MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam. 4
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 9
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 21
1.4. Nhận xét chung 26
Chương 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1. Vị trí địa lý 28
2.2. Địa hình, địa mạo 28
2.3. Khí hậu 29
2.4. Thủy văn 29
2.5. Các nguồn tài nguyên 30
2.6. Nhận xét chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. 32
Chương 3: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2. Phương pháp nghiên cứu 33
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thảm cỏ tự nhiên trong vùng nghiên cứu 42
4.2. Các loài cây cỏ tự nhiên có giá trị chăn nuôi 87
4.3. Các loài cây trồng có giá trị chăn nuôi 90
4.4. Tình hình sử dụng hiện nay, khả năng và xu hướng phát triển. 93
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận 97
2. Đề nghị 98
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
109 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2296 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lau (Saccharum arundinaceum), Cỏ sâu róm (Setaria viridis).
Họ Cúc (Asteraceae) có 7 loài chiếm 13,46% số loài trong điểm, thường gặp các loài như Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Cỏ lào (Chromolaena odorata), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Đại bi (Blumea balsamifera), Cúc sao (Aster ageratoides), Ké đầu ngựa (Xanthium inaequilaterum), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Họ Đậu (Fabaceae) có 5 loài chiếm 9,6% số loài trong điểm, chủ yếu là các loài như Tràng quả lá nhỏ (Desmodium microphyllum), Sục sặc sét (Crotalaria ferruginea), Muồng hoa vàng (Sesbania cannabina), Thóc lép lá mác (Desmodium gangeticum), Đậu ba lá (Uraria logopodiodes).
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 4 loài chiếm 7,7% số loài trong điểm nghiên cứu, thường gặp các loài như Thàu táu (Aporosa dioica), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum) và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Họ Cói (Cyperaceae) và họ Cà phê (Rubiaceae), mỗi họ có 3 loài chiếm 11,5% số loài trong điểm, thường gặp là các loài: Củ gấu (Cyperus rotundus), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp (Scleria tonkinensis), Bướm bạc (Mussaenda baviensis), Găng trắng (Randia dasycarpa) và Gạc hươu (Wendlandia glabrata). Họ Sim (Myrtaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), mỗi họ có 2 loài chiếm 7,7% số lượng loài của điểm này, đó là các loài Chổi sể (Baeckea frutescens), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Trứng ếch cuốn (Callicarpa rubella) và Bọ mảy (Clerodendron cyrtophyllum).
Các họ còn lại như họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Guột (Gleicheniaceae), họ Bòng bong (Schizaeaceae), họ Sau sau (Altingiaceae), họ Rau má (Apiaceae), họ Bông (Malvaceae), họ Mua (Melastomaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Chua
me đất (Oxalidacaea), họ Cam (Rutaceae), họ Ban (Hypericaceae), họ Vòi voi (Boraginaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae) và họ Cà (Solanaceae), mỗi họ có 1 loài, tổng số loài của các họ trong điểm này chiếm
28,8% số lượng loài trong quần xã.
Qua quá trình nghiên cứu ở điểm số 3 chúng tôi có nhận xét: Tỷ lệ số loài có giá trị chăn thả cao. Số lượng cá thể nhiều nhất là họ Lúa (Poaceae), trong đó Cỏ may (Chrysopogon aciculatus) và Cỏ mật (Paspalum conjugatum) là loài chiếm ưu thế sinh thái và đạt tỷ lệ khối lượng lớn phần trên mặt đất, tạo ra độ phủ cao. Ngoài ra, ở điểm này còn gặp Cỏ lào (Chromolaena odorata), Mua (Melastoma sanguineum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa) là loài cây bụi gia súc không ăn nhưng có số lượng ít.
* Điểm nghiên cứu số 5:
Điểm nghiên cứu số 5 là lưng đồi Nà Phát, ở điểm này có diện tích không lớn, trước kia là nương ngô mới bỏ hóa vài năm, chúng tôi đã thu thập được 28 loài thuộc 17 họ (bảng 4.1).
