Trong giai đoạn năm 1996 đến nay là giai đoạn mà tỉnh Bó Kẹo đã triển khai nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ VI (18-3-1996), lần thứ VII (2-3-2001) của Đảng NDCM Lào, nội dung phát triển kinh tế - xã hội lần thứ IV - V của Chính phủ và thực hiện nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ II (23-3-1999) của Đảng bộ tỉnh Bó kẹo nói chung và thực hiện 8 chương trình ưu tiên của Chính phủ và 10 chương trình ưu tiên của tỉnh nói riêng, nhằm phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước và của tỉnh ngày càng mạnh mẽ. Những nội dung ưu tiên của Chính phủ:
+ Chương trình sản xuất lương thực - thực phẩm.
+ Chương trình sản xuất hàng hoá.
+ Chương trình chấm dứt phá huỷ cây rừng làm nương và định canh, định cư.
+ Chương trình phát triển nông thôn toàn diện.
+ Chương trình chấn hưng con người.
+ Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng.
88 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1654 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế quan trọng với kinh nghiệm của các nước đi trước, nhất định Đảng NDCM Lào sẽ đề ra được những chính sách thích hợp nhằm đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại cả nước nói chung và Bó Kẹo nói riêng.
- Đặc điểm sản xuất nông nghiệp:
Sản xuất nông nghiệp ở tỉnh Bó Kẹo chủ yếu là của hộ gia đình nông dân, Nhà nước khuyến khích nông dân tiến hành sản xuất trồng trọt và chăn nuôi, chuyển từ lực lượng sản xuất truyền thống thô sơ, phụ thuộc vào tự nhiên sang lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới, chuyển sản xuất mang tính tự cung tự cấp sang sản xuất mang tính xã hội, nghĩa là nông dân vừa sản xuất cho mình; vừa sản xuất hàng hoá để bán. Trong những năm đổi mới, ở tỉnh Bó Kẹo, Đảng bộ và chính quyền cấp tỉnh đã quan tâm khuyến khích tạo điều kiện cho nông dân sản xuất hàng hoá nông nghiệp bằng cách xây dựng hệ thống thuỷ lợi, xây dựng giao thông vận tải, xây dựng chợ mua bán sản phẩm nông nghiệp, xây dựng ngân hàng khuyến nông để cho nông dân vay vốn bằng hiện vật và tiền tệ trong thời gian ngắn hạn và dài hạn với tỷ lệ lãi thấp. Mặt khác, Nhà nước đã đưa cán bộ chuyên môn nông - lâm nghiệp tổ chức tuyên truyền giới thiệu và giúp đỡ nông dân vận dụng lực lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật mới vào quá trình sản xuất nông nghiệp. Trong những năm qua, nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh đã phát triển nhanh chóng, nhất là lĩnh vực trồng trọt.
Trong 5 năm (2000 - 2005) phong trào sản xuất nông nghiệp của nông dân đã sôi nổi, phong trào ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới đã phát triển rộng rãi, sản phẩm nông nghiệp đã tăng lên chiếm 55,33% của GDP, cuộc sống của nhân dân được cải thiện tốt hơn.
Diện tích ruộng tăng 13.098 ha năm 2005 so với năm 2000, tăng 27% trong đó diện tích lúa mùa 12.498 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng 2.309 ha bằng 23%, diện tích lúa chiêm tăng 600 ha năm 2005 so với năm 2000 tăng gấp 11 lần. Tổng sản lượng tăng 56.719 tấn năm 2005, so với năm 2000 (49.385) tăng 7.334 tấn bằng 15 %, bình quân đầu người 391 kg/người.
Thúc đẩy nông dân trồng trọt và chăn nuôi, diện tích sản xuất hàng hoá 8.085 ha, năm 2005 so với năm 2000 tăng gấp 8 lần, sản lượng bằng 30.000 năm 2005, so với năm 2000 tăng 83%. Chăn nuôi của nông dân hiện tại có số con trâu 20.812 con năm 2005, giảm 25% so với năm 2000, bò 24.123 con; năm 2005 so với năm 2000 tăng 48%, gia cầm, thuỷ cầm 369.489 con năm 2005, so với năm2000 giảm 32%.
Mạng lưới thuỷ lợi vừa và nhỏ thô sơ tổng số 1.352 chi nhánh, có thể phục vụ cho diện tích tưới tiêu được 10.475 ha mùa mưa trong đó thuỷ lợi kiên cố 48 chi nhánh tưới tiêu được 7.497 ha [37, tr.8].
