MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: SỰ CẦN THIẾT XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA VÀ KINH NGHIỆM XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC 5
1.1. Xuất khẩu lao động và thị trường lao động 5
1.2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở nước ta 7
1.3. Tình hình xuất khẩu lao động của một số nước trong khu vực 17
Chương 2: TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA NHỮNG THẬP KỶ QUA 24
2.1. Tình hình xuất khẩu lao động của nước ta thời kỳ 1980-1990 24
2.2. Tình hình xuất khẩu lao động của nước ta từ 1991 đến nay 30
2.3. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ công tác xuất khẩu lao động 41
Chương 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 46
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của nước ta 46
3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta thời gian tới 53
3.2.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế 53
3.2.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn và đào tạo bồi dưỡng nguồn lao động phục vụ cho chương trình xuất khẩu lao động 55
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện chính sách tài chính phục vụ cho công tác xuất khẩu lao động 59
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu
lao động 62
3.2.5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối với chương trình xuất khẩu lao động 64
3.2.6. Xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp của cả tổ chức và
cá nhân 65
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ CÔNG BỐ 74
PHỤ LỤC 75
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chủ quan, vì hợp tác quốc tế về lao động là một công việc mới mẻ đối với nước ta, chúng ta còn thiếu kinh nghiệm về tổ chức quản lý, bộ máy tổ chức quản lý chưa chặt chẽ, chưa phát huy được tính năng động của các tổ chức trong việc tìm kiếm việc làm và ký kết hợp đồng. Sự phân bố chỉ tiêu của ủy ban kế hoạch Nhà nước cho các bộ, ngành, các cơ quan Trung ương và địa phương có tính chủ quan, do vậy quá trình hoạt động không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót.
2.2. Tình hình XKLĐ của nước ta từ 1991 đến nay
Bước sang thập kỷ 90 tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trên thế giới có nhiều biến động phức tạp. Hệ thống XHCN ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ, thị trường truyền thống, trong đó có thị trường lao động, của ta hoặc không còn hoặc bị thu hẹp. Lực lượng lao động Việt Nam ở các nước này phải trở về đông, khiến cho vấn đề giải quyết việc làm càng trở nên phức tạp. Bên cạnh đó chiến tranh vùng Vịnh xảy ra đã làm giảm số người lao động của nước ta đến làm việc ở các nước trong vùng này (năm 1991: 1020 người; năm 1992: 810 người). Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có chỉ thị 73CT ngày 13/03/1990 về việc tạm ngừng đưa người lao động đi để củng cố, chấn chỉnh hoạt động XKLĐ.
Năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 370/HĐBT ngày 9/11/1991 về quy chế đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và Bộ Lao động thương binh và xã hội đã ra thông tư hướng dẫn số 08/LĐTB-XH-TT. Theo cơ chế mới này các tổ chức dịch vụ Hợp tác lao động được thành lập. Tuy nhiên do còn nhiều bỡ ngỡ nên số lượng lao động xuất khẩu thời kỳ đầu của ta rất thấp (tính đến năm 1995 số lượng lao động xuất khẩu của ta mới đạt 23.230 người). Để thúc đẩy phát triển xuất khẩu lao động, ngày 20/01/1995 Chính phủ ra nghị định số 07-CP quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trong nghị định nêu rõ: "Đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa - khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nhau". Những chủ trương này được tiếp tục hoàn thiện trong chỉ thị 41-CT/TW ngày 22/09/1998 của Bộ chính trị và Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/09/1999 của Chính phủ.
Bằng các chỉ thị và nghị định này, cơ chế XKLĐ của nước ta đã được đổi mới một cách cơ bản. Chính phủ chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp đủ điều kiện quy định hoạt động trong lĩnh vực XKLĐ được phép trực tiếp ký kết các hợp đồng cung ứng lao động. Các doanh nghiệp cũng được phép tuyển chọn, tổ chức XKLĐ và bảo đảm quyền lợi cho người lao động và cho doanh nghiệp theo quy định của Pháp luật Việt Nam.
