MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN 8
1.1. Sự hình thành doanh nghiệp tư nhân 8
1.2. Xu hướng vận động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp tư nhân 24
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÁI BÌNH 33
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình có ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp tư nhân 33
2.2. Những kết quả về phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình trong những năm qua 40
2.3. Một số vấn đề đặt ra và nguyên nhân 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÁI BÌNH 69
3.1. Những quan điểm và phương hướng cơ bản 70
3.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay 81
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạnh tranh của các sản phẩm được nâng cao, thị trường đầu ra được cải thiện, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời khai thác triệt để và hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Các DNTN hoạt động trong các lĩnh vực dịch vụ du lịch, vận tải ... có nhiều cố gắng, mở rộng địa bàn hoạt động và đổi mới phong cách phục vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ. Nhờ đó, giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng miền được thúc đẩy và phát triển, giảm thiểu thời gian và chi phí lưu thông hàng hóa, thông qua đó cũng thúc đẩy kinh tế nội tỉnh phát triển mạnh mẽ và đồng đều. Không những đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu hàng hóa, thực hiện chức năng lưu thông, các DNTN hoạt động trong lĩnh vực này đã từng bước tự hoàn thiện và phát triển nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, dần chiếm ưu thế trên thị trường, tạo được niềm tin cho những người sử dụng dịch vụ qua đó nâng cao uy tín thương hiệu của bản thân doanh nghiệp.
2.2.5. ứng dụng khoa học và công nghệ và sản xuất kinh doanh
Khoa học và công nghệ là yếu tố sản xuất đầu vào quan trọng. Doanh nghiệp muốn thu lợi nhuận cao đòi hỏi phải đổi mới dây chuyền, công nghệ sản xuất ứng dụng những công nghệ sản xuất hiện đại, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Nhận thức được điều đó, thời gian qua hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ trong SXKD của các DNTN ở Thái Bình đã có những bước tiến đáng kể. Nhiều DNTN đã mạnh dạn đầu tư mới, ứng dụng công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm có chất lượng và sức cạnh tranh cao. Do tích luỹ được vốn và huy động được vốn cho đầu tư phát triển nên đã xuất hiện một số doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến. Nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có tính chất tự động hoá và đã tạo được thương hiệu có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế như Xí nghiệp Dệt Hồng Quân, bia Hương Sen, Công ty Hợp Thành…. Các doanh nghiệp công nghiệp còn lại cũng đạt trình độ sản xuất cơ khí khoảng 65%. Với hệ thống dây chuyền hiện đại, các DNTN đã sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và thỏa mãn yêu cầu của bạn hàng nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong thời gian qua.
Do nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và công nghệ đối với hoạt động SXKD, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, nhiều doanh nghiệp mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất, phát huy năng lực sản xuất hiện có, ứng dụng thêm những dây chuyền sản xuất phù hợp với khả năng tài chính của mình. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã có sự phát triển vượt bậc, kết quả hoạt động SXKD ngày càng cao. Theo điều tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Thái Bình;, trong số 328 DNTN được điều tra có 48% DNTN đã đầu tư đổi mới, ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến. So với giai đoạn 1995-2000, số DNTN tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại tăng hơn gấp 2 lần. Đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng thu lợi nhuận của doanh nghiệp tăng đáng kể. Nhiều DNTN, nhất là các doanh nghiệp hoạt động sản xuất công nghiệp đã đầu tư mua sắm nhiều thiết bị công nghệ hiện đại và có tính chất tự động hoá cao. Nhờ đó, các sản phẩm sản xuất ra có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu trong nước, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và dần chiếm lĩnh được thị phần quốc tế với nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh trong thời gian qua.
Tuy nhiên, phần lớn DNTN Thái Bình có quy mô nhỏ, khả năng tiếp cận với thị trường và công nghệ hiện đại còn hạn chế. Một số DNTN muốn đổi mới dây chuyền sản xuất nhưng khả năng tài chính hạn hẹp. Việc tiếp cận với các nguồn vốn vay chính thức khó khăn, nhất là những DNTN mới thành lập. Điều này khiến doanh nghiệp gặp khó khăn để vượt qua giai đoạn ban đầu, để chuyển sang giai đoạn phát triển ổn định và mở rộng quy mô.