Họ có số lượng loài lớn nhất vẫn là họ lúa (Poaceae) có 5 loài (chiếm 17,9% tổng số loài của điểm) là các loài: Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cỏ mật (Paspalum conjugatum) và lau (Saccharum arundinaceum).
Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) có 3 loài chiếm 10,71% số loài của điểm, thường gặp các loài Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum) và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Các họ Bòng bong (Schizeaceae), họ Bông (Malvaceae), Họ Mua (Melastomataceae), họ Cói (Cyperaceae) và họ Cúc (Asteraceae), mỗi họ có 2 loài, nhóm các họ này chiếm 35,7% số loài của điểm, thường gặp là các loài Bòng bong leo (Lygodiums scandens), Bòng bong (Lygodium flexuosum), Ké hoa vàng (Sida rhombifolia), Ké hoa đào (Urena lobata), Mua đồi (Melastoma sanguineum), Mua đất (Melastoma septemnervium), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp (Scleria tonkinensis), Cỏ lào (Chromolaena odorata) và Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Các họ còn lại như họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Trinh nữ (Mimosaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cam (Rutaceae), họ Vòi voi (Boraginaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Khoai lang (Convolvulaceae), họ Cà (Solanaceae) và họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), mỗi họ có 1 loài. Nhóm các họ này chiếm 35,7% số loài của điểm nghiên cứu.
Qua nghiên cứu thành phần loài ở điểm số 5 chúng tôi rút ra nhận xét: Tỷ lệ số loài có giá trị chăn thả cao. Họ có số lượng cá thể nhiều nhất vẫn là họ Lúa (Poaceae) sau đó là họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Các loài cỏ có số cá thể nhiều như: Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cỏ mật (Paspalum conjugatum), Lau (Saccharum arundina), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum), Chó đẻ (Phyllanthus urinaria) ... Đặc biệt ở điểm này do là bãi ngô mới bỏ hóa, đất còn khá tốt nên gặp nhiều Cỏ lạc vừng (Hedyotis multigromerulata), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis) phát triển mạnh đây là những loài gia súc rất thích ăn.
* Điểm nghiên cứu số 10:
Ở điểm số 10 thuộc đỉnh đồi Lủng Cháng có độ cao so với mặt biển khoảng từ
700 đến 800m, trước kia thuộc loại đồng cỏ cao, nay là đồng cỏ thấp, cỏ có độ cao dưới
10cm, nhiều đám cây bụi, guột, cây họ cúc mọc rải rác. Tại điểm nghiên cứu này chúng tôi thu thập được 40 loài thuộc 20 họ (bảng 4.1). Trong đó, họ nhiều nhất vẫn là họ lúa (Poaceae) có 10 loài chiếm 25% số loài của điểm, gồm các loài: Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ mật (Paspalum conjugatum), Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens), Sậy (Phragmites karka), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Chè vè (Miscanthus floridulus), Cỏ sâu dóm (Setaria lutescens), Lau (Saccharum arundinaceum).
Họ Cúc (Asteraceae) có 6 loài (chiếm 15% số loài của điểm), gồm các loài: Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Đại bi (Blumea balsamifera), Cúc sao (Aster ageratoides), Ké đầu ngựa (Xanthium inaequilaterum), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis).
Họ Cói (Cyperaceae) và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), mỗi họ có 3 loài
(chiếm 15% số loài của điểm), gồm các loài: Cói túi nhụy nâu (Carex brunnea), Cỏ lác (Cyperus cephalotus), Củ gấu (Cyperus esculentus), Thàu táu (Aporosa dioica), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa) và Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Họ có 2 loài là họ Đậu (Fabaceae), họ Cà (Solanaceae) chiếm 10% số loài của điểm, thường gặp các loài như Thóc lép lá mác (Desmodium gangeticum), Đậu ba lá (Uraria logopodiodes), Cà gai (Solanum indicum) và Cà lông (Solanum torvum).
Nhóm các họ còn lại mỗi họ có 1 loài gồm các họ Thông đất (Lycopodiaceae), họ Guột (Gleicheniaceae), họ Bòng bong (Schizaeaceae), họ Rau má (Apiaceae), họ Bông (Malvaceae), họ Mua (Melastomaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ chua me đất (Oxalidacaea), họ Cam (Rutaceae), họ Ban (Hypericaceae), họ Du (Ulmaceae), họ Óc chó (Juglandaceae), họ Chè (Theaceae) và họ Thài lài (Commelinaceae), nhóm các họ này chiếm 35%.