Đến nay, theo tổng kết của bộ Lao động thương binh và xã hội, cả nước đã có 127 doanh nghiệp được phép XKLĐ. Bước đầu chưa quen, hoạt động của các doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót, hạn chế, nhưng thông qua quá trình vừa hoạt động, vừa tìm hiểu nghiên cứu thị trường, học tập kinh nghiệm các nước và học tập lẫn nhau, các doanh nghiệp đã từng bước tiếp cận những thị trường mới và mở ra khả năng to lớn cho việc đưa người lao động đi làm việc ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau trên toàn thế giới.
2.2.1. Những thành tựu của công tác XKLĐ từ 1991 đến nay
a) Về số lượng lao động
Từ năm 1991 đến hết năm 1999 ta đã có 89.140 lao động và chuyên gia đi làm việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ.
Theo số liệu của Cục quản lý lao động với nước ngoài và theo Tạp chí việc làm ngoài nước số 6/1999 số lượng của ta đi xuất khẩu hàng năm như sau:
Bảng 14: Số lượng lao động xuất khẩu từ năm 1991 - 1999
Năm
Số lao động xuất khẩu (người)
Tổng số lao động
Lao động nữ
1991
1.020
1992
810
100 (chiếm 12,34%)
1993
3.960
358 (chiếm 9,04%)
1994
9.230
986 (chiếm 10,68%)
1995
10.050
1.723 (chiếm 17,14%)
1996
12.660
2.065 (chiếm 16,31%)
1997
18.470
1.974 (chiếm 10,69%)
1998
12.240
1999
20.700
[6, tr. 13]
Trong những năm qua, năm 1997 và năm 1999 là 2 năm ta có số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài đông nhất. Năm 1998: 12.240 người bằng 69% năm 1997 và bằng 59% năm 1999. Tuy nhiên, trong điều kiện cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra ở châu á, các nước vốn nhận nhiều lao động, trong đó có Hàn Quốc, đã hạn chế hoặc cấm nhập khẩu lao động để giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế - thì số lượng XKLĐ của ta như vậy là một sự nỗ lực lớn.
b) Về ngành nghề lao động: Từ năm 1991 đến nay, ngành nghề của người lao động của ta đi làm việc ở nước ngoài đã phong phú đa dạng hơn. Nhiều nghề đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và có mức thu nhập cao đã được ta tiếp cận, như thuyền viên tàu cá và tàu vận tải. Từ tháng 11/1999 chúng ta đã đưa người sang làm giúp việc gia đình tại Đài Loan. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, hiện đang còn có những ý kiến khác nhau trên cả các phương tiện thông tin và dư luận xã hội, nhưng đã mở ra một thị trường mới cho công tác XKLĐ của ta. Tuy nhiên việc thực hiện đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan chức năng phải có sự chỉ đạo cụ thể sát sao, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để vừa có thể tăng số lượng lao động xuất khẩu trên lĩnh vực này đồng thời bảo vệ được quyền lợi của người phụ nữ Việt Nam.
Bảng 15: Số lượng lao động chia theo ngành nghề tiếp nhận làm việc ở các nước
Ngành nghề
Số lượng (người)
Xây dựng
23.000
Cơ khí
8.000
Mộc
1.500
Dệt may
11.000
Thuyền viên vận tải
5.500
Thuyền viên tàu cá
9.000
Chuyên gia giáo dục, y tế Nhà nước
1.500
Các ngành nghề lao động phổ thông
29.640
[6, tr.13]
c) Thị trường XKLĐ: Trước đây thị trường lao động của ta chỉ bó hẹp trong 4 nước XHCN và một vài nước ở châu Phi, Irắc. Bước sang giai đoạn 1991 - 2000, thị trường lao động của ta đã được mở rộng đáng kể. Theo báo cáo của Bộ Lao động Thương binh - xã hội đầu tháng 6/2000, lao động Việt Nam đang làm việc ở 33 nước trên thế giới. Thị trường lao động của ta lúc này tập trung chủ yếu ở các nước mà giai đoạn trước đây họ chưa từng nhận lao động Việt Nam.