Cùng với những cố gắng trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, năng lực quản trị của doanh nghiệp và quản lý SXKD của các DNTN có nhiều chuyển biến tích cực. Trước sức ép cạnh tranh của thị trường, các doanh nghiệp đã quan tâm làm tốt công tác quản trị doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ quản lý nhiều DNTN được đào tạo chính quy, từng bước trưởng thành trong hoạt động thực tiễn. Yêu cầu quản lý doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ chế độ kế toán, sổ sách minh bạch, đáp ứng yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý đã được sử dụng có hiệu quả. Các doanh nghiệp đã dần xây dựng và vận hành được hệ thống quản trị mạng thông tin, ứng dụng các quy định theo tiêu chuẩn ISO quốc tế vào quá trình sản xuất và giám sát chất lượng sản phẩm. Các phần mềm quản lý cũng được đặt hàng và ứng dụng vào công tác quản trị doanh nghiệp, công tác kế toán thống kê, giảm bớt thời gian và nhân lực gián tiếp, cung cấp kịp thời các thông tin quản trị phục vụ cho việc ra quyết định quản lý.
Tuy vậy, đại đa số DNTN ở Thái Bình chủ yếu quản lý dựa trên kinh nghiệm thực tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy sự điều hành sản xuất kinh doanh còn kém hiệu quả, thậm chí có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật.
Quy mô và phạm vi kinh doanh của DNTN ngày càng mở rộng. Do có sự đổi mới trong khoa học - công nghệ, quản lý, nhiều DNTN đã chuyển sang kinh doanh nhiều ngành nghề khác nhau, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và xuất khẩu, hướng vào những ngành nghề mà tỉnh có lợi thế. Các DNTN đã tập trung vào sản xuất kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng và đảm bảo phục vụ cho thị trường trong tỉnh như mua bán vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, đại lý mua bán ký gửi hàng hoá tiêu dùng, tạo cây, con giống có năng suất, chất lượng tốt. Đã xuất hiện nhiều DNTN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp tham gia trực tiếp vào ngành trồng trọt và chăn nuôi như: nhiều doanh nghiệp chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp, nuôi tôm công nghiệp, sản xuất, chế biến mắm và các sản phẩm công nghiệp khác. Nhiều DNTN khi chuyển sang kinh doanh đa ngành đã đạt hiệu quả tốt. Doanh thu hàng năm tăng đáng kể so với trước đây. Tiêu biểu trong số đó là DNTN Dệt Hồng Quân, bia Hương Sen,…
2.2.6. Về thu nộp ngân sách và hoạt động kinh tế đối ngoại
Trong những năm qua, thu ngân sách trên địa bàn tăng khá, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001, thu ngân sách trên địa bàn đạt 571 tỷ VNĐ, năm 2002 đạt 574 tỷ VNĐ, năm 2003 đạt 747 tỷ VNĐ và đặc biệt năm 2004 đạt 1.010,7 tỷ VNĐ, năm 2005 đạt 1.130 tỷ VNĐ. Trong tổng thu ngân sách trên địa bàn, hệ thống DNTN đóng góp phần rất quan trọng. Do có sự nỗ lực trong sản xuất kinh doanh, kết quả nộp ngân sách những năm qua của các DNTN tăng khá. Năm 2001, DNTN đóng góp vào ngân sách nhà nước đạt 37 tỷ. Đến năm 2005 các DNTN đã đóng góp hơn 105 tỷ VNĐ vào ngân sách nhà nước, tăng 45% so với năm 2004. Trong giai đoạn 2001-2005 nộp ngân sách của DNTN tăng bình quân 39,9%/năm. So với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì thu nộp ngân sách của doanh nghiệp tăng khá hơn. Theo số liệu tổng kết năm 2005 thì tốc độ tăng nộp ngân sách giai đoạn 2001 - 2005 là 25,5%. Khối DNNN nộp ngân sách tăng 38% so với năm 2004 và đạt 76 tỷ VNĐ (năm 2005) [28, tr.3]. Như vậy, so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì DNTN ở Thái Bình có tốc độ tăng nhanh hơn và tỷ lệ nộp ngân sách nnhà nước cao hơn trong tổng thu nộp Ngân sách của tỉnh. Vai trò, ý thức chấp hành Pháp luật của các DNTN cũng từng bước nâng lên.