- Đặc điểm sản xuất công nghiệp và dịch vụ:
Sản xuất công nghiệp có sự tăng trưởng khá, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 10,18%. Một số sản phẩm tăng trên địa bàn có tốc độ tăng nhanh, nhà máy, xí nghiệp tổng số 76 xưởng, trong đó quy mô xưởng, quy mô vừa 13 xưởng; quy mô nhỏ 63 xưởng. Nhà máy lắp ráp xe máy 1 xưởng có tổng giá trị đầu tư là 1.620 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 16.917 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 18.870 tỷ kíp. Có xí nghiệp lắp đặt bật lửa ga 1 xưởng, tổng giá trị đầu tư 5.405 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.701 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 2.530 tỷ kíp. Các xí nghiệp chế biến 70 xưởng, tổng giá trị đầu tư 28.759 tỷ kíp, tổng giá trị sản xuất 1.588 tỷ kíp, tổng giá trị lưu thông 2.603 tỷ kíp [37, tr.11].
Về mạng lưới điện hiện nay hai huyện được tiêu dùng điện 96 bản chiếm 27% trong tổng số 135 bản của tỉnh.
Về mạng lưới giao thông: trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà nước đã có chính sách tập trung vốn và huy động vốn trong dân để xây dựng những tuyến đường liên huyện, liên bản và liên tỉnh. Hiện nay cả tỉnh có tất cả 35 cây cầu (trong đó có 10 cầu bê tông, 5 cầu sắt, 50 cầu gỗ) với chiều dài 203 km, tổng số xây dựng 92,48 tỷ kíp, trong đó vốn của nước ngoài 59,68 tỷ kíp. Hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh Bó Kẹo tạo điều kiện thuận lợi trong việc đi lại, vận chuyển hàng hoá trong cả hai mùa.
Mạng lưới thông tin liên lạc của tỉnh Bó Kẹo đến nay nhìn chung vẫn còn nhiều yếu kém. Mạng lưới này tuy đã đảm bảo thông suốt thông tin liên lạc cho việc lưu thông hàng hoá, đáp ứng được nhu cầu của an ninh quốc phòng, nhưng vẫn còn rất lạc hậu. Đến năm 2005 số điện thoại trên toàn tỉnh mới được khoảng 3% dân số kể cả điện thoại của cơ quan nhà nước. Toàn tỉnh hiện nay có 5 bưu cục, do vậy có rất nhiều làng chưa có điện thoại. Do vậy có thể nói hệ thống thông tin liên lạc cần được mở rộng nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nữa cho sản xuất và lưu thông hàng hoá, cũng như yêu cầu của an ninh quốc phòng.
- Đặc điểm thị trường:
Thị trường Bó Kẹo đa dạng và phong phú, nhất là trên địa bàn tỉnh có nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp tiểu thủ của địa phương, cả trong nước và nước ngoài nên dịch vụ thương mại phục vụ sản xuất cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu có thị trường, có thị trường vừa và nhỏ.Hoạt động thương mại trên địa bàn hiện nay mới chỉ đáp ứng được 30-35% nhu cầu đó. Bó Kẹo có biên giới giáp Thái Lan, Myanma và gần Trung Quốc, là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài, phần lớn là hàng hoá nhập khẩu do sản xuất trong nước chưa phát triển nói chung Bó Kẹo nói riêng. Cho nên thị trường trên địa bàn tỉnh, thị trường nông thôn và thị trường vùng sâu, vùng xa đều là thị trường tiêu thụ hàng hoá của nước ngoài chiếm trên 90%. Sản phẩm nông nghiệp - công nghiệp sản xuất phục vụ trong tỉnh đáp ứng được chỉ có gạo, nước uống, gạch, thịt trâu, thịt bò và thịt lợn, sản xuất một số lương thực thực phẩm theo mùa như các loại rau. Thị trường vốn ở Bó Kẹo cũng có bước phát triển. Trên địa bàn tỉnh có hệ thống ngân hàng chuyên doanh như: Chi nhánh ngân hàng phát triển, chi nhánh ngân hàng khuyến nông và dịch vụ. Năm 2003 - 2004 tổng vốn huy động tại chỗ đạt 41,39 tỷ kíp, tổng vốn cho vay các thành phần kinh tế đạt 1,7 tỷ kíp. Nhìn chung hoạt động thị trường vốn đảm bảo chính sách của nhà nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống nhân dân.