- Khu vực Đông Bắc á: được tập trung chủ yếu ở 3 nước: Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan.
- Khu vực Đông Nam á: tập trung chủ yếu ở Lào.
- ở Trung Đông và Bắc Phi: lao động của ta tập trung ở Kuwait, các Tiểu vương quốc ả Rập thống nhất và ở Libya.
- Châu Phi: Lao động Việt Nam ở đó chủ yếu là các chuyên gia giáo dục, y tế, nông nghiệp được tập trung ở Mozambique, Benanh và Senegal.
Thuyền viên Việt Nam làm việc ở nhiều hãng tàu thuộc nhiều quốc tịch khác nhau.
ở một số thị trường khác, lao động Việt Nam đã thâm nhập vào nhưng với số lượng nhỏ, như một số khu vực thuộc Hoa Kỳ: Saipan Samoa và Cộng hòa Palau. Đây là thị trường đang hứa hẹn nhiều triển vọng cho lao động Việt Nam với số lượng ngày một lớn hơn.
Một số thị trường chính đang nhận lao động Việt Nam
- Nhật Bản: Nước được coi là có chính sách đóng cửa đối với lao động nước ngoài. Tuy nhiên đến năm 1990, Nhật Bản đã cho phép tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển. Việt Nam bắt đầu đưa người sang tu nghiệp tại Nhật Bản vào năm 1992. Từ đó đến nay, số lượng tu nghiệp sinh tại Nhật có quy mô ngày một lớn.
Bảng 16: Quy mô lao động Việt Nam ở Nhật (Riêng năm 1999, chỉ tính số lao động đi theo giấy phép của Cục quản lý lao động Nhà nước)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lao động
17
292
266
1.007
1.313
2.009
2.136
2.004
[29, tr.6]
- Hàn Quốc: Giống như Nhật, Hàn Quốc chỉ nhận lao động nước ngoài là tu nghiệp sinh từ năm 1992. Trong giai đoạn đầu, Hàn Quốc quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo quốc tịch. Về sau, do có nhiều vấn đề phát sinh nên Hàn Quốc quy định cho tu nghiệp sinh hưởng mức lương tối thiểu.
Bảng 17: Quy mô lao động Việt Nam ở Hàn Quốc(Tính cả thuyền viên tàu đánh cá)
Năm
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lao động
56
1.352
4.378
5.674
6.275
4.880
1.322
4.600
[29, tr. 7]
- Đài Loan: Đây là thị trường có nhu cầu lao động nước ngoài cao (300.000). Từ đầu những năm 90, Đài Loan nhận lao động từ Thái Lan, Philipin, Malaysia, Indonexia. Cuối năm 1999, Đài Loan bắt đầu nhận lao động Việt Nam.
Hiện nay lao động Thái Lan và Philipin chiếm phần lớn trong thị trường này. (Thái Lan có 133.000 lao động chiếm 49,28%; Philipin có 114.000 lao động chiếm 42,22%).
- CHDCND Lào: là một nước có dân số ít, lại ở bên cạnh Việt Nam và có tình hữu nghị đặc biệt giữa hai dân tộc, Lào được xác định là một thị trường lao động trọng điểm của Việt Nam. Vì Lào là một nước kinh tế chưa phát triển, việc cung ứng lao động cho nước này chiếm tỷ trọng không lớn. Hình thức chủ yếu là đưa lao động Việt Nam sang nhận thầu khoán công trình hoặc thực hiện liên doanh liên kết giữa Chính phủ 2 nước hoặc các bộ ngành địa phương của hai bên. Thời kỳ 1991 - 1999, ta đưa sang Lào 28.000 lao động.