Bên cạnh đó cơ cấu nguồn thu cũng có sự chuyển biến tích cực, thu từ các hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất ngày càng tăng. Năm 2002 thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 24.295 triệu đồng, đạt 108,5% so với dự toán Bộ Tài chính, tăng 10% so với cùng kỳ [3, tr.6]. Năm 2005 thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 105 tỷ, đạt 144,3% so với dự toán, tăng 52,9% so với năm 2004 [4, tr.3]. Đây là một xu hướng tích cực bởi nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước thì nguồn thu chủ yếu là từ các DNTN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu đã có những bước chuyển biến tích cực. Hàng hoá trên thị trường phong phú, sôi động hơn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và đã từng bước đáp ứng được yêu cầu cho sản xuất. Trong đó có có vai trò rất lớn của các DNTN.
Ngoài các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được nói trên, các DNTN đã đóng góp tích cực và quan trọng trong việc khôi phục, giữ gìn và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. Điều này cũng phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế của Tỉnh (phát triển làng nghề là một trong năm trọng tâm phát triển kinh tế của Tỉnh Thái Bình đến năm 2010). Các DNTN đã góp phần khôi phục một số làng nghề truyền thống, phát triển, du nhập thêm nghề mới, đa dạng hóa các ngành nghề và các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp, qua đó thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của cả Tỉnh. Đến nay đã có 173 làng nghề, trong đó có 162 làng nghề đủ tiêu chuẩn của UBND tỉnh, thu hút được 15.000 lao động, 100% số xã đều có làng nghề có sự tham gia trực tiếp của DNTN hoặc liên doanh, liên kết với các hộ gia đình sản xuất truyền thống [28, tr.2]. Một số DNTN đã phát huy tốt các nghề truyền thống như: nghề dệt đũi Nam Cao, dệt vải, dệt khăn Thía Phương, nghề thêu Minh Lãng ở Vũ Thư, mây tre đan, cơ khí, đệm cói, chạm bạc. Nếu như trước kia, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề này đều mới chỉ là các cơ sở sản xuất nhỏ, làm gia công cho các doanh nghiệp nhà nước có đầu ra là các thị trường nước ngoài thì hiện nay, các tổ hợp này đã phát triển thành các DNTN do chính các chủ hộ sản xuất làm chủ, tự tìm kiếm thị trường và trực tiếp ký hợp đồng với các đối tác nước ngoài, bỏ qua các khâu trung gian. Nhiều DNTN làm vai trò đầu mối, đứng ra thu gom, tiêu thụ sản phẩm và đặc biệt đã có nhiều DNTN có tiềm lực chuyển sang mô hình kinh doanh xuất khẩu theo hướng công nghiệp, xây dựng một quy trình khép kín từ khâu nguyên liệu đầu vào, sản xuất đến xuất khẩu sản phẩm đầu ra ra thị trường thế giới. Tuy nhiên sự phát triển các làng nghề trong đó có vai trò của DNTN còn thiếu ổn định do chưa có sự hỗ trợ đồng bộ về nguồn vốn, đào tạo lao động, thị trường đầu ra còn hạn hẹp và bấp bênh do phần lớn là xuất khẩu tiểu ngạch, quy mô sản xuất còn nhỏ và sản xuất còn mang tính tự phát, chưa có chiến lược và kế sách lâu dài.
