiều-Nguyễn Du) 
Trong Truyện Kiều, yếu tố trữ tình không chỉ bộc lộ ý nghĩ tình cảm 
của tác giả, mà còn bộc lộ tâm trạng của nhân vật chính. “Kiều ở lầu 
Ngưng Bích” hay “Nỗi thương mình” là những trang trữ tình thiết tha, thấm 
thía trong thơ ca Việt Nam. Nhiều khi tiếng nói trữ tình của tác giả cũng 
 nằm ẩn sau tiếng nói của nhân vật. Khi viếng mồ Đạm Tiên, Thuý Kiều 
cũng đã từng than khóc cho phận bạc đó và nó cũng là tiếng khóc của 
Nguyễn Du: 
 “Đau đớn thay phận đàn bà 
 Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” 
 (Truyện Kiều-Nguyễn Du) 
Đây chính là tiếng nói trữ tình thấm thía nhất. Nó là tiếng than đầy nước 
mắt cất lên từ biết bao số kiếp thương đau của những người phụ nữ trong 
cuộc đời khổ ải ngày xưa. 
Hai tính chất tự sự của thể loại truyện và trữ tình của thể loại thơ lục 
bát luôn tồn tại song song trong tác phẩm. Đây chính là một đặc điểm nổi 
bật của Truyện Kiều mà khi hướng dẫn học sinh phân tích lý giải, người 
giáo viên không thể bỏ qua. Khai thác Truyện Kiều trên hai phương diện 
này sẽ giúp chúng ta dễ dàng tìm hiểu nghệ thuật miêu tả tâm lý đặc sắc và 
cảm hứng trữ tình trong tác phẩm. 
2.1.3. Các đoạn trích Truyện Kiều trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 
(2006-2007). 
 2.1.3.1. Đoạn trích “Trao duyên” (Đọc văn tiết tiết 85): trích từ câu 
723-756 là lời Thuý Kiều nói cùng Thuý Vân. Sau quyết định bán mình 
chuộc cha và em, Kiều thức suốt đêm để nghĩ đến Kim Trọng, nàng quyết 
định nhờ Thuý Vân thay mình lấy Kim Trọng để giữ trọn lời thề. Đoạn 
trích mang tích chất là ngôn ngữ đối thoại giữa hai nàng Kiều nhưng thực 
chất nó hầu như chỉ có ngôn ngữ độc thoại của Kiều, Kiều trao duyên và 
than thân trách phận. Thời lượng để giảng dạy tác phẩm này là một tiết. 
Trước đây trong chương trình cải cách năm 2000, đoạn trích Trao duyên 
trên được trích giảng trong hai tiết. 
 2.1.3.2. Đoạn trích “Nỗi thương mình” (Đọc văn tiết 86): trích từ 
câu 1229 đến 1248. Khi bị Mã Giám Sinh đưa đến nhà chứa của Tú Bà, 
Kiều đã tự vẫn để chống lại âm mưu biến nàng thành kĩ nữ nhưng không 
chết. Kiều được Tú Bà cho ra ở lầu Ngưng Bích. Sau đó lại mắc mưu Sở 
Khanh và Tú Bà, nàng buộc phải ra tiếp khách. Đoạn trích tả tình cảnh trớ 
trêu mà Kiều gặp phải và nỗi niềm thương thân xót phận của Kiều. Ngôn 
ngữ chủ yếu trong đoạn trích là độc thoại nội tâm. So với đoạn trích 
“Những nỗi lòng tê tái” (trích từ 1233-1273) trong chương trình cải cách 
năm 2000, thì đoạn trích này ngắn hơn và thời lượng giảm xuống còn một 
tiết. 
 2.1.3.3 .Đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Đọc văn tiết 88): trích từ 
câu 2213-2230. Cuộc đời Thuý Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn khi lần 
thứ hai rơi vào lầu xanh thì Từ Hải xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô 
nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên. Phỉ 
nguyền sánh phượng đẹp duyên cỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng 
với cuộc sống êm đềm cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp 
lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích bao gồm ngôn ngữ 
tác giả và ngôn ngữa đối thoại của Thuý Kiều với Từ Hải. Nội dung đoạn 
trích chính là chí khí anh hùng của Từ Hải và cũng là của Nguyễn Du. 