- Các nước Trung đông: Do sự phát triển của các ngành công nghiệp dẫn đến nhu cầu về dầu mỏ trên thế giới tăng cao. Là nơi tập trung phần lớn trữ lượng dầu mỏ của thế giới, khu vực Trung Đông đã tiếp nhận nhiều lao động từ các nước phục vụ cho công nghiệp dầu và các ngành kinh tế khác.
Trước đây ta đã đưa lao động sang Irắc, Libya,... Khi cuộc chiến tranh vùng Vịnh nổ ra, hầu hết lao động của ta ở Irắc đã về nước. ở Lybya, ta đã đưa sang được 10.000 lao động. Gần đây ta mở thêm một số thị trường lao động mới ở Kuwait, các Tiểu vương quốc ả Rập thống nhất (UAE). Tuy nhiên do đặc điểm khí hậu - thời tiết, phong tục tập quán và tôn giáo của các nước Trung Đông có sự khác biệt tương đối lớn so với nước ta, hơn nữa nhu cầu chủ yếu của các nước này là lao động có nghề, mức lương lại thấp không bằng các nước Đông Bắc á nên việc thâm nhập các thị trường ở khu vực Trung Đông rất khó khăn.
d) Hiệu quả kinh tế - xã hội của công tác XKLĐ thời kỳ 1991 - 1999
Mặc dù còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót, XKLĐ đã đóng góp một phần không nhỏ vào những thành tựu chung của nền kinh tế, đặc biệt là trong việc thực hiện chương trình quốc gia về việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống và tháo gỡ nhiều khó khăn cho cả gia đình người lao động và cho nền kinh tế đất nước. Hiệu quả của công tác XKLĐ trong những năm qua có thể xem xét trên hai phương diện sau:
Về kinh tế: Trong 9 năm 1991 - 1999 chúng ta đã đưa đi xuất khẩu 89.140 người lao động và chuyên gia so với 10 năm 1980 - 1990 thì số lao động này chỉ bằng 30%. Tuy nhiên hiệu quả kinh tế trong giai đoạn này lớn hơn: Chỉ riêng 4 năm 1991 - 1994 với số lượng 14 nghìn lao động được các tổ chức dịch vụ hợp tác lao động đưa đi đã thu về cho Nhà nước khoảng 300 triệu USD. Hai năm 1996 - 1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao động của ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước ngoài thì con số lao động vào khoảng 250.000 và thu nhập hàng năm lên tới khoảng 1 tỷ USD [11, tr. 3]. Đây là doanh số mà chỉ một số ít ngành sản xuất trong nước đạt được.
Mặt khác, nhờ XKLĐ thời gian qua đã giảm được đáng kể khoản đầu tư trong nước cho việc đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc. Theo báo cáo của Bộ lao động thương binh và xã hội, để có một chỗ làm việc cho người có tay nghề cao trong ngành công nghiệp nặng Nhà nước phải tốn khoảng 100 triệu đồng, với người có tay nghề trung bình, con số đó là 30 - 35 triệu còn trong tiểu thủ công nghiệp phải đầu tư từ 10 - 15 triệu đồng [4, tr. 21].