2.1.2. Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thương mại
2.1.2.1. Thuận lợi
Một là, Bó Kẹo nằm trên trục quốc lộ A3, trục giao thông đường bộ huyết mạch nối cửa khẩu với các tỉnh miền Bắc của Vương quốc Thái Lan và Myanmar và trở thành trung tâm xuất - nhập khẩu hàng hoá của các tỉnh Bắc trong nước. Bó Kẹo có vùng đồng bằng và núi cao có điều kiện phát triển nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi. Với đặc điểm của mọi tiểu vùng khí hậu ôn đới, là địa hình lý tưởng cho quy hoạch một khu du lịch rộng lớn với hang động, sông suối dạng "sơn thủy hữu tình".
Hai là, Bó Kẹo có điều kiện để vận chuyển hàng hoá không chỉ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của tỉnh mà còn có điều kiện mở rộng lưu thông hàng hoá với Luông Pha Bang, tỉnh Luông Nam Tha, tỉnh U Đôm Xay và công hoa nhân Trung Quốc. Khi quy mô của lưu thông hàng hoá lớn lên và tốc độ lưu thông hàng hoá phải nhanh thì Bó Kẹo ngoài hệ thống đường bộ còn có tiềm năng để vận chuyển hàng hoá theo đường Thủy và đường hàng không. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới, Lào đã gia nhập ASEAN; tham gia APEC, AFTA và chuẩn bị gia nhập WTO thì vấn đề mở cửa kinh tế và phát triển kinh tế cửa khẩu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bó Kẹo có cửa khẩu kinh tế quốc tế Huổi Xài và Bản Mòm để phát triển kinh tế đối ngoại không chỉ với tỉnh Chiêng Rai của Vương quốc Thái Lan và tỉnh Chiêng Tung - Myanma mà có điều kiện trở thành trung tâm giao lưu hàng hoá giữa một số tỉnh phía Bắc của ta.
Ba là, Bó Kẹo có hai vùng trung tâm kinh tế đó là huyện Huổi Xai tỉnh lỵ của tỉnh Bó Kẹo và huyện Tổn Phầng, hai huyện này dọc sông Mê Kông và vùng biên giới có thể tạo thế tương hỗ cho nhau trong quá trình phát triển thương mại và mở rộng thị trường. Vùng quốc lộ A3 có điều kiện phát triển mạng lưới cửa hàng đại lý cung ứng và tiêu thụ đến tạn bản, trung tâm cụm bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm cụm bản để vừa kích thích sản xuất, vừa ổn định thị trường giá cả bảo đảm thuận lợi cho nhu cầu mua bán hàng hoá. Đồng thời sự phát triển mạnh mẽ ở vùng này sẽ tạo ra sức hút cũng như một số tiền đề cho phép phát triển thương mại ở vùng sông Mê Kông và vùng biên giới Thái Lan và Myanma.
2.1.2.2. Khó khăn để phát triển thương mại
Một là, kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thương mại thiếu, chất lượng thấp là hạn chế lớn nhất đến việc phát triển thương mại Bó Kẹo. Hệ thống giao thông của Bó Kẹo ngoại quốc lộ A3 rất khó khăn. Còn nhiều cụm bản chỉ có đường mòn đi trên sườn núi đi lại khó khăn. Đó là trở ngại lớn trong việc vận chuyển hàng hoá cung ứng cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá của nhân dân, các vùng, trong tỉnh, đặc biệt là đối với dân cư các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống điện, lưới điện, hệ thống cung cấp nước sạch còn hạn chế, một số dịch vụ, tư vấn quảng cáo... còn kém phát triển cũng là trở ngại lớn trong việc khai thác lợi thế phát triển thương mại.
Hai là, thương mại muốn phát triển được còn phụ thuộc vào sức mua của dân cư. Với mức thu nhập còn hạn chế (mức thu nhập bình quân đầu người của Bó Kẹo chỉ 365 USD/người/năm) cho thấy, đời sống của một bộ phận khá lớn dân cư còn ở mức nghèo và rất nghèo, đặc biệt là dân cư ở các vùng sâu, vùng xa. Mức thu nhập thấp, trình độ dân trí thấp là những cản trở lớn, hạn chế sự phát triển của thị trường và thương mại Bó Kẹo hiện nay.