Đoạn trích này thay cho đoạn trích “Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều” (trích từ 
câu 1519-1526) trong chương trình cải cách năm 2000. Thời lượng giảng 
dạy là một tiết. 
 2.1.3.4. Đoạn trích “Thề nguyền” (Đọc thêm tiết 89): trích từ câu 
431-452. Khi gặp nhau ở tiết thanh minh, giữa Kiều và Kim Trọng “Tình 
trong như đã, mặt ngoài còn e”, Kim Trọng đã thuê nhà trọ gần nhà Thuý 
Kiều để mong có dịp gặp nhau. Sau khi nhặt chiếc thoa Kiều đánh rơi và có 
dịp hẹn ước với nhau, nhân lúc cả gia đình sang chơi bên ngoại, Kiều đã 
 tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, 
Kiều quay trở lại gặp Kim Trọng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó 
trước vầng trăng sáng vằng vặc. Đoạn trích kể về việc Kiều sang nhà Kim 
Trọng và làm lễ thề nguyền. Đoạn trích này có quan hệ gắn bó chặt chẽ với 
đoạn trích “ Trao duyên” đã học trước đó. Đây là đoạn đọc thêm, học sinh 
sẽ tự đọc hiểu đoạn trích. 
2.2. Các hướng dạy truyện Kiều trong trường phổ thông từ trước đến 
nay. 
 2.2.1. Dạy theo hướng thuyết giảng. 
Những đoạn trích Truyện Kiều trong chương trình phổ thông trước 
đây thường dài và yêu cầu đòi hỏi phải chú ý tất cả nội dung, mặt khác do 
cách ra đề bắt buộc học sinh phải thuộc những kiến thức, nên giáo viên khi 
lên lớp ít khi chủ động được thời gian nếu như áp dụng những phương pháp 
dạy học tích cực hiện đại. Thường giáo viên vận dụng phương pháp dạy 
theo hướng thuyết giảng, vừa khống chế được thời gian vừa đảm bảo được 
nội dung kiến thức cần đạt. 
Giáo viên khi lên lớp thường say sưa thuyết giảng truyền miên, hầu 
như học sinh hoàn toàn thụ động hoặc có giáo viên quen dạy theo lối đọc 
chậm cho học sinh ghi bài thậm chí còn chép lại nội dung đã trình bày 
trong sách giáo viên lên bảng để học sinh nhìn bảng chép vào tập và học 
thuộc. Trong tiết dạy, thỉnh thoảng giáo viên cũng đặt câu hỏi, nhưng mức 
độ của câu hỏi đó chỉ dừng lại ở mức độ tái hiện và phát hiện, hiếm có 
những câu hỏi khơi gợi được tính tích cực sáng tạo của học sinh. Giờ học 
hầu như chỉ có giáo viên diễn giảng. 
Theo cách dạy này, học sinh dễ ghi bài và nắm được dung lượng 
kiến thức nhiều. Tuy nhiên học sinh học thụ động, không sáng tạo, không 
phát huy năng lực tư duy của mình. Học sinh lười suy nghĩ, không phát 
 biểu ý kiến. Học sinh không tự tìm đến những giá trị của Truyện Kiều. Tiết 
dạy các đoạn trích Truyện Kiều trở nên khô khan tẻ nhạt dễ gây buồn chán 
cho học sinh, Truyện Kiều không hấp dẫn lôi cuốn học sinh. 
 2.2.2. Dạy tách rời nội dung và hình thức. 
Trong cách dạy này, giáo viên thường tách bạch giữa hai phần nội 
dung và hình thức nghệ thuật, khi giảng giáo viên thường đi sâu vào phân 
tích nội dung bài học còn chi tiết nghệ thuật chỉ đưa ra sơ sài. Cuối bài học 
đi vào tổng kết giá trị nghệ thuật một cách sáo rỗng. Với cách dạy này giáo 
viên sẽ khắc sâu được nội dung bài học cho học sinh. 
Truyện Kiều là tập đại thành về ngôn ngữ. Trong tác phẩm Nguyễn 
Du đã sử dụng tài tình các bút pháp nghệ thuật để thể hiện nội dung sâu sắc 
của tác phẩm. Nhưng với c
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LVVHPPDH003.pdf LVVHPPDH003.pdf