Ngoài ra với chương trình hợp tác lao động, chúng ta đã tranh thủ được nguồn tài trợ của nhiều nước để tạo việc làm cho số người lao động của ta về nước sau khi hợp đồng hết hạn góp phần ổn địnhh và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài có mức thu nhập cao hơn từ 4 - 6 lần thu nhập của người có việc làm trong nước [4, tr. 21]. Chẳng hạn lao động giúp việc gia đình ở Đài Loan có mức thu nhập khoảng 300 USD/tháng [31, tr. 16] đã bằng thu nhập bình quân đầu người của ta trong cả năm. Với các loại hình lao động có nghề như cơ khí, mộc, may mặc đặc biệt là những lao động có trình độ cao như kỹ sư, chuyên gia, thợ lành nghề... mức lương của họ cao hơn gấp nhiều lần. Ngoài ra với bản chất cần cù chịu khó, người lao động Việt Nam ở nước ngoài luôn tìm được việc làm thêm ngoài giờ nên còn được thêm tiền thưởng và các thu nhập khác. Do vậy XKLĐ là một cơ hội tốt để người lao động tích lũy vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
Mặc dù số lượng lao động xuất khẩu chưa đáp ứng được yêu cầu và tiềm năng của đất nước, nhưng có xu hướng tăng: Năm 1991 là 1020 người; năm 1992 là 810 người; năm 1993 là 3.960 người; năm 1994 là 9.230 người; năm 1995 là 10.050 người; năm 1996 là 12.660 người; năm 1997 là 18.420 người; năm 1998 là 12.240 và năm 1999 là 20.700 người.
"Đến hết năm 2000, chúng ta đang phấn đấu đưa đi khoảng 150.000 lao động và sau năm 2000 con số này là 200.000 hoặc 250.000 hàng năm, để chúng ta có thường xuyên khoảng 400.000 đến 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài" [4, tr. 4].
Như vậy, XKLĐ là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện chương trình Quốc gia về việc làm trong những năm qua và trong thời gian tới.
Thông qua làm việc ở nước ngoài, người lao động thực sự đã nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu và mang về nước tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, góp phần từng bước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển nguồn nhân lực của quốc gia trong tương lai.
2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót của công tác XKLĐ từ năm 1991 đến nay và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó
Khi nền kinh tế của ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, các chính sách về XKLĐ cũng được ban hành phù hợp với cơ chế mới. Tuy nhiên trong lĩnh vực này vẫn còn những nhược điểm sau:
a) Việc cụ thể hóa chủ trương XKLĐ ở các cấp ngành trong thời gian đầu còn chậm chạp và thiếu đồng bộ, chưa mạnh dạn đột phá mở rộng thị trường XKLĐ do vậy số lượng lao động xuất khẩu trong thời gian này còn ít. (năm 1991: 1020 người; năm 1992: 810 người; năm 1993: 3.960 người; năm 1994: 9.230 người).
Nước ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội vào các thị trường có nhu cầu sử dụng lực lượng lao động nước ngoài lớn như thị trường Trung Đông, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông,...
b) Chưa có các văn bản pháp lệnh về công tác XKLĐ, việc quản lý người lao động chưa chặt chẽ. Nhiều người lao động đã tự ý phá bỏ hợp đồng gây mất lòng tin cho phía đối tác và làm tổn hại trên nhiều phương diện cho các công ty cung ứng lao động Việt Nam.
Tại thị trường Hàn Quốc năm 1994 có 3 Công ty Việt Nam ký hợp đồng đưa lao động của ta sang Hàn Quốc. Ba Công ty này đã đưa đi được 3.748 người, trong số này có 55,3% số người bỏ hợp đồng.
Năm 1996 có 8 Công ty cung ứng lao động Việt Nam đưa 4.595 người sang Hàn Quốc. Mặc dù có sự cải tiến về cả tuyển chọn và giáo dục đào tạo nhưng con số phá bỏ hợp đồng vẫn còn 7,26%.
Tại thời điểm tháng 6/1999, Việt Nam có khoảng 9.600 người lao động tại Hàn Quốc, trong đó có tới 3.500 người vi phạm, tự phá bỏ hợp đồng và có 600 người đi du lịch ở lại bất hợp pháp [4, tr.7].