Hoạt động của DNTN đã phát huy tác dụng tích cực trên nhiều mặt của đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, huy động được các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh cho đầu tư phát triển, tạo được sự chuyển biến rõ rệt trong việc giải phóng sức sản xuất, phát huy nội lực, hình thành được đội ngũ đông đảo các nhà doanh nghiệp, góp phần tích cực trong việc nâng cao sức cạnh tranh, từng bước chú trọng để hội nhập và thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Các DNTN còn có nhiều hoạt động tích cực trong các phong trào đền ơn đáp nghĩa, công tác từ thiện như: chương trình ủng hộ quỹ vì người nghèo, quỹ chất độc màu da cam do UBMT Tổ Quốc tỉnh phát động; tham gia xây dựng và trao quà tình nghĩa cho các gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, xoá nhà tranh tre dột nát với số tiền quyên góp lên tới hàng trăm triệu đồng.
2.3. Một số vấn đề đặt ra và nguyên nhân
2.3.1. Một số tồn tại và yếu kém
Bên cạnh những kết quả trên, hoạt động của các DNTN ở Thái Bình còn có một số hạn chế sau:
Thứ nhất, quá trình chuẩn bị các điều kiện hội nhập còn bộc lộ nhiều hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức được mức độ ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực tới nền kinh tế trong nước, tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNTN. Theo số liệu điều tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư mới có 27% số DNTN đã có sự chuẩn bị đón nhận những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO và thực hiện các cam kết khu vực. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại thì nguy cơ gặp khó khăn là rất lớn. Trên thực tế quá trình hội nhập đòi hỏi nền kinh tế nói chung và các DNTN nói riêng phải nhận thức sâu sắc mức độ ảnh hưởng của nó để không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, tồn tại và phát triển. Về điểm này thì các DNTN ở Thái Bình còn gặp nhiều khó khăn.
Khả năng tiếp cận thị trường khu vực và quốc tế của các DNTN hết sức hạn chế. Nguyên nhân là do khối lượng sản phẩm do các DNTN sản xuất ra còn manh mún, chủ yếu phục vụ tiêu dùng trong nước, thậm chí là trong một địa phương hạn hẹp. Sản phẩm sản xuất ra chưa có chất lượng tốt và giá trị xuất khẩu thấp. Nhiều sản phẩm của DNTN làm ra khó cạnh tranh nhất là với những hàng hoá nhập từ Trung Quốc và các nước. Thị trường tuy đã được mở rộng nhưng cũng còn hạn chế. Hợp đồng lao động đa số là ngắn hạn, theo thời vụ, thiếu ổn định, đây chính là yếu tố hết sức bất lợi cho các DNTN trong tỉnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đặc biệt là khi Việt Nam hoàn tất lộ trình gia nhập AFTA và tiến trình gia nhập WTO.
Bên cạnh đó, việc mở rộng thị trường cũng là vấn đề khó khăn nhất của các DNTN hiện nay. Trong khi đó chất lượng hàng hoá của các DNTN tạo ra còn thấp, sức cạnh tranh yếu, nhiều sản phẩm làm ra thậm chí khó tiêu thụ. Việc tìm kiếm thị trường quốc tế vượt quá khả năng của các DNTN. Hơn nữa, nhiều sản phẩm của DNTN Thái Bình làm ra chủ yếu mới dừng lại ở sơ chế, gia công, nhất là các sản phẩm công nghệ chế biến nông - lâm - thủy sản, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ…Do đó chính quyền địa phương cần phải có những giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các vùng để tiếp cận và mở rộng thị trường. Chính quyền địa phương phải đóng vai trò người dẫn đường, người bạn đồng hành cho các doanh nghiệp, đảm nhiệm việc cung cấp thông tin về hội nhập qua nhiều kênh khác nhau đến các doanh nghiệp trong Tỉnh, đặc biệt là các DNTN. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp nói chung và DNTN nói riêng nắm được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để chủ động tham gia thị trường toàn cầu.