Theo số lượng cá thể của điểm nghiên cứu số 10 thì họ lúa (Poaceae) có số lượng nhiều nhất, sau đó là họ Cúc (Asteraceae), tiếp đến là họ Cói (Cyperaceae) và họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Những loài có số lượng nhiều và thường gặp: Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cỏ sâu dóm (Setaria lutescens), Lau (Saccharum arundinaceum), Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Đại bi (Blumea balsamifera), ...
Về ngoại hình đồng cỏ ở điểm này chúng tôi thấy cây bụi và cây thảo sống lâu năm chiếm tỷ lệ khá cao, các loài cây thảo đã trình bày ở trên tồn tại được là do có khả năng hình thành chồi rút ngắn, có chiều cao thấp nên chịu được dẫm đạp. Guột (Dicranopteris linearis) xuất hiện và ở một số nơi chiếm ưu thế tuyệt đối. Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber) phát triển mạnh, có sự xuất hiện của một số loài từ nơi khác đến. Đã xuất hiện nhiều đám cây bụi và cây gỗ nhỏ mọc rải rác trong đồng cỏ.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có lẽ cũng do chăn thả nặng, cây Hoà thảo bị gia súc ăn thì không phát triển ưu thế được, dó đó những loài cây cỏ gia súc không ăn được có điều kiện phát triển và dần chiếm ưu thế. Một số loài được gia súc mang đến bằng nhiều con đường di nhập khác nhau.
Qua các điểm nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong thảm cỏ tự nhiên, chúng tôi có một số nhận xét sau:
1. Về số lượng loài qua các điểm nghiên cứu ta thấy số lượng loài cao nhất là điểm số 3 (52 loài), thấp hơn là điểm 10 (40 loài) và sau đó là điểm 5 (28 loài). Như vậy, đồng cỏ càng chăn thả nặng thì thành phần loài càng phức tạp, số lượng họ và loài tăng lên, số lượng các loài cỏ dại trong đồng cỏ tăng, số lượng loài của họ Hoà thảo cũng tăng, nhưng số lượng cá thể thì giảm dần.
2. Trong điều kiện chăn thả ít như ở đồng cỏ Nà Phát (Điểm số 5) thảm cỏ cao khoảng 30cm, chủ yếu là Cỏ lạc vừng (Hedyotis multigromerulata) phát triển mạnh chúng tạo nên độ phủ lớn, chiếm ưu thế cả về sinh khối, vì vậy ở đây những loài ưa sáng thuộc họ Cúc (Asteraceae), những loài cây ưa bóng họ Thông đất (Lycopodiaceae), nằm ở tầng dưới của thảm cỏ, mặc dù chúng có mặt nhưng không phát triển và chiếm ưu thế được.
3. Trong điều kiện chăn thả nhiều như đồng cỏ đỉnh đồi Pù Chùa (Điểm 3) hay đồi Lủng Cháng (điểm 10), do tác động của chăn thả nên đồng cỏ ở đây giảm chiều cao, độ phủ giảm, ánh sáng đã lọt nhiều xuống mặt đất, đất bị dí chặt. Trên đồng cỏ lúc này đã xuất hiện những cây ưa sáng, chịu hạn và chịu sự dẫm đạp của gia súc đó là các loại cỏ có thân rễ dài hay ngắn như Cỏ may (Chrysopogon acicutratus), Cỏ đắng (Paspalum scrobiculatum), Cỏ mần trầu (Elensine indica), nhưng số lượng cá thể và chiều cao giảm nhiều dẫn đến năng suất rất thấp. Số lượng cây bụi và những cây thân, cành, lá thường có lông phủ như Mua (Melastoma septemnervium), Sim (Rhodomyrtus tomentosa) tăng dần.