Để đi sang Nhật, người lao động Việt Nam phải trải qua nhiều giai đoạn phức tạp về thủ tục hành chính và cả yêu cầu đào tạo, nhưng mức thu nhập cao. Tuy nhiên, số lượng người lao động bỏ hợp đồng đi tìm chỗ khác lương cao hơn chiếm tới 9,75%, một tỷ lệ cao nhất so với lao động của các nước khác ở Nhật (tỷ lệ này của Trung Quốc là 1,04%; của Thái Lan là 0,91%; của Philipin là 2,07%; của Inđonexia là 2,54%) [29, tr.7].
Công tác quản lý vi mô còn lỏng lẻo, việc phổ cập thông tin đến người lao động còn ít. Do vậy, nhiều người lao động khi đi phải qua nhiều khâu trung gian, nộp nhiều tiền có nơi đi Nhật phải nộp tới 5.000 USD, đi Hàn Quốc là 4.000 USD và đi Đài Loan gần 3.000 USD.
Do chủ trương cho phép các thành phần kinh tế tham gia XKLĐ, nhiều công ty, doanh nghiệp được cấp giấy phép làm dịch vụ XKLĐ. Điều này một mặt khuyến khích khai thác tốt các thị trường XKLĐ, tăng số lượng XKLĐ trên mọi địa bàn, mặt khác đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Một số công ty do trình độ kém, không nắm chắc thị trường và công ty môi giới của phía đối tác nên còn nhiều sơ hở trong làm hợp đồng cung ứng lao động gây thiệt hại nghiêm trọng cho cả người lao động lẫn uy tín của các công ty dịch vụ XKLĐ Việt Nam.
c) Thủ tục hành chính còn rườm rà nhất là thủ tục về nhân sự. Mặc dù đã có quy định là thời gian làm thủ tục không quá 2 tuần nhưng ở hầu hết các công ty thời gian này thường kéo dài cả tháng và lâu hơn nữa. Điều đó làm cho tâm lý của người đi bị căng thẳng do chờ đợi, đồng thời đây cũng là nguyên nhân phát sinh các tiêu cực khác.
Công tác xét duyệt, tuyển chọn, đào tạo đội ngũ lao động phục vụ cho chương trình XKLĐ trong thời gian qua còn nhiều nhược điểm. Hệ thống cơ sở đào tạo cho lao động đi làm việc ở nước ngoài chưa được hình thành. Nội dung chương trình đào tạo cho lao động chưa thống nhất. Đặc biệt là ta chưa xây dựng được một kế hoạch đào tạo nguồn lao động đáp ứng với đề án XKLĐ cho thời kỳ 2000 - 2020. Quá trình xuất khẩu lao động của ta chủ yếu dựa vào sự lựa chọn lao động từ nguồn có sẵn trong xã hội. Kế hoạch của các cơ sở đào tạo nghề mới chỉ nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước mà chưa tính đến nhu cầu XKLĐ. Cũng do tuyển chọn đào tạo chưa tốt nên chất lượng lao động chưa cao. Hầu hết các chủ nước ngoài đều cho rằng điểm hạn chế của lao động nước ta là trình độ ngoại ngữ kém và thể lực chưa tốt. Một số chuyên gia nước ngoài nhận xét lao động Việt Nam ngại chịu trách nhiệm, thiếu kỹ năng và kinh nghiệm trong tổ chức quản lý, chưa quen với kỷ luật chuẩn mực và thông lệ quốc tế làm việc thiếu tính khoa học... Một số người xấu đi ra nước ngoài không vì mục đích lao động gây nên tình trạng lộn xộn, buôn bán trái phép, tham gia vào các băng đảng, gây rối...
d) Chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều hiện tượng tiêu cực như khai man lý lịch, chạy chọt để qua các vòng khám tuyển,... và khi đi không đủ tiêu chuẩn về ngoại ngữ và trình độ nghề nghiệp, sau khi bàn giao lao động, phía đối tác kiểm tra và trả về, đã gây ảnh hưởng tới uy tín của tổ chức đưa đi và thiệt hại về kinh tế cho người lao động.