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư còn hạn chế so với yêu cầu phát triển. Theo số liệu tổng hợp chương trình điều tra thu thập thông tin doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình năm 2005, thì khó khăn nhất mà DNTN gặp phải hiện nay là vấn đề về vốn sản xuất. Khoảng 75% DNTN được hỏi cho rằng năng lực tài chính của họ là rất khó khăn (số liệu này đối với khối hợp tác xã là 71% và của khối DNNN là 72%). Đa số các DNTN có quy mô nhỏ, năng lực tài chính hạn chế nên rất khó khăn trong hoạt động và đầu tư đổi mới công nghệ để cạnh tranh [31, tr.4]. Đồng thời do thiếu chiến lược kinh doanh và phát triển thị trường nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ còn thấp. Yếu tố vốn của doanh nghiệp cấu thành trong sản phẩm, hàm lượng tri thức, công nghệ và tính độc đáo trong sản phẩm không cao, giá trị gia tăng trong từng sản phẩm thấp. Do vậy sản phẩm làm ra kém hấp dẫn, mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nội địa là chủ yếu. Sản phẩm có thể xuất khẩu của DNTN chưa nhiều. Đây là vấn đề phải được quan tâm giải quyết để tạo ra sự phát triển đồng bộ và bền vững trong cơ chế thị trường. Đặc biệt là các DNTN vẫn chưa có được nhiều sản phẩm mới. Theo số liệu điều tra có 16,8% DNTN cho rằng khó khăn lớn nhất của họ là phát triển sản phẩm mới. Các DNTN chưa có nhiều dự án lớn và các dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản, thực phẩm sử dụng nguyên liệu là sản phẩm nông nghiệp của tỉnh.
Cho đến nay ở Thái Bình chưa có số liệu điều tra đầy đủ để so sánh vốn đăng ký với vốn đầu tư. Tuy nhiên, qua đợt kiểm tra thực tế ở một số doanh nghiệp cho thấy, số DNTN hành nghề trong lĩnh vực xây dựng thường kê khai vốn đầu tư ban đầu cao hơn vốn thực tế rất nhiều trong khi các DNTN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, thương mại, dịch vụ thì ngược lại, số vốn đầu tư thực tế lại cao hơn rất nhiều so với vốn kê khai ban đầu. Có hiện tượng này là do các DNTN hoạt động trong lĩnh vực xây dựng muốn cạnh tranh trong đấu thầu các công trình xây dựng lớn thì yêu cầu thiết yếu là phải có năng lực vốn lớn, thể hiện khả năng tài chính lành mạnh. Trong khi đó, các DNTN hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, thương mại dịch vụ có quy mô vốn ban đầu nhỏ nhưng phát triển quy mô vốn thông qua vay và chiếm dụng vốn để mở rộng thị phần, phát triển sản xuất. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, cơ cấu tổ chức và kinh doanh còn nhiều bất cập, chưa thật tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt, có tiềm năng và lợi thế của tỉnh so với các vùng khác. Do quy mô vốn nhỏ nên đầu tư cho trang thiết bị sản xuất còn hạn chế, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Theo số liệu tổng hợp điều tra cho thấy có 16% số DNTN được hỏi cho rằng khó khăn nhất của họ là tiếp nhận công nghệ sản xuất mới. Chính điều này cũng đã làm cho chi phí sản xuất tăng lên, theo số liệu điều tra có 19% DNTN cho rằng giảm chi phí sản xuất kinh doanh là vấn đề khó khăn nhất đối với họ. Do đó năng suất lao động thấp, chưa tạo được nhiều sản phẩm có uy tín và thương hiệu để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường, tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn đạt thấp, sức cạnh tranh kém.
Thứ ba, sản xuất còn mang tính chất khép kín, khả năng liên kết chưa cao, khả năng cập nhật thông tin thiếu và yếu. Nhiều DNTN còn mang nặng tính chất sản xuất gia đình. Đa số DNTN chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ, xây dựng với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trước mắt, thiếu chiến lược kinh doanh lâu dài. Do đó khả năng mở rộng thị trường là rất khó khăn. Năm 2005 có 50,7% DNTN ở Thái Bình cho rằng họ rất khó khăn trong việc mở rộng thị trường (Số liệu này đối với khối HTX là 41% và của DNNN là 38,5%). Các DNTN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và công nghiệp chế biến còn khiêm tốn [31, tr.4].