Ngoài ra, sự phân bố dân cư không tập trung, ở những các vùng các dân tộc thiểu số sống quá thưa thớt trên các vùng núi cao cũng là trở ngại cho sự phát triển thương mại và thị trường Bó Kẹo.
Ba là, trong điều kiện đẩy mạnh mở cửa và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới nhưng một số chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước còn thiếu, chưa đồng bộ, chậm được cụ thể hoá hoặc còn thiếu điều kiện khả thi để phát triển thương mại, miền núi nói chung và Bó Kẹo nói riêng. Trình độ và năng lực quản lý của cán bộ nói chung còn chưa đáp ứng kịp cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển thương mại Bó Kẹo.
2.1.3. Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo
- Tình hình hoạt động thương mại trước năm 1996:
Tình hình hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo có những điểm chung với hoạt động thương mại toàn quốc gắn với từng giai đoạn chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Trong những năm đổi mới thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và chính sách tự do hoá thương mại theo tinh thần Đại hội lần thứ IV và V của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã xác định đổi mới trong phát triển kinh tế, trong đó coi hoạt động thương mại là cầu nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung tự cấp để sang phát triển kinh tế hàng hoá, nhằm mục tiêu phát triển sản xuất và đời sống ngày càng nâng cao.
Tỉnh Bó Kẹo với điều kiện thuận lợi cơ bản là có biên giới giáp Thái Lan và Myanmar. So với các tỉnh khác, phát huy lợi thế của tỉnh nên trong thời gian qua, tỉnh đã đạt được những kết quả đáng mừng trong hoạt động thương mại. Đến nay tỉnh đã có nhiều biện pháp để thực hiện nhất quán chính sách tự do hoá thương mại theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, kiên quyết xoá bỏ mọi ranh giới chia cắt thị trường giữa các vùng trong tỉnh và giữa các tỉnh khu vực với bên ngoài... đây là một chính sách tốt để tạo điều kiện cho thương mại phát triển. Đồng thời từ chỗ hoạt động thương mại thuộc khu vực của nhà nước, đến nay với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế đã thu hút được một lực lượng lớn khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động thương mại dịch vụ.
Nhìn chung khi chuyển sang kinh tế thị trường hoạt động thương mại với nhiều chủ thể, hình thức sở hữu tham gia, giai đoạn từ trước năm 1996 các doanh nghiệp thương nghiệp và thương nhân mua bán bị chao đảo, lâm vào tình trạng bế tắc, mất vai trò chủ đạo thị trường "các công ty thương nghiệp của nhà nước và tư nhân còn bỏ trống một số lĩnh vực và địa bàn trọng yếu. Dần dần doanh nghiệp thương mại thay đổi phương thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới vươn lên nắm khâu bán buôn, chi phối bán lẻ, doanh nghiệp thương mại được chấn chỉnh, tổ chức đổi mới sắp xếp theo hướng gọn nhẹ, các công ty bước đầu đã chặn được thua lỗ kéo dài. Tình hình hoạt động thương mại trong giai đoạn năm 1990-1995 chẳng hạn tình hình luân chuyển hàng hoá năm 1990 - 1995:
- Năm 1990-1991 thực hiện được 27.295 triệu kíp, so với kế hoạch năm tăng 10% bằng 47.340 triệu kíp.
- Năm 1991-1992 đạt được 354.253 triệu kíp, so với năm 1990 - 1991 tăng 19,73% bằng 58.376 triệu kíp.
- Năm 1992-1993 đạt được 460.529 triệu kíp so với năm 1991 - 1992 tăng 30% bằng 106.276 triệu kíp.
- Năm 1993-1994 đạt được 619.412 triệu kíp so với năm 1992-1993 tăng 34,5% bằng 158.882 triệu kíp.
- Năm 1994 - 1995 đạt được 813.721 triệu kíp so với năm 1993-1994 tăng 32,8% bằng 201.308 triệu kíp [38, tr.2].
- Tình hình phát triển hoạt động thương mại 1996 - 2005:
Qua hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới Đảng và Nhà nước khởi xướng và lãnh đạo, sau nhiều lần củng cố, sắp xếp, triển khai quy hoạch phát triển mạng lưới thương mại, từ năm 1996 đến nay hoạt động thương mại đã hình thành rõ nét từng thị trường, từng loại doanh nghiệp và hình thức sở hữu của mọi thành viên kinh tế tham gia trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo.
Nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần các tổ chức thương mại và các cơ quan chức năng đã chú ý cải cách quản lý các đơn vị kinh doanh đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả. Cụ thể là:
+ Đã có kế hoạch thúc đẩy các công ty xuất nhập khẩu tìm mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả, đồng thời quản lý nghiêm ngặt hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Có sự quản lý tương đối hiệu quả về giá cả các loại hàng hoá, đặc biệt là đối với các loại hàng hoá chiến lược, tránh tình trạng giá cả leo thang trong những ngày hội, ngày lễ.
+ Đã có quan hệ với các ngành có liên quan để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, thực hiện chính sách bảo hộ với một số loại hàng hoá để phát triển những loại hàng hoá này trong giai đoạn đầu.
+ Quản lý theo dõi chặt chẽ việc thu mua lương thực - thực phẩm của công ty cũng như các hộ kinh doanh lương thực trong tỉnh về giá cả và số lượng nhằm đảm bảo an ninh lương thực, an ninh quốc phòng và thực hiện giá đúng theo hướng dẫn của Bộ Thương mại trong từng giai đoạn.
+ Tổ chức cho các đơn vị kinh doanh các hộ kinh doanh năm và hiểu biết các nghị quyết, pháp luật, luật lệ trên cơ sở đó họ thực hiện kinh doanh theo đúng luật pháp. Vì vậy các nhà kinh doanh và nhân dân đã chấp nhận, hiểu và làm đúng những chủ trương, chính sách, luật pháp của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Như vậy hoạt động thương mại ở Lào thời gian qua ngày càng phát triển. Về số lượng hàng hoá được luân chuyển trong tỉnh và hàng hoá trong tỉnh đi các tỉnh khác cùng với hoạt động xuất nhập khẩu liên tục gia tăng kể từ khi có đường lối đổi mới của Đảng vào năm 1986 thì có thể nói giai đoạn 1990-1996 mức độ luân chuyển lại giảm so với những năm 1986-1990. Nhưng kể từ năm 1996 đến nay tốc độ luân chuyển hàng hoá liên tục gia tăng, đặc biệt là các năm 2000 đến 2005 tốc độ tăng trưởng như sau:
* Tình hình luân chuyển hàng hoá của tỉnh:
- Năm 2000 - 2001 thực hiện được 54.835.755 triệu kíp, so với kế hoạch năm tăng 18,48% bằng 46.280.325 triệu kíp.
- Năm 2001 - 2002 thực hiện được 55.932.470 triệu kíp, so với năm 2000-2001 tăng 2% bằng 1.096.715 triệu kíp.
- Năm 2002 - 2003 đạt được 57.268.830 triệu kíp, so với năm 2002-2003 tăng 2,39% bằng 1.336.786 triệu kíp.
- Năm 2003-2004 đạt được 65.468.399 triệu kíp, so với năm 2002-2003 tăng 14,31% tăng 9.368.528 triệu kíp.
- Năm 2004 - 2005 đạt được 72.061.066 triệu kíp, so với năm 2003-2004 tăng 10,07% bằng 7.256.549 triệu kíp [55, tr.3-4].
* Tình hình xuất khẩu:
- Năm 2000 - 2001 đạt được 1.338.386 USD, so với kế hoạch năm (1.822.087 USD), giảm 26,54% bằng (-483.581,88 USD).
- Năm 2001 - 2002 đạt được 2.055.670 USD, so với 2000-2001 (1.338.386 USD) tăng 53,59% bằng (717.284 USD).
- Năm 2002 - 2003 đạt được 2.151.562 USD so với năm 2001-2002 (2.055.670 USD) tăng 4,66% bằng (95.794,22 USD).
- Năm 2003-2004 đạt được 2.999.922,89 USD so với năm 2002-2003 (2.151.562 USD) tăng 39,43% bằng (848.360,89 USD).
- Năm 2004-2005 đạt được 3.299.915,17 USD so với năm 2003-2004 (2.999.922,89 USD) tăng 10% bằng (299.992,28 USD) [55, tr.4-5].
* Hàng hoá nhập khẩu:
- Năm 2000 - 2001 đạt được 1.763.580 USD.
- Năm 2001 - 2002 đạt được 1.365.580 USD.
- Năm 2002 - 2003 đạt được 1.996.977 USD.
- Năm 2003 - 2004 đạt được 2.100.000 USD.