Các cơ quan chức năng của nước ta và nước hữu quan chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, chưa có sự phân loại theo trình độ lành nghề để trả lương nên những công nhân có tay nghề cao thường tự ý phá bỏ hợp đồng để tìm đến những nơi có thu nhập và điều kiện làm việc tốt hơn.
e) XKLĐ là một chính sách kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với tầng lớp người nghèo, nhưng trong hiện thực XKLĐ ở nước ta dường như vẫn chỉ là chính sách cho người giàu, chưa có những giải pháp thiết thực để người nghèo cũng có thể tham gia xuất khẩu lao động. Vì thế chính sách XKLĐ chưa thực sự đi vào đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân.
g) Các doanh nghiệp được phép XKLĐ còn chạy theo lợi ích riêng trước mắt, chưa kết hợp lợi ích của công ty với lợi ích của quốc gia và người lao động. Do vậy ký kết hợp đồng để trả lương người lao động chưa thỏa đáng. Mặt khác, chi phí để làm thủ tục đi lao động quá lớn khiến nhiều người lao động phải mang gánh nặng nợ nần. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến người lao động tự phá bỏ hợp đồng để đi tìm việc làm khác có mức thu nhập cao hơn nhằm sớm trả được nợ.
2.3. Những bài học kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ công tác xuất khẩu lao động
Tìm ra những bài học kinh nghiệm là điều cần thiết giúp cho công tác XKLĐ của ta đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn 20 năm hợp tác và XKLĐ có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
2.3.1. Phải coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội của công tác XKLĐ
Trong giai đoạn trước quan niệm rằng bạn giúp ta, ta giúp bạn, lấy hợp tác hữu nghị làm nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt cho quá trình hợp tác lao động, nên hiệu quả kinh tế chưa được coi trọng đúng mức. Chính vì vậy lợi ích kinh tế mang lại trong chương trình hợp tác lao động không tương xứng với lực lượng mà chúng ta cử đi.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường lại thiên về lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích trước mắt. Lợi ích xã hội, lợi ích lâu dài bị xem nhẹ. Do vậy thị trường lao động truyền thống bị bỏ rơi, các hành vi tiêu cực trong XKLĐ chưa được kiểm soát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh.
Để XKLĐ trong thời gian tới đạt hiệu quả tổng hợp cao phải coi XKLĐ vừa là chính sách kinh tế vừa là chính sách xã hội và là một trong những giải pháp quan trọng góp phần tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong cả hiện tại và tương lai. Trong XKLĐ phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm đầu đồng thời phải coi trọng những ảnh hưởng khác của nó. Quan điểm này phải được thấu suốt ở mọi cấp mọi ngành, ở mọi doanh nghiệp và ở từng người lao động.
2.3.2. Phải có một bộ máy tổ chức quản lý phù hợp đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của công tác XKLĐ
Hiệu quả của công tác XKLĐ phụ thuộc vào hai nhân tố chính:
Một là, đội ngũ các doanh nghiệp tham gia XKLĐ. Đây là nơi tuyển chọn, đào tạo, bàn giao lao động cho phía đối tác theo hợp đồng. Nếu việc tuyển chọn kỹ kàng, công tác đào tạo đáp ứng được yêu cầu công việc thì lao động của ta càng ngày càng có uy tín trên thị trường quốc tế. Do vậy, việc chấn chỉnh lại các doanh nghiệp, kiên quyết thu lại giấy phép XKLĐ của những đơn vị làm ăn kém hiệu quả, vi phạm pháp luật là điều cần thiết. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình đẳng và ngày càng nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động.