Để thích nghi với điều kiện sống thay đổi, trong thảm thực vật xuất hiện những kiểu hình thái dạng sống mới như: Cây thuộc thảo có thân ngắn lá mọc toả trên mặt đất như Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), có nơi Guột (Dicranopteris linearis) trở nên ưu thế tuyệt đối. Một số loài cây leo thân bụi nhỏ như Bòng bong (Ligodium flexuosum) thường vươn lên tầng trên của cây bụi để nhận được nhiều ánh sáng, do gia súc không ăn nên số lượng tăng dần. Đa số các cây thân gỗ và thân bụi có đặc điểm là rễ trụ khá phát triển có khả năng lan rộng hoặc đâm sâu tìm nước cung cấp
cho cây trong mùa khô hạn. Nhiều thực vật có đặc điểm mọc thành khóm hay bụi dày, ít mọc đơn độc đó là các loài trong họ Hoà thảo (Poaceae), họ Cói (Cyperaceae).
Tóm lại, tổ hợp loài đặc trưng cho loại hình thảm cỏ tự nhiên của xã Hà Hiệu nói chung là các loài cỏ thuộc họ Lúa (Poaceae). Nếu đồng cỏ chăn thả nhiều thì thành phần loài, họ sẽ tăng lên gồm cả những cây bụi, cây thảo và cây bụi leo hạn sinh. Muốn hạn chế thành phần loài thực vật mà gia súc không ăn được thì phải bảo vệ đồng cỏ khỏi thoái hoá bằng cách chăn thả hợp lý, luân phiên, loại bỏ cây rừng, cây thân gỗ.
4.1.1.2. Thành phần dạng số ng tro ng các điểm ng hiên cứu.
Chúng tôi đã thu thập và phân tích các dạng sống của hệ thực vật trong các điểm nghiên cứu. Các dạng sống được sắp xếp thành các kiểu theo phương pháp của Hoàng Chung (1980) và được thống kê ở bảng 4.2.
Bảng 4.2: Những dạng sống chính của thực vật trong thảm cỏ tự nhiên
Stt
Kiểu dạng sống
Điểm số 3
Điểm số 5
Điểm số 10
1
Cây gỗ
5
1
4
2
Cây bụi
6
5
4
3
Cây bụi thân bò
1
1
4
Cây bụi nhỏ
7
1
3
5
Cây bụi nhỏ thân bò
2
1
2
6
Cây nửa bụi
4
4
4
7
Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái
1
8
Cây có chồi mọc từ rễ
1
1
9
Cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn
1
1
1
10
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm
5
3
3
11
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò
3
3
2
12
Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm
3
2
13
Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm
3
1
3
14
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài
2
3
15
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò
3
3
4
16
Cây thảo một năm có rễ cái
5
2
4
17
Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò
1
18
Cây thảo một năm có hệ rễ chùm
1
Tổng số loài
52
28
40
Tổng số kiểu dạng sống
16
14
14
* Thành p hần dạng sống ở điểm nghiên cứu số 3:
Trong điểm nghiên cứu số 3 có 16 kiểu dạng sống. Trong đó kiểu Cây bụi nhỏ (kiểu 4) có số lượng lớn nhất gồm 7 loài chiếm 13,46%, thường gặp các loài như Chó đẻ (Phyllanthus urinaria), Sục sặc sét (Crotalaria ferruginea), Thóc lép lá mác (Desmodium gangeticum), Muồng hoa vàng (Sesbania cannabina), Chổi sể (Baeckea frutescens), Cà lông (Solanum torvum), Trứng ếch cuốn (Callicarpa rubella lindl). Tiếp đến là kiểu cây bụi (kiểu 2) có 6 loài chiếm 11,54%, gồm các loài như Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion arnottianum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Bướm bạc (Mussaenda baviensis), Găng trắng (Randia dasycarpa), Chanh (Citrus media).
Kiểu dạng sống có 5 loài như cây gỗ (kiểu 1), Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm (kiểu 10) và kiểu cây thảo một năm có rễ cái (kiểu 16), nhóm các kiểu này chiếm 28,5%, những cá thể chiếm số lượng nhiều và thường gặp là Sau sau (Liquidamba formosana), Thàu táu (Aporosa dioica), Thành ngạnh (Cratoxylon formosum), Trinh nữ (Mimosa pudica), Gạc hươu (Wendlandia glabrata), Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Củ gấu (Cyperus esculentus), Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp (Scleria tonkinensis), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis), Ké đầu ngựa (Xanthium inaequilaterum), Vòi voi (Heliotropium indicum), Đậu ba lá (Uraria logopodiodes).