- Năm 2004 - 2005 đạt được 2.247.000 USD [55, tr.5].
Tổng giá trị nhập khẩu trình bày ở trên là hàng hoá Sở thương mại cấp giấy phép công ty nhập khẩu chủ yếu là những mặt hàng cần thiết như: xe ô tô, xe máy các loại, vật liệu xây dựng cơ sở hạ tầng, công cụ điện lực, máy móc nông nghiệp.
Ngoài ra trên thị trường còn nhiều mặt hàng nhập lậu tỉnh không thể nắm vững số liệu cụ thể được.
* Dịch vụ hàng quá cảnh
Do địa lý, địa hình và đặc điểm của tỉnh có điều kiện thuận lợi, vì vậy việc dịch vụ hàng hoá quá cảnh từ Thái Lan đi Trung Quốc ngược lại Trung Quốc đi Thái Lan phải qua tỉnh Bó Kẹo tổng giá trị hàng hoá quá cảnh năm 2000-2004 đạt 12.564.388 USD, bình quân mỗi năm khoảng 3.141,097 USD [55, tr.5].
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo
2.2.1. Quá trình đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở Lào nói chung và tỉnh Bó Kẹo nói riêng
Thực hiện chức năng của hệ thống quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại đã phải thay đổi một cách căn bản. Từ chỗ đóng vai trò "ông chủ" phân phối hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ đã chuyển sang quản lý theo công cụ mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường tự do, mở cửa. Các cơ quan thương mại được sắp xếp lại, các bộ phận kế hoạch, giá cả, lao động và tiền lương được tinh giảm tối đa. Bộ máy quản lý bằng các công cụ hướng dẫn vĩ mô được tăng cường.
Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại từ Trung ương đến địa phương đã qua các thời kỳ cải cách và sắp xếp lại như sau:
- Cơ quan quản lý cấp Trung ương: Bộ Thương mại Lào được thành lập, là cơ quan quản lý nhà nước, nằm trong cơ cấu thành viên của Chính phủ Lào từ năm 1982, được tách ra từ Bộ Công thương nghiệp trước đó. Từ đó cho đến nay Nhà nước, Chính phủ Lào đã không ngừng cải cách bộ máy quản lý nhà nước về thương mại (5 lần) để phù hợp với nhiệm vụ chính trị và yêu cầu nội dung đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại qua các thời kỳ, cụ thể là:
+ Năm 1986 sát nhập chức năng và nhiệm vụ về kinh tế đối ngoại và đầu tư nước ngoài vào Bộ Thương mại, đổi thành Bộ Thương mại và kinh tế đối ngoại.
+ Năm 1991 lại tách bộ phận kinh tế đối ngoại ra và sát nhập ngành du lịch vào thương mại, đổi tên thành Bộ Thương mại và du lịch.
+ Năm 1996 tách Tổng cục du lịch về trực thuộc Chính phủ, chỉ còn bộ Thương mại.
+ Đến năm 1999 lại sát nhập Tổng cục du lịch vào Bộ Thương mại thành Bộ Thương mại và dịch vụ.
+ Từ năm 1999 đến nay, lại tách Tổng cục du lịch trực văn phòng Thủ tướng Chính phủ, thành lập Bộ Thương mại, để làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại toàn quốc và quản lý hoạt động thương mại với các nước trong khu vực và thế giới.
Theo từng bước như trên, Sở Thương mại tỉnh Bó Kẹo được thành lập từ năm 1987 và được thay đổi tên theo Bộ Thương mại cấp Trung ương...
Nghị định của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào số 78/TTg, ngày 14/6/2002, quyết định thành lập lại Bộ Thương mại, quy định tổ chức bộ máy, rõ vai trò, chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của Bộ Thương mại về quản lý nhà nước đối với ngành thương mại. Sau đó, Bộ Thương mại được giao nhiệm vụ và quyền hạn cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại cấp tỉnh, thành phố và Sở Thương mại. Đối với bộ máy quản lý nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành phố) ở CHDCND Lào, chính quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ; Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại ở địa phương. Chức năng của Sở Thương mại ở các tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý thương mại ở cấp địa phương, trực thuộc ngành dọc; làm nhiệm vụ tổ chức thực hiện cụ thể chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương mại trên phạm vi địa bàn địa phương mình. Cho nên, cơ cấu tổ chức và bộ máy của Sở thường thay đổi mỗi khi có sự thay đổi của cơ quan quản lý cấp trên - Bộ Thương mại. Bộ máy quản lý thương mại cấp địa phương (tỉnh, thành phố) trong thời gian qua rất gọn nhẹ, làm nhiệm vụ quản lý do Bộ Thương mại giao cho theo cơ chế quản lý kinh tế nhà nước từng thời kỳ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở cũng thay đổi theo sự phân công, phân cấp quản lý theo hướng tăng cường và mở rộng chức năng nhiệm vụ và quyền hạn cấp tỉnh, thành phố.