Hai là, các tổ chức đại diện của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Trong thời gian qua, trên nhiều thị trường lao động ta chưa có tổ chức đại diện quyền lợi của người lao động hoặc có nhưng hoạt động hiệu quả chưa cao. Việc bảo vệ quyền lợi hoặc can thiệp khi có tranh chấp hợp đồng lao động chủ yếu do cơ quan ngoại giao của ta đảm nhận, nên nhiều mâu thuẫn bức xúc xảy ra mà chưa được giải quyết kịp thời, đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Do vậy việc xây dựng bộ máy quản lý lao động ở nước ngoài với một đội ngũ cán bộ có trình độ, biết cách tiếp cận, mở rộng thị trường, cung cấp thông tin chính xác cho các doanh nghiệp và người lao động, đồng thời xử lý tốt các tình huống xảy ra là điều kiện căn bản để người lao động của ta được đối xử công bằng và đúng theo hợp đồng đã ký kết.
2.3.3. Phải nhanh nhạy trong nghiên cứu, tiếp cận, mở rộng thị trường mới, đồng thời duy trì, củng cố và giữ vững thị trường truyền thống
Việc mở rộng thị trường có quan hệ trực tiếp đến sự gia tăng về số lượng lao động trong quá trình xuất khẩu. Hội nghị triển khai nghị quyết Trung ương IV khóa VIII của bộ lao động Thương binh và xã hội đã thừa nhận: Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội đưa lao động vào các thị trường có nhu cầu sử dụng một lực lượng lớn lao động của ta như thị trường Trung Đông, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản... Việc nghiên cứu, tiếp cận và sự am hiểu về thị trường lao động của ta còn hạn chế. Do vậy, việc chuẩn bị về mọi mặt cho người lao động và các tổ chức quản lý chưa thật chu đáo...
Bên cạnh đó, theo trào lưu chung, các tổ chức XKLĐ cũng như các cơ quan quản lý và lao động đều tập trung chú trọng vào các thị trường lao động mới. Các thị trường truyền thống bị xem nhẹ. Quá trình đào tạo ngoại ngữ cũng chỉ tập trung cho tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung. Tiếng Nga trước đây đã từng một thời gắn bó với nhiều thế hệ người lao động, học sinh, sinh viên Việt Nam đã có chiều hướng mai một và quên lãng. Trong một tương lai không xa, nước Nga và các nước Đông Âu hồi phục, nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài tăng cao, cùng với chiến lược nghiêng về châu á của các nước này, thì nguồn lao động Việt Nam sẽ không đáp ứng kịp mà trước hết là trình độ ngoại ngữ kém. Chính vì vậy cần duy trì, củng cố và giữ vững các thị trường này bằng việc nghiên cứu, tiếp cận lại và chuẩn bị nguồn nhân lực ngay từ bây giờ để cung ứng kịp thời khi các thị trường này đòi hỏi.
kết luận chương 2
Trải qua hai giai đoạn, tương ứng với hai cơ chế quản lý kinh tế khác nhau, xuất khẩu lao động cũng mang những tên gọi khác nhau.
Trong thập niên 80 - 90 XKLĐ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và quan hệ tương trợ, giúp đõ lẫn nhau giữa các nước XHCN. 10 năm thực hiện Hợp tác quốc tế về lao động gần 30 vạn lượt người đã có việc làm, có thu nhập và đem lại những hiệu quả kinh tế xã hội không nhỏ cho Nhà nước và bản thân gia đình người lao động.
Bước sang thập kỷ 90 do sự biến động to lớn của tình hình kinh tế, chính trị của các nước trong hệ thống XHCN và do nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, xuất khẩu lao động cũng có sự thay đổi theo. Khác với giai đoạn 1980 - 1990, xuất khẩu lao động của ta không còn tập trung vào các thị trường truyền thống là Liên Xô (cũ), các nước XHCN Đông Âu và Irắc mà chuyển hướng vào các nước có chế độ kinh tế chính trị khác với ta. Tính đến hết năm 1999, 127 doanh nghiệp XKLĐ đã đưa 89.140 người lao động và chuyên gia đi làm việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ. Với "doanh thu" trên 1 tỷ USD/một năm, XKLĐ đã trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng đem lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên công tác XKLĐ cũng