Luận văn Dạy học truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân (ngữ văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp học

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .1

1. Lý do chọn đề tài.1

2. Lịch sử vấn đề .4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.6

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .7

5. Phương pháp nghiên cứu.7

6. Đóng góp của luận văn.7

7. Cấu trúc luận văn .7

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .9

1.1. Cơ sở lý luận .9

1.1.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện hành .9

1.1.2. Khái lược về thi pháp học .11

1.2. Cơ sở thực tiễn.22

1.2.1. Tình hình vận dụng thi pháp trong dạy học tác phẩm văn học trong nhà

trường phổ thông.22

1.2.2. Thực trạng dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân trong chương

trình Ngữ văn 12 .23

Tiểu kết chương 1.29

CHƢƠNG 2. TÍCH CỰC HÓA PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN

VỢ NHẶT CỦA TÁC GIẢ KIM LÂN THEO HƢỚNG TIẾP CẬN THI PHÁPHỌC.

2.1. Một số vấn đề thi pháp trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân .

2.1.1. Cách thức sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu .

2.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống .

2.1.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện .

2.1.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .

2.1.5. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật .

2.1.6. Điểm nhìn trần thuật .

2.2. Kết hợp các phƣơng pháp dạy học tích cực theo hƣớng tiếp cận thi pháp

học đối với tác phẩm Vợ nhặt.

2.2.1. Phương pháp diễn giảng .

2.2.2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề .

2.2.3. Phương pháp đàm thoại.

2.2.4. Phương pháp trực quan .

Tiểu kết chương 2.

CHƢƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM VỚI TÁC PHẨM VỢ NHẶT

CỦA TÁC GIẢ KIM LÂN .

3.1. Giáo án thực nghiệm.

3.2. Thực nghiệm cụ thể bài học .

3.2.1. Mục đích thực nghiệm.

3.2.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thực nghiệm.

3.2.3. Nội dung thực nghiệm .

3.2.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm .

3.2.5. Kết quả thực nghiệm .

3.2.6. Đánh giá kết quả thực nghiệm .