Hiện nay ở Lào, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại bao gồm một số cơ quan sau:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thương mại.
2. Bộ thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về thương mại.
3. Các Bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp với Bộ Thương mại quản lý nhà nước về thương mại.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn lãnh thổ theo phân cấp của Chính phủ.
Trong hoạt động thương mại rất đa dạng và phức tạp, việc nghiên cứu để đảm bảo quản lý tốt hoạt động này gồm rất nhiều nội dung sau:
1. Ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, xây dựng chính sách, chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại.
2. Tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại.
3. Tổ chức, thu thập cung cấp thông tin, dự báo và định hướng về thị trường trong và ngoài nước.
4. Hướng dẫn tiêu dùng hợp lý tiết kiệm.
5. Điều tiết lưu thông hàng hoá theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và theo quy định của pháp luật.
6. Tổ chức các hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại.
7. Tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về thương mại.
8. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động thương mại.
9. Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại.
10. Đại diện và quản lý hoạt động thương mại của Lào ở nước ngoài.
11. Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển và việc chấp hành pháp luật về thương mại, xử lý vi phạm pháp luật về thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm, hàng giả, hàng nhái, đầu cơ lũng loạn thị trường kinh doanh trái phép, và các hành vi khác vi phạm về Luật thương mại.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại được tập trung thống nhất vào Bộ Thương mại. Bộ Thương mại là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động thương mại (bao gồm: xuất nhập khẩu, kinh doanh vật tư, hàng tiêu dùng dịch vụ thương mại) thuộc mọi thành phần kinh tế trong cả nước, kể cả hoạt động thương mại của tổ chức và cá nhân người nước ngoài được hoạt động tại Lào. Bộ Thương mại có các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1. Xây dựng trình Chính phủ ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế và quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu.
2. Quản lý hạn ngạch nhập khẩu, cấp hoặc thu hồi giấy phép - kinh doanh xuất nhập khẩu đối với các tổ chức kinh doanh theo sự phân cấp của Chính phủ.
3. Cấp giấy phép xuất khẩu cho các tổ chức liên doanh với nước ngoài theo luật đầu tư.
4. Quản lý các hoạt động tư vấn, môi giới, hội chợ và các hoạt động quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và xúc tiến thương mại ở trong và ngoài nước.
5. Phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc xét duyệt các chương trình dự án đầu tư gián tiếp về thương mại.
6. Xét cho phép các tổ chức kinh tế nước ngoài lập văn phòng đại diện hoặc thành lập công ty chi nhánh tại Lào.
7. Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ đối với các cơ quan đại diện kinh tế thương mại của Lào đặt ở nước ngoài.
8. Soạn thảo trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền của Bộ các quy chế quản lý các hoạt động thương mại trong nước, xây dựng kế hoạch và có chính sách phát triển kinh tế thương mại đối với miền núi vùng cao.
9. Tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong hoạt động thương mại.
10. Tổ chức tiếp nhận, xử lý, cung cấp các loại thông tin kinh tế, thương mại trong nước và thế giới phục vụ cho sự chỉ đạo của Chính phủ và các tổ chức kinh tế.
11. Quản lý nhà nước về công tác đo lường chất lượng hàng hoá trong hoạt động thương mại thuộc lĩnh vực Bộ Thương mại phụ trách trên thị trường cả nước.
12. Hướng dẫn và chỉ đạo cơ quan quản lý nhà nước về thương mại ở địa phương về nghiệp vụ chuyên môn.
Để giúp việc cho Bộ trưởng quản lý có các bộ phận chức năng giúp Bộ trưởng trong việc quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc bộ.
Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là:
1. Vụ xuất nhập khẩu.
2. Vụ Kế hoạch thống kê.
3. Vụ Quản lý thị trường.
4. Vụ Tài chính.
5. Vụ Tổ chức cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia.doc