Kiểu cây nửa bụi (kiểu 6) có 4 loài chiếm 7,69%, gồm các loài như Cúc sao (Aster ageratoides), Đại bi (Blumea balsamifera), Cỏ lào (Chromolaena odorata), Ké hoa vàng (Sida rhombifolia).
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò (kiểu 11), cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm (kiểu 12), Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm (kiểu 13) và cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò (kiểu 15), mỗi kiểu có
3 loài chiếm 23,1%, thường gặp những loài như Bòng bong (Lygodium flexuosum), Cỏ lá tre (Centosteca lappacea), Thài lài (Commelina communis), Cỏ chân nhện (Digitaria abludens), Cỏ lông (Ischaemum indicum), Cỏ sâu róm (Setaria viridis),
Cỏ sả (Cymbopogon caesius), Chè vè (Miscanthus floridulus), Lau (Saccharum arundinaceum), Rau má (Centella asiatica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ gừng (Panicum repens).
Kiểu cây bụi nhỏ thân bò (kiểu 5), cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài (kiểu
14), mỗi kiểu có 2 loài chiếm 7,7%, thường gặp các loài như Thông đất (Lycopodiella cernua), Chua me đất (Oxalis corniculata), Guột (Dicranopteris linearis) và Cỏ tranh (Imperata cylindrica).
Còn lại mỗi kiểu có một loài là cây bụi thân bò (kiểu 3), cây thảo lâu năm có hệ rễ cái (kiểu 7), cây có chồi mọc từ rễ (kiểu 8), cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn (kiểu 9), nhóm các kiểu này chiếm 7,6%, các loài thường gặp như Bìm bìm (Ipomoea chrysoides), Tràng quả lá nhỏ (Desmodium microphyllum), Bọ mảy (Clerodendron cyrtophyllum), Mua đất (Melastoma septemnervium).
Tại điểm nghiên cứu này kiểu 4 có số lượng cá thể nhiều nhất, tiếp theo là kiểu
2, sau đó là các kiểu 1, kiểu 10 và kiểu 16. Từ kết quả nghiên cứu về thành phần dạng sống ở điểm số 3, chúng tôi thấy đồng cỏ vùng này đang có xu thế bị cây gỗ và cây bụi xâm lấn, kiểu 16 cây thảo một năm hệ rễ cái phát triển mạnh càng chứng minh thêm cho điều đó. Nhóm cây thảo sống lâu năm thân rễ dài giảm rõ rệt, tăng nhóm thân rễ ngắn, mọc bò, nhiều loài trong kiểu này hình thành chồi rút ngắn và số lượng của nó tăng lên, nhưng chiều dài thân giảm đi do bị dẫm đạp quá mức.
* Thành p hần dạng sống ở điểm nghiên cứu số 5:
Ở điểm này có 14 kiểu dạng sống. Trong đó kiểu dạng sống cây bụi (kiểu 2) có
5 loài chiếm 17,86%, thường gặp các loài như Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Bọt ếch (Glochidion molle), Mua đồi (Melastoma sanguineum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa) và Chanh (Citrus media).
Kiểu cây nửa bụi (kiểu 6) có 4 loài chiếm 14,29%, gồm các loài như Cỏ lào (Eupatorium odoratum), Ké hoa vàng (Sida rhombifolia), Ké hoa đào (Urena lobata), Cà gai (Solanum indicum).
Kiểu Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm (kiểu 10), kiểu cây thảo có hệ rễ
chùm, sống lâu năm, có thân bò (kiểu 11) và cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài
và thân bò (kiểu 15), mỗi kiểu có 3 loài chiếm 32,14%, thường gặp các loài: Cỏ lông lợn (Fimbristylis annua), Cói ba gân ráp (Scleria tonkinensis), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Bòng bong (Lygodium flexuosum), Bòng bong leo (Lygodium scandens), Thài lài (Commelina communis), Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ mật (Paspalum conjugatum).