Tiểu kết chương 3.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO .30

PHỤ LỤC

pdf39 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 2155 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dạy học truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân (ngữ văn 12, tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật giáo dục 2005). Trong khi đó, thực trạng dạy học Ngữ văn tại Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy cách dạy học Ngữ văn theo lối bình giảng và cung cấp cho học sinh các kiến thức lí thuyết một cách tách biệt không đáp ứng được nhu cầu học tập của giới trẻ ngày nay và không còn phù hợp với xu thế của giáo dục hiện đại. Kinh nghiệm đổi mới chương trình theo hướng tích hợp và đa dạng hóa các thể loại văn bản được đưa vào nhà trường trong chương trình giáo dục hiện hành cũng đặt cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới chương trình theo hướng đó trong bối cảnh xây dựng chương trình phát triển năng lực nói chung. Nhiều điểm tích cực, tiến bộ của chương trình hiện hành sẽ phải được kế thừa và phát huy hơn nữa. Để phát huy năng lực của học sinh, người viết cho rằng môn Ngữ văn cần đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng như sau: 10 - Một là: Đổi mới từ cách dạy truyền thống thiên về đọc chép sang cách dạy đọc-hiểu Trước đây, chúng ta thường coi phân tích hay giảng văn, bình luận là một phương pháp đặc thù của dạy học văn, theo hướng áp đặt, một chiều. Cách dạy đọc-hiểu giúp học sinh biết cách đọc, cách tiếp cận, khám phá nội dung và nghệ thuật của văn bản theo các mức độ khác nhau từ đọc đúng, đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi dậy ở học sinh khả năng liên tưởng, tưởng tượng, giúp học sinh thực sự được đắm mình trong thế giới văn chương. Từ đó, khơi dậy ở các em tình cảm mang tính thẩm mỹ, biết hướng tới giá trị chân-thiện-mĩ. Học sinh có thể được phát huy năng lực đọc-hiểu các văn bản theo đặc trưng thể loại, các loại văn bản chứa phương tiện biểu đạt như sơ đồ, bảng biểu Việc dạy đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh năng lực đọc-hiểu mà còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. Tức là học sinh có khả năng trình bày, thể hiện suy nghĩ, cảm nhận của bản thân trước đối tượng, vấn đề đặt ra. Điều này sẽ hạn chế được hiện tượng học sinh học hết chương trình lớp 12 vẫn chưa có khả năng tự tạo lập được văn bản theo yêu cầu như văn bản hành chính (đơn xin nghỉ học, đơn xin kết nạp Đoàn). - Hai là: Dạy học tích hợp là tổ chức nội dung dạy học của giáo viên sao cho học sinh có thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành kiến thức, kĩ năng, từ đó phát triển được các năng lực cần thiết. Dạy học tích hợp diễn ra ở ba phân môn Làm văn, Tiếng Việt, Văn học. Có thể tích hợp ba phân môn hoặc tích hợp môn Ngữ văn với các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân. Ngoài giờ lên lớp, tích hợp giữa kiến thức trong sách vở với kiến thức thực tiễn cuộc sống. Nếu chương trình ngữ văn THCS lấy trục tích hợp là các kiểu văn bản như miêu tả, tự sự, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng để học sinh hiểu đặc trưng văn bản theo kiểu loại, từ đó có khả năng tạo lập văn bản thì chương trình ngữ văn THPT lấy trục tích hợp là nội dung đọc-hiểu văn bản và tạo lập văn bản, giúp học sinh phát triển, nâng cao năng lực thưởng thức văn học và năng lực sử dụng tiếng Việt trong các tình huống giao tiếp. 11 Để phát huy tối đa hiệu quả giờ học, ta có thể sử dụng những phương pháp tích cực như: - Đóng vai: có thể cho học sinh đóng vai các nhân vật trong tác phẩm tự sự, kịch hoặc xử lý một tình huống giao tiếp giả định - Dạy học theo dự án: tạo điều kiện cho học sinh thực hiện nhiệm vụ phức hợp giữa lý thuyết và thực tiễn. Theo đó, học sinh phải tự lực cao trong quá trình học tập từ việc xác định mục tiêu, lập kế hoạch đến việc thực hiện dự án, kiểm tra kết quả - Trải nghiệm thực tế, sáng tạo: Học sinh được trải nghiệm thực tế những địa điểm, đối tượng (đang tồn tại trong thực tế) liên quan đến bài học, theo đó sẽ tự rút ra kiến thức cho bản thân Như vậy, để có thể dạy học môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực, đòi hỏi giáo viên phải có năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. Giáo viên không chỉ là người nắm chắc văn bản, kiến thức cần truyền thụ mà cần có khả năng định hướng, dẫn dắt học sinh giải quyết các vấn đề trong thực tiễn; đặc biệt trong xây dựng câu hỏi định hướng cho học sinh chuẩn bị bài, tránh phụ thuộc quá nhiều vào câu hỏi trong sách giáo khoa. 1.1.2. Khái lƣợc về thi pháp học 1.1.2.1. Khái niệm về thi pháp và thi pháp học Thi pháp của Aristote ra đời cách đây hơn 2,000 năm. Trong suốt mấy chục thế kỉ nay, biết bao sách báo về thi pháp đã tiếp tục công trình của ông. Thi pháp cổ điển quy định các chuẩn mực sáng tác anh hùng ca, kịch, thơ,Thi pháp hiện đại không dạy sáng tác thể loại này hay thể loại khác như thế nào mà nó miêu tả các sáng tác, tức là các phương thức nghệ thuật mà các nhà thơ, nhà văn sáng tạo trong tác phẩm của mình. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, “thi pháp là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm ẩn của các tác phẩm: ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học,” [11; tr9] Như vậy, thi pháp là hệ thống nguyên tắc nghệ thuật chi phối sự tạo thành của hệ thống nghệ thuật với các đặc sắc của nó. Thi pháp biểu hiện trên các cấp độ: tác phẩm, thể loại, ngôn ngữ, tác giả và bao trùm là cả nền văn học. 12 Nói cách khác, thi pháp là ý thức của nhà văn khi sáng tạo ra hình thức nghệ thuật. Hình thức nghệ thuật có hai mặt: - Mặt cụ thể, cảm tính (chất liệu tác phẩm, không gian, thời gian, chi tiết, tình tiết, nhân vật, sự kiện, mâu thuẫn, xung đột) - Mặt quan niệm (lí lẽ, nhận thức, triết lí, tư tưởng, tình cảm,) Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp. Cấp độ nghiên cứu thi pháp học các hình thức nghệ thuật (kết cấu, âm điệu, nhịp câu, đối thoại, thời gian, không gian, cú pháp,) yêu cầu đọc tác phẩm như một chỉnh thể. Ở đó, các yếu tố ngôn từ liên kết chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống để biểu đạt tư tưởng, tình cảm, tư duy, nhân sinh quan, tức là cái đẹp của thế giới, con người. Nếu mỹ học là lý luận các nghệ thuật thì thi pháp học chính là mỹ học của văn học. Thi pháp trước hết nghiên cứu các phương thức nghệ thuật, miêu tả các đặc trưng thể loại văn học, từ đó mới tìm tòi các tầng lớp ý nghĩa ẩn giấu của tác phẩm. Tác phẩm văn học còn được một số nhà lý luận khác gọi là hệ thống cấu trúc. Thi pháp học nghiên cứu các cấu trúc ấy. Ký hiệu và cấu trúc là sự vật chất hóa bằng ngôn từ những ý tưởng của các tác giả. Phê bình ký hiệu nhấn mạnh ý nghĩa của các ký hiệu, của từ ngữ, phê bình cấu trúc nhấn mạnh các mối liên hệ bên trong văn bản. Thi pháp học còn bao gồm “phương pháp chủ đề” dựa trên triết học Freud, nó nghiên cứu những “ám ảnh”, những trùng điệp của ám ảnh trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm của một nhà văn. Vậy với thi pháp hiện nay, tác phẩm văn học chỉ tồn tại trong ngôn từ, trong văn bản. Người đọc, người phê bình cần tìm kiếm ý nghĩa tác phẩm trên văn bản ấy. 1.1.2.2. Các bình diện thi pháp cơ bản trong sáng tạo văn học 1.1.2.2.1. Các bình diện thi pháp chung 1.1.2.2.1.1. Thi pháp tác giả Tiếp xúc với văn bản nghệ thuật ngoài việc cảm nhận nội dung khách quan, chúng ta còn giao tiếp với tác giả, đồng cảm với tác giả. Hình tượng tác giả đã đứng ra nói chuyện và giao tiếp với độc giả, vậy chúng ta không nên đồng nhất giữa hai tác giả: tác giả tiểu sử và tác giả nghệ thuật. Hình tượng tác giả có chân dung hành động, ngôn ngữ chứa đựng trong tác phẩm. Đặc biệt có khi tác giả tự miêu tả mình. 13 Nhìn chung, hình tượng tác giả thể hiện trên ba mặt: Cái nhìn; giọng điệu; lập trường (lựa chọn, phân tích, đánh giá). Hình tượng tác giả có vẻ tồn tại như vô hình. Tuy vậy, khi đọc văn, người đọc vẫn có xu hướng đọc theo chỉ dẫn của tác giả, đọc thầm hay đọc thành tiếng theo giọng điệu của tác giả. Cái nhìn và giọng điệu của tác giả vô hình nhưng có thực, luôn luôn tồn tại và ổn định suốt theo tác phẩm. Đó là yếu tố thi pháp quan trọng có thể xác định được dù nó vô hình dạng. Chính vì vậy, thi pháp tác giả là một trong những vấn đề không nên bỏ lỡ khi nghiên cứu một tác phẩm văn học theo hướng thi pháp học. 1.1.2.2.1.2. Thi pháp tác phẩm Thi pháp học hiện đại nghiên cứu tác phẩm như một sản phẩm sáng tạo in đậm dấu ấn của chủ thể nghệ thuật. Nó tiếp cận tác phẩm từ quan niệm mới về chỉnh thể nghệ thuật, tìm mọi cách khắc phục phép nhị nguyên, chia tách giả tạo nội dung và hình thức. Đặc điểm nói trên thể hiện ở thao tác bóc tách các cấp độ của tác phẩm văn học, ở hệ thống phạm trù và nội hàm được trao cho chúng để mô tả các cấp độ ấy. GS. Trần Đình Sử - một trong những người đi đầu trong xu hướng nghiên cứu thi pháp tác phẩm ở Việt Nam thường bóc tách tác phẩm văn học theo ba cấp độ: chỉnh thể - văn bản hình tượng - văn bản ngôn từ. Trong đó, ở cấp độ chỉnh thể, tác phẩm được tiếp cận từ ba phạm trù “cái”: hình thức quan niệm, quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới nghệ thuật. Hình thức trong nghệ thuật là hình thức của khách thể thẩm mĩ được tạo ra trong tác phẩm. Hình thức cảm tính là hình thức bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên của sự vật, và vì thế, nó không thể trở thành đối tượng của khoa học. “Hình thức quan niệm” là hình thức bên trong, loại hình thức thể hiện “logic của hình thức” và tạo ra hình thức. Nó vừa là hình thức của khách thể thẩm mĩ được tạo ra trong tác phẩm, vừa là hình thức của chủ thể, được chủ thể sử dụng để sáng tạo và cảm nhận thế giới. Là sản phẩm sáng tạo của chủ thể để thể hiện quan niệm của chủ thể, hình thức quan niệm vừa in đậm dấu ấn của cá tính sáng tạo, vừa là khuôn mẫu cấu trúc mang tính loại hình. Cho nên, theo Trần Đình Sử, phải lấy “hình thức quan niệm” làm đối tượng chiếm lĩnh, thi pháp học mới có thể “nghiên cứu hình thức nghệ thuật như những hiện tượng có quy luật”. 