Nhiều DNTN thiếu thông tin về thị trường như: thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường nguyên vật liệu, thị trường thiết bị công nghệ, thông tin về chế độ chính sách và các quy định của Nhà nước. Theo số liệu điều tra có 15% số DNTN cho rằng họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn thông tin (số liệu này đối với khối HTX là 21% và DNNN là 7,7%). Do thiếu thông tin nên các DNTN chưa xây dựng được chiến lược kinh doanh có hiệu quả. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì thông tin có vai trò hết sức quan trọng, thậm chí quyết định đến thành công của doanh nghiệp.
Thứ tư, quản trị doanh nghiệp còn yếu kém, không chuyên nghiệp. Chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý doanh nghiệp nhiều người chưa được đào tạo cơ bản, thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh, về pháp luật kinh tế. Họ chủ yếu làm theo kinh nghiệm thấy người khác làm có hiệu quả thì làm theo, chưa chủ động nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo ra phương thức kinh doanh mới hoặc không dám mạo hiểm tiên phong bước vào một lĩnh vực mới. Những vấn đề có tính phổ biến hiện nay của các DNTN chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa là tính không minh bạch, tính phi chính thức và thậm chí không hợp pháp trong quản lý kinh doanh. Chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của chủ doanh nghiệp, người chủ doanh nghiệp đồng thời là người quản lý doanh nghiệp. Vì vậy không có sự phân biệt rõ ràng về mặt pháp lý quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động và người lao động. Phần lớn các chủ doanh nghiệp chưa chú ý đến chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn. Nhiều DNTN không lập được chiến lược, kế hoạch phát triển kinh doanh trong tương lai và phải triển khai hoạt động với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ phần lớn chưa qua đào tạo. Vì vậy, khi gặp phải những vấn đề lớn, dài hạn thì tỏ ra lúng túng, chưa có được các quyết định chính xác và kịp thời.
Quản trị doanh nghiệp yếu kém, quyền tự chủ kinh doanh của DNTN bị hạn chế làm cho doanh nghiệp khó có thể vượt qua khỏi giai đoạn đầu của sự khởi nghiệp để chuyển sang giai đoạn tăng trưởng và phát triển thành quy mô lớn, kinh doanh ổn định, bền vững và nâng cao tính cạnh tranh. Quản trị DNTN yếu kém là một trong những nhân tố hạn chế phát triển bền vững, hạn chế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Quản lý tài chính trong các DNTN còn thiếu minh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp, thiếu độ tin cậy. Việc đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác ở nhiều DNTN còn lúng túng, chưa thực sự chủ động trong việc kê khai. Báo cáo chưa đầy đủ các kết quả tài chính và tình trạng thiếu minh bạch khiến cho các doanh nghiệp chưa tạo được niềm tin đối với ngân hàng khi xem xét cho vay, nhất là cho vay không có bảo đảm thông qua công cụ cho vay chính sách.
Thứ năm, mặt bằng sản xuất cũng là vấn đề khó khăn đối với các DNTN. Nhiều DNTN vừa phải sử dụng nhà ở làm xưởng sản xuất. Điều này gây ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt bằng sản xuất chật hẹp đã ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn trong lao động. Theo số liệu điều tra của Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Thái Bình (2005) thì có 39% khối hợp tác xã cho rằng họ gặp nhiều khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất. Số liệu này đối với khối DNNN là 17,9%. Trong khi đó có 49,9% DNTN cho rằng các chính sách liên quan đến đất đai và mặt bằng sản xuất là vấn đề khó khăn nhất, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ [31, tr.4]. Nhiều DNTN do phải sử dụng nhà ở trong các khu dân cư làm mặt bằng sản xuất nên giá rất cao, làm cho chi phí sản xuất tăng lên. Trong khi năng lực tài chính của các DNTN còn hạn chế, giá cả quyền sử dụng đất cao đã vượt quá khả năng của các doanh nghiệp. Đặc biệt là số DNTN mới thành lập sau khi Luật doanh nghiệp năm 2005 có hiệu lực thì mặt bằng sản xuất còn khó khăn hơn. Nguyên nhân là do quyền sử dụng đất đã được giao lâu dài cho các cá nhân và tổ chức, Nhà nước không còn có sự hỗ trợ như trước nữa. Giá cả thuê đất và thời hạn thuê đất cũng là vấn đề mà các DNTN rất quan tâm. Do đó tạo điều kiện để giúp đỡ các DNTN về mặt bằng sản xuất là rất cần thiết.