Kiểu cây thảo một năm có rễ cái (kiểu 16) có 2 loài chiếm 7,14%, thường gặp các loài như Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis), Vòi voi (Heliotropium indicum).
Tám kiểu còn lại là kiểu cây gỗ (kiểu 1), cây bụi thân bò (kiểu 3), kiểu cây bụi nhỏ (kiểu 4), kiểu cây bụi thân bò (kiểu 5), cây có chồi mọc từ rễ (kiểu 8), cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rẽ ngắn (kiểu 9), cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm (kiểu 13) và cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò (kiểu 17), mỗi kiểu có một loài và chiếm 28,57%, các loài thường gặp là Trinh nữ (Mimosa pudica), Bìm bìm (Ipomoea chrysoides), Chó đẻ (Phyllanthus urinaria), Thông đất (Lycopodiella cernua), Bọ mảy (Clerodendron cyrtophyllum), Mua đất (Melastoma septemnervium), Lau (Saccharum arundinaceum), Cỏ lạc vừng (Hedyotis multiglomerulata).
Tại điểm này dạng sống kiểu 2, kiểu 6 là những kiểu có số lượng loài nhiều, phần lớn các loài trong những kiểu này không có giá trị chăn thả.
* Thành p hần dạng sống ở điểm nghiên cứu số 10:
Ở điểm này có 14 kiểu dạng sống trong đó cây gỗ (kiểu 1), các kiểu cây bụi
(kiểu 2), cây nửa bụi (kiểu 6), cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò (kiểu
15) và cây thảo một năm có rễ cái (kiểu 16), mỗi kiểu có 4 loài chiếm 50%, thường gặp các loài như Thàu táu (Aporosa dioica), Thành ngạnh (Cratoxylon formosum), Chẹo (Engelhardtia roxburghiana), Hu lông (Trema orientalis), Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Chanh (Citrus media), Súm nhọn (Eurya acuminata), Cúc sao (Aster ageratoides), Đại bi (Blumea balsamifera), Ké hoa vàng (Sida rhombifolia), Cà gai (Solanum indicum), Rau má (Centella asiatica), Cỏ hoa tre (Apluda varia var. mutica), Cỏ may (Chrysopogon aciculatus), Cỏ mật (Paspalum conjugatum), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Cỏ dĩ (Sigesbeckia orientalis), Ké đầu ngựa (Xanthium inaequilaterum), Đậu ba lá (Uraria logopodiodes).
Các kiểu có 3 loài là cây bụi nhỏ (kiểu 4), cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm (kiểu 10), Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm (kiểu 13) và cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài (kiểu 14), nhóm các kiểu này chiếm 30%, thường gặp các loài như Chó đẻ (Phyllanthus urinaria), Thóc lép lá mác (Desmodium gangeticum), Cà lông (Solanum torvum), Cúc chỉ thiên (Elephantopus scaber), Củ gấu (Cyperus esculentus), Cỏ mần trầu (Eleusine indica), Chè vè (Miscanthus floridulus), Sậy (Phragmites karka), Lau (Saccharum arundinaceum), Guột (Dicranopteris linearis), Cói túi nhuỵ nâu (Carex brunnea), Cỏ tranh (Imperata cylindrica).
Kiểu cây bụi thân bò (kiểu 5), cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò (kiểu 11) và cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm (kiểu 12) và mỗi kiểu có
2 loài chiếm 15%. Thường gặp các loài như Thông đất (Lycopodiella cernua), Chua me đất (Oxalis corniculata), Bòng bong leo (Lygodium scandens), Thài lài (Commelina communis), Cỏ chân nhện (Digitaria timorensis), Cỏ sâu dóm (Setaria lutescens).
Hai kiểu còn lại như, cây thảo sống lâu năm có hệ rễ cái, có thân rẽ ngắn (kiểu
9), cây thảo một năm có hệ rễ chùm (kiểu 18), mỗi kiểu có 1 loài chiếm 5%, gồm các loài Mua đất (Melastoma septemnervium), Cỏ lác (Cyperus cephalotus).