14 Nếu khái niệm “hình thức quan niệm” chủ yếu xác định bình diện “hình thức”, thì phạm trù quan niệm nghệ thuật về con người chủ yếu xác định bình diện “nội dung” như là đối tượng nghiên cứu của thi pháp học. Ở cấp độ văn bản hình tượng, Trần Đình Sử tiếp cận sáng tác văn học từ hai bình diện: tổ chức chủ quan và tổ chức khách quan. Ông thường sử dụng khái niệm “hình tượng tác giả”, “kiểu tác giả”, “kiểu nhà thơ” để mô tả bình diện cấu trúc chủ quan. Bình diện tổ chức khách quan của sáng tác văn học được ông mô tả chủ yếu bằng hai phạm trù “không gian và thời gian nghệ thuật”. Ứng với hai bình diện chủ quan và khách quan của kết cấu văn bản hình tượng, văn bản ngôn từ được tiếp cận theo hai trục: hệ hình và ngữ đoạn. Trong đó, trục hệ hình được mô tả bằng hai phạm trù “điểm nhìn”, “cái nhìn” và “giọng điệu”. 1.1.2.2.1.3. Thi pháp thể loại Loại thể văn học là: “Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học, vốn đa dạng đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, về một số dấu hiệu nhất định. Các nhóm lớn nhất là những “loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ hơn là những thể (hoặc “thể loại”, “thể tài”) [2, tr.190]. Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là việc dẫn dắt học sinh khám phá, phát hiện, phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Đây là một trong những phương pháp dạy học bổ sung hữu ích cho cách dạy học truyền thống là chú trọng tới các yếu tố bên ngoài tác phẩm nhiều hơn như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội. Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể cũng là yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông hiện nay. Trong cuốn Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12, Phan Trọng Luận đã nhận định: “Một trong những con đường đi vào tác phẩm văn chương là nhận diện được loại thể. Đến với thơ không giống với tự sự hay kịch. Đến với văn học dân gian không hoàn toàn giống như đến với văn học viết. Văn học trung đại và hiện đại có những đặc trưng thủ pháp nghiên cứu riêng. Với văn học dịch cũng cần có cách tiếp cận riêng.” [30]. Truyện có những đặc trưng cơ bản: “tính khách quan trong sự phản ánh; cốt truyện được tổ chức một cách nghệ thuật; nhân vật được miêu tả chi tiết, sống động gắn với hoàn cảnh; phạm vi miêu tả không bị hạn chế về không gian và thời gian; ngôn ngữ linh hoạt, gần với ngôn ngữ đời sống” [29. tr.152]. 15 Như vậy khi giảng dạy các tác phẩm truyện, chúng ta sẽ phải bám sát vào những đặc trưng này để giúp học sinh khám phá, tìm hiểu văn bản trong chương trình đồng thời cũng yêu cầu học sinh vận dụng để tìm hiểu một số văn bản không nằm trong chương trình. 1.1.2.2.1.4. Thi pháp nhân vật Nhân vật là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Thi pháp học xem xét nhân vật ở ba khía cạnh chính: tính cách nhân vật, nghệ thuật miêu tả nhân vật, quan niệm nghệ thuật về con người. - Nhân vật và sự miêu tả nhân vật: Con người vốn là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián tiếp. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát, biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, phê phán nhân vật là phê phán cuộc đời, xót xa cho nhân vật là xót xa cho cuộc đời, và tìm hiểu nhân vật cũng chính là tìm hiểu về cuộc đời, về con người, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả đối với con người. Trong thơ trữ tình có nhân vật trữ tình. Con người bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình. Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí) nhân vật hiện lên thông qua lời văn kể, tả của tác giả. Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học thông qua ngôn ngữ văn học. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự việc, gọi chung là hình thức của văn học. Ở trong văn học, miêu tả thường nhằm hai mục đích: gợi ra hiện tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ, bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó, nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người. - Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mỹ khi xây dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ phận khác của tác phẩm. Đây là kiểu thi pháp cơ bản nhất của văn học nghệ thuật. Thực tế có hai quan niệm nghệ thuật về con người: một là con người như một phạm trù tư tưởng, chính trị, đạo đức xã hội; hai là con người như một phạm trù thẩm mĩ. Quan niệm thứ hai là quan niệm chủ yếu của nhà văn. Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân tích nhân vật là chỉ ra các nội dung được thể hiện trong nhân vật như tính cách, ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn, Trong khi nghiên cứu thi pháp nhân 16 vật phải là sự khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật trong tác phẩm văn học. 1.1.2.2.2. Các bình diện thi pháp truyện ngắn Mỗi loại hình văn học đều có một phương thức biểu hiện riêng. Thơ được nói bằng thứ ngôn ngữ biểu cảm và trùng điệp, còn trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng là sự lựa chọn ngôi trần thuật, cách tổ chức điểm nhìn, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu của mỗi nhà văn sao cho hiệu quả để tạo nên cảm nhận riêng, cách nhìn, cách đánh giá độc đáo về hiện thực thế giới bên ngoài và bao nỗi khắc khoải trong nội tâm con người trong tác phẩm. 1.1.2.2.2.1. Xác định đề tài, chủ đề  Vấn đề đề tài Đề tài là thuật ngữ chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm. Bất kì tác phẩm văn học nào cũng có một đề tài nhất định. Phạm vi cuộc sống trong tác phẩm vô cùng phong phú vì thế đề tài cũng hết sức phong phú, đa dạng. Là một phương tiện khách quan trong nội dung tác phẩm, nó là sự nhận thức, cảm nhận của nhà văn về phạm vi hiện thực cụ thể mà nhà văn lựa chọn và phản ánh trong tác phẩm. Giới hạn phạm vi đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác nhau là cơ sở để nhà văn khái quát chủ đề, xây dựng hình tượng nghệ thuật. Mỗi nhà văn thường có “vùng đất” quen thuộc phù hợp với kinh nghiệm, vốn sống, hứng thú, cá tính của bản thân. Việc xác định đề tài cho phép liên hệ nội dung tác phẩm với một “mảnh đất” nhất định của hiện thực. Trong tác phẩm văn học thường có một hệ thống các đề tài chứ không phải là một đề tài duy nhất. Ví dụ: Nhà văn Kim Lân chuyên viết về đề tài nông thôn Việt Nam trong chiến tranh. - Vấn đề chủ đề Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phương diện chính yếu của đề tài. Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề được nhà văn tập trung soi rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất. Nó thể hiện chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống. 17 Chủ đề thường được bộc lộ qua nhan đề của tác phẩm. Ngoài ra, chủ đề cũng có thể bộc lộ trực tiếp trong lời phát biểu của tác giả, được đặt ra qua việc miêu tả các biến cố, các cảnh ngộ dữ dội, khác thường. Cùng một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có thể nêu ra chủ đề, tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập. Chủ đề thường được biểu hiện qua hệ thống hình tượng, hệ thống nhân vật, nhất là qua hình tượng của nhân vật chính. Chủ đề tác phẩm Vợ nhặt là sự lạc quan của người nông dân lao động Việt Nam trong hoàn cảnh đói khổ tưởng chừng như không lối thoát. 1.1.2.2.2.2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện Từ lâu, cốt truyện đã được công nhận là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên tác phẩm tự sự, cốt truyện có thể sắp ngang bằng với bất cứ chất liệu xây dựng nào trong nghệ thuật. Thuộc phạm trù cách kể, vấn đề tổ chức cốt truyện, vẫn đang được giới nghiên cứu phê bình và lý luận văn học quan tâm đặc biệt. Giáo trình Lý luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, tái bản lần thứ 7 năm 2001 viết: “ cốt truyện là hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [7; tr.137]. Cùng bàn về khái niệm cốt truyện, cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi biên soạn đưa ra nhận định cốt truyện là “hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản quan trọng nhất trong hình thức vận động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch (). Có thể tìm thấy qua cốt truyện hai phương diện hữu cơ: Một mặt cốt truyện là một phương diện cơ bản bộc lộ tính cách, nhờ cốt truyện mà tác giả thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách. Mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội.” [9; tr.99-100]. Như vậy, “cốt truyện” trong loại tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng thường được hình dung là “cốt” của câu chuyện. Nghiên cứu nó, người ta thường nói đến nhân vật, lời kể, sự kiện, hoặc biến cố trong thế tách rời và như thế cốt truyện dường như được xem là một hiện tượng tĩnh. 18 Việc tổ chức, sắp xếp cốt truyện như thế nào để mang lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất là cả một câu chuyện lớn của sáng tạo nghệ thuật. Nói đến nghệ thuật tổ chức cốt truyện là nói đến sự dẫn dắt, sự tổ chức, phương thức thể hiện như thế nào và bằng những thủ pháp nghệ thuật gì. Khái niệm nghệ thuật tổ chức cốt truyện vì vậy ra đời có tính thao tác. Cốt truyện cần được xem xét và nghiên cứu như một hiện tượng sống động, một chỉnh thể nghệ thuật có tính hệ thống và luôn có sự vận động nội tại giữa các thành tố làm nên hệ thống đó. 1.1.2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Thế giới nhân vật bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung và trực tiếp cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật bao giờ cũng theo cách hình dung và cảm nhận của riêng mình. Bởi vì, sự sáng tạo nghệ thuật là một sự thống nhất biện chứng giữa khách thể và chủ thể, hướng nội và hướng ngoại. B.Brếch đã từng nhận xét rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người sống, mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ, tư tưởng của tác giả” [41; tr.210]. Đó là phương tiện tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng trong các tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn nói riêng. Nó là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức của các tác phẩm ấy, quyết định phần lớn: vừa cốt truyện, vừa lựa chọn chi tiết, vừa phương tiện ngôn ngữ và thậm chí là cả kết cấu. “Nhà nghệ sĩ giỏi là nhà nghệ sĩ tạo ra những nhân vật thật và hoạt động ngoài những tính cách và đặc điểm của các địa vị xã hội, tìm đến cái bí mật không tả được ở trong mỗi con người” [5; tr.288]. 1.1.2.2.2.4. Nghệ thuật trần thuật Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã thống nhất quan niệm: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự” [9; tr.248]. Cùng với quan niệm đó, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học xác định cụ thể: “Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của của hình tượng văn học, 19 truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần khác nhau của văn bản [32; tr.307]. Từ quan niệm đó, ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn nhất định. Nghệ thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, nó có tác dụng soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nhà văn. Nghệ thuật trần thuật giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của mỗi nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận và giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những sáng tạo, những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển truyện ngắn nói riêng và quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung. 1.1.2.2.2.5. Thời gian và không gian nghệ thuật - Thời gian nghệ thuật Trong triết học, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian chính là phương thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Theo Từ điển thuật ngữ Văn học, thời gian chính là “hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật, trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật”. Như vậy, thời gian nghệ thuật chính là thời gian ta có thể chiêm nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp điệu nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật không mang tính khách quan, mà gắn với cảm nhận chủ quan của con người. Thời gian nghệ thuật còn gắn với việc tác giả tổ chức chất liệu. Chất liệu văn học sẽ ghi khắc, in dấu cố định diễn trình thời gian. Ngoài ra, thời gian nghệ thuật còn là biểu tượng nên nó mang tính quan niệm, tư tưởng của nhà văn về cuộc sống. Thời gian nghệ thuật là thời gian được tổ chức lại từ thời gian thực tại khách quan tự nhiên, do vậy, tác giả văn học có thể tua nhanh, làm chậm, đan xen, xếp chồng, nhảy cóc tùy theo ý đồ sáng tác. Chúng ta có thể xem xét về biểu hiện của thời gian nghệ thuật trong tác phẩm thông qua các 20 từ ngữ chỉ thời gian theo: năm tháng, tuổi tác, các mùa, các chiều thời gian như hiện tại, quá khứ, tương lai, - Không gian nghệ thuật Cùng với thời gian, không gian cũng là một phạm trù triết học, là hình thức tồn tại của thế giới hiện thực. Nhưng không gian trong nghệ thuật lại khác với không gian thực tế. Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ về không gian, có giá trị về tình cảm nên nó mang tính chủ quan của người sáng tác . Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì không gian nghệ thuật là “hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quán tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, cách quãng, tiếp nối, cao thấp, xa, gần, rộng, dài tạo nên viễn cảnh nghệ thuật”. Không gian nghệ thuật trong tác phẩm có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf05050002729_6848_2006264.pdf
Tài liệu liên quan