Thứ sáu, trình độ khoa học - công nghệ lạc hậu, khả năng ứng dụng thấp, năng lực cạnh tranh yếu kém, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Phần lớn các DNTN có trình độ khoa học và công nghệ, trang thiết bị sản xuất lạc hậu. Suất tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu cao, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ trên thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời gây thiệt hại cho tài nguyên môi trường và ô nhiễm sinh thái; đầu tư và đổi mới công nghệ của DNTN còn thấp so với yêu cầu phát triển.
Trong điều kiện ngày nay, khoa học và công nghệ là nhân tố hàng đầu quyết định khả năng cạnh tranh và sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế DNTN Thái Bình do quy mô vốn nhỏ nên đầu tư cho khoa học và công nghệ vào sản xuất còn hạn chế. Nhiều DNTN hiện nay phải sử dụng những dây chuyền công nghệ sản xuất lạc hậu, chắp vá. Thậm chí phải sử dụng những công nghệ sản xuất cũ của các DNNN chuyển giao cho. Trong khi đó mặc dù chính quyền địa phương đã có nhiều chính sách để khuyến khích DNTN áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất nhưng sự hỗ trợ đó là rất khiêm tốn. Quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các DNTN Thái Bình muốn tồn tại, phát triển thì cần phải quan tâm đến đổi mới công nghệ sản xuất, giảm chi phí sản xuất. Điều khó khăn của các DNTN để tiếp cận công nghệ hiện đại không chỉ phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư mà còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ các nhà doanh nghiệp. Phần đông các chủ DNTN ở Thái Bình đều trưởng thành từ hoạt động thực tiễn, ít được đào tạo, một số lớn trong đó trưởng thành từ kinh tế hộ cá thể… Do đó họ rất khó khăn để lựa chọn công nghệ phù hợp, thẩm định công nghệ và các thông tin về thị trường công nghệ sản xuất. Điều này cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Công nghệ sản xuất lạc hậu cũng là nguyên nhân khiến nhiều DNTN ở Thái Bình gây ô nhiễm môi trường sinh thái nghiêm trọng. Nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, sản xuất thủ công mỹ nghệ truyền thống…Theo số liệu điều tra của Sở Kế hoạch Đầu tư, có 3% số cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc khối HTX gặp khó khăn trong việc xử lý môi trường, 7,7% số cơ sở sản xuất thuộc khối DNNN. Trong khi đó 8% số DNTN cho rằng vấn đề xử lý môi trường, đặc biệt xử lý chất thải công nghiệp đối với họ là rất khó khăn. Nguyên nhân một phần là do công nghệ lạc hậu, nhưng mặt khác là do chi phí đầu tư cho việc xử lý chất thải quá cao, doanh nghiệp một phần không đủ khả năng để thực hiện, phần khác do mục tiêu lợi nhuận buộc nhiều DNTN không muốn chi phí đầu tư. Điều này đã ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và vi phạm quy định pháp luật về bảo vệ môi trường của Nhà nước.
Về tư tưởng, nhận thức, nhiều DNTN chưa phát huy hết tính chủ động trong việc tự vươn lên tiếp thu công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến để phát triển doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều DNTN còn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Thậm chí có DNTN vẫn có tư tưởng “chờ thời” từ cơ chế chính sách của chính quy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van moi.doc
- bia.doc