Ở điểm này có các kiểu dạng sống: Kiểu 1, kiểu 2, kiểu 6, kiểu 15 và kiểu 16 là những kiểu có số lượng nhiều nhất. Tuy nhiên, đa số những loài thuộc các kiểu này không có giá trị chăn thả và số lượng của nó tăng lên trong quá trình chăn thả như kiểu 1, kiểu 2, kiểu 6, nhiều loài hình thành chồi rút ngắn như kiểu 13.
Nhận xét về dạng sống ở các điểm nghiên cứu.
1. Ở điểm nghiên cứu số 5 thuộc đồng cỏ cao ít sử dụng, thành phần dạng sống có số lượng thấp, là do điểm này có cây cỏ cao chiếm ưu thế và chúng tạo ra độ phủ lớn (100%) nhất là các loài cỏ sống lâu năm, các cây thảo mọc thành búi thưa sống lâu năm. Đặc biệt loài ưu thế ở đây là Cỏ lạc vừng (Hedyotis multiglomerulata), một trong những cây cỏ mà gia súc rất thích ăn.
2. Ở điểm nghiên cứu số 3 và số 10: Thành phần dạng sống đa dạng và phong phú, số loài cây gỗ (kiểu 1) tăng lên rõ rệt, kiểu Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu
năm (kiểu 10), kiểu cây bụi (kiểu 2) có số lượng tăng dần và chiếm ưu thế (điểm 3), số lượng dạng sống của họ hoà thảo giảm đi nhiều. Nguyên nhân của sự biến động trên là do chăn thả nặng nề, bản thân thảm cỏ bị thoái hoá đồng thời ảnh hưởng đến môi trường đất, đất nghèo dinh dưỡng khả năng giữ ẩm của đất kém, tạo điều kiện cho các loài đặc biệt là cây hạn sinh ưa sáng phát triển mạnh; vì vậy kiểu cây bụi chiếm ưu thế, tăng kiểu dạng sống, nên giá trị chăn thả của nó lại giảm xuống nhiều.
Sau khi nghiên cứu thành phần loài và dạng sống ở một số điểm nghiên cứu thuộc đồng cỏ xã Hà Hiệu đã và đang được sử dụng ở các mức độ khác nhau, chúng tôi rút ra các nhận xét như sau:
1. Ở điểm nghiên cứu số 5 thì thành phần loài và dạng sống có số lượng thấp vì ở đồng cỏ này có các cây cỏ cao chiếm ưu thế và chúng tạo ra khối lượng và độ che phủ lớn, nhiều loài cỏ khác chưa xâm nhập vào được.
2. Đồng cỏ chăn thả nhiều thì thành phần loài và dạng sống tăng lên, đặc biệt là tăng số lượng loài không có giá trị chăn thả như cây thuộc thảo và cây bụi.
Nguyên nhân của sự tăng thành phần loài và dạng sống theo chúng tôi là do việc sử dụng không hợp lý đồng cỏ, làm thoái hoá thảm cỏ, làm ảnh hưởng đến môi trường sống của cây Hoà thảo (Poaceae), tạo điều kiện cho nhiều loài thực vật ưa sáng, chịu hạn, chịu được sự dẫm đạp của gia súc, hoặc gia súc không ăn có thể sống và phát triển mạnh.
4.1.1.3. Năng suất cỏ ở các điểm ng hiên cứu:
Năn g suất của các quần xã cỏ ở một số đồng cỏ điển hình ở xã Hà Hiệu đã được chúng tôi n ghiên cứu sơ bộ vào tháng 10 năm 2006 và thu được một số kết quả trình bày ở bảng 4.3.
Từ số liệu bảng 4.3 cho thấy, năng suất thảm cỏ trong các đồng cỏ tự nhiên thay đổi khá lớn, cao nhất là điểm nghiên cứu số 5 (268g/m2), thấp nhất là điểm nghiên cứu số 10 (45,6 g/m2). Tỷ lệ hòa thảo ở điểm nghiên cứu số 5 lại thấp nhất (4,1%), cao nhất là điểm số 10 đạt 92,11%, còn điểm số 3 đạt gần 68%. Về giá trị chăn thả thì điểm 5 vẫn là cao nhất vì cỏ lạc vừng gia súc cũng thích ăn. Năng suất ở điểm 5 đạt cao hơn là do mức độ chăn thả ở điểm này thấp hơn, đất đai còn tốt, xốp hơn và có lẽ
đây là giai đoạn đầu của quá trình hình thành đồng cỏ sau bỏ hoá. Điểm 3 và điểm 10 là bãi chăn thả thường xuyên nên đất bị dí chặt và độ phì cũng kém hơn, ưu thế ở đây
là các loài cỏ có thân rút ngắn, chịu được sự dẫm đạp của gia súc.
Bảng 4.3: Năng suất các thảm cỏ trong các đồng cỏ tự nhiên
Điểm
NC
Địa điểm
Tên quần xã
Nhóm cỏ
Sinh khối tươi (g/m2)
Phần chếtS (g/m2)
inh khối khô (g/m2)
Phần sống
%
Phần sống
%
3
Pù
Chùa
Đỉnh đồi
Tổng số
53.70
100.00
123.90
26.70
100.00
Hòa thảo
36.50
67.97
20.10
75.28
Họ Cói
0.20
0.37
0.10
0.37
Thuộc thảo
16.80
31.28
6.40
23.97
Họ Đậu
0.20
0.37
0.10
0.37
5
Nà
Phát
Lưng đồi
Tổng số
268.00
100.00
184.00
58.70
100.00
Hòa thảo
11.00
4.28
3.30
5.62
Cỏ lạc vừng
257.00
100.00
55.40
94.38
10
Lủng
Cháng
Đồi
Tổng số
45.60
100.00
139.00
33.30
100.00
Hòa thảo
42.00
92.11
30.40
91.29
Họ Cói
0.80
1.75
0.60
1.80
Cây bụi
2.30
5.04
1.90
5.71
Họ Đậu
0.50
1.10
0.40
1.20
Số lượng phần chết của các điểm nghiên cứu qua số liệu ở bảng 4.3 cho thấy, số lượng phần chết dao động rất lớn ở các quần xã, trong điều kiện sử dụng nặng nề thì phần chết đạt tới 75,3% ở điểm nghiên cứu số 10, tiếp đến là điểm nghiên cứu số
3 đạt 69,8% và ở điểm nghiên cứu số 5 tỉ lệ chết đạt 40,71%. Nguyên nhân của sự
biến động trên là do các loài họ hòa thảo phần trên mặt đất chết hàng năm.
Về năng suất cỏ (khối lượng phần trên mặt đất) ở các địa điểm nghiên cứu khác nhau, qua số liệu ở bảng 4.3 chúng tôi nhận thấy năng suất cỏ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện sống và mức độ sử dụng khác nhau của con người. Đặc biệt là cường độ chăn thả và thờ i gian chăn thả đã làm giảm giá trị chăn thả của các đồng cỏ. Theo Nguyễn Thị Hải Yến (2006), sơ bộ đánh giá năng suất, chất lượng một số đồng cỏ đ iển hình vùng núi Đông Bắc Việt Nam cũng đã đưa ra nhận xét: Đồng cỏ cao ít chăn thả (vùng núi Mẫu Sơn – Lạng
Sơn ) năng suất cỏ đạt khối lượng cao nhất (895,5 g/m2 – trọng lượn g khô
không khí), trong đó chủ yếu là câ y Hoà thảo chiếm 95%. Đối với đồng cỏ chăn th ả nhiều (Ngân Sơn – Bắc Kạn) thì khối lượng củ a loài cây Hoà th ảo giảm mạnh (chiếm 37,5%), trong khi đó khối lượng cây thuộc thảo và cây bụi tăng cao (đ ạt 40,5%). Năng suất của các thảm cỏ giảm đi rất nhanh, chủ yếu là khối lượng của các loài cây Hoà thảo trong khi đó khối lượng của các lo ài câ y Thuộc thảo, cây bụi lại tăng lên. Cấu trúc của c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều tra, đánh giá tập đoàn cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.doc