Lời cam đoan .ii
Lời cảm ơn.iii
Mục lục .iv
Danh mục các chữ viết tắt .vi
Danh mục các bảng, biểu.vii
MỞ ĐẦU.1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC XÃ VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN,
TỈNH NINH BÌNH .10
1.1.Vị trí địa lí và lịch sử hình thành.10
1.1.1.Vị trí địa lí.10
1.1.2. Lịch sử hình thành .11
1.2. Đặc điểm tự nhiên.17
1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội.22
1.3.1. Đặc điểm kinh tế.22
1.3.2. Đặc điểm xã hội.25
Tiểu kết chương 1.28
Chương 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN CÁC XÃ VEN
BIỂN HUYỆN KIM SƠN, TỈNH NINH BÌNH GIAI ĐOẠN 1986 - 2000 .30
2.1. Bối cảnh lịch sử .30
2.2. Đời sống kinh tế.37
2.2.1. Kinh tế nông nghiệp .37
2.2.2. Kinh tế ngư nghiệp .43
2.2.3. Kinh tế tiểu thủ công nghiệp .46
2.3. Đời sống văn hóa .49
2.3.1. Văn hóa vật chất .49
2.3.2. Văn hóa tinh thần.51
114 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đời sống kinh tế văn hóa của cư dân các xã ven biển huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình 1986 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thủy
sản. Đây là nguyên nhân chính làm diện tích trồng cói giảm, nhất là ở giai đoạn
sau năm 2000 trở đi.
Trồng lúa
Trong điều kiện của nền kinh tế tiểu nông truyền thống của Huyện, dải đất
bồi tụ ven biển không phải là “đồng xôi ruộng mật”, mà là vùng đất bồi ngập
mặn, không thích hợp với nghề trồng lúa, và cũng không phải là chỗ đứng chân
có sẵn cho những người nông dân muốn lập nghiệp. Bởi vậy, đối với nghề nông,
đó là tặng vật của thiên nhiên khó sử dụng nhất và ít giá trị kinh tế nhất. Cho nên,
vùng đất bồi tụ ven biển thường là vùng hoang hóa, một loại vùng hoang hóa kế
cận những vùng nông thôn trù phú [25, tr.51]. Các xã vùng ven biển huyện Kim
Sơn nói riêng và các vùng đồng bằng ven biển khác nói chung trong thời gian
đầu khi mới được khẩn hoang, đất đai nơi đây thường có độ mặn lớn hơn trong
nội đồng. Do đó, cả hàng chục năm sau đó, khi chưa trở thành đất thục, loại đất
này ít thích hợp với việc trồng lúa. Người dân phải mất hàng thế hệ mới có thể
tạo dựng được nghề trồng lúa và cũng nhờ đó, người nông dân mới có thể đứng
chân được ở vùng hoang hóa đầu sóng ngọn gió này.
Lúa chịu mặn là cây lương thực đầu tiên được trồng trên đất mặn lấn biển
để thay thế cây cói. Loại lúa chịu mặn này còn được gọi theo tiếng địa phương
là lúa Chăm. Trên đất trồng cói, khi mà chất lượng và sản lượng cói giảm thì lúc
đó cũng có nghĩa là đất đã được ngọt hóa thì thường không trồng cói nữa mà thay
thế bằng lúa chịu mặn. Loại lúa chịu mặn này cũng chỉ phát triển được ở các loại
đất có độ mặn ít đến mặn trung bình mà thôi. Do đó, để cây lúa có thể phát triển
được thì người dân chỉ có thể cấy lúa vào mùa mưa, bắt đầu cấy vào tháng 4, 5
đến tháng 8, 9 thì thu hoạch. Bởi vào thời gian này là lúc lượng mưa nhiều sẽ
làm giảm độ mặn trong đất và khi đó là điều kiện thích hợp nhất để cây lúa phát
triển. Để phát triển loại lúa này cũng cần có biện pháp chăm sóc và áp dụng các
41
biện pháp kỹ thuật tốt hơn đối với các loại cây trồng khác cùng khu vực. Kinh
nghiệm của những người dân nơi đây cho biết, cây lúa ở vùng ven biển cần nhiều
lượng Kali hơn cây lúa trong nội đồng, bởi Kali sẽ giúp cho cây lúa trở nên cứng
cáp hơn, do đó có thể chống chịu lại gió biển. Nếu như người nông dân nói chung
khi trồng lúa thì phải “trông trời, trông đất, trông mây”, thì những người dân
vùng ven biển huyện Kim Sơn phải “trông trời, trông đất, trông biển” để có chế
độ điều tiết nguồn nước kịp thời cho cây lúa phát triển.
Như vậy, có thể nói, việc trồng lúa trên vùng đất ven biển huyện Kim Sơn là
một điều rất vất vả. Năng suất của cây lúa phụ thuộc vào độ chua mặn của đất, chế
độ thủy văn và điều kiện khí hậu. Do vậy, những người nông dân vùng ven biển này
cần nắm vững các yếu tố trên để đạt được hiệu quả cao nhất.
Để sử dụng hiệu quả vùng đất bãi bồi ven biển này, người nông dân đã
biết luân canh mùa vụ cây con cho thích hợp với từng loại đất. Do đó, cây lúa
chỉ được trồng chủ yếu ở khu vực phía Bắc và Đông bắc xã Kim Đông, và một
phần rất nhỏ ở xã Kim Trung.
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất và sản lượng lúa vùng ven biển
huyện Kim Sơn giai đoạn từ 1995 - 2000
Năm
Diện tích (ha) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (Tấn)
Kim Đông Kim Trung Kim Đông Kim Trung Kim Đông Kim Trung
1998 299,7 - 28,22 - 845,7 -
1999 295,9 72 38,92 38,92 677,0 244,8
2000 295 88 30,34 24,92 895,0 219,0
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000)
Qua bảng trên ta thấy, đa phần diện tích trồng lúa của vùng ven biển thuộc
xã Kim Đông: năm 2000, với tổng diện tích đất tự nhiên là 650 ha thì diện tích
trồng lúa của Kim Ðông chiếm 45,4%. Ðiều này cho thấy, ở xã Kim Đông, cây
lúa là một cây trồng chính, giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của con
người nơi đây. Bên cạnh đó, bảng số liệu trên cũng cho thấy năng suất và sản
lượng lúa thu được cũng không cao. Tác giả Đào Tố Uyên đã từng nhận định:
42
“Lúa Chăm là loại lúa chịu được mặn đến 2,8% khi trưởng thành, chỉ cấy được
1 vụ vào mùa mưa có nước lợ, năng suất không cao” [58, tr.56]. Điều này được
người dân giải thích là do bên cạnh độ mặn của đất thì còn một nguyên nhân nữa
là do thiếu những cơ sở cần thiết cho công nghệ thâm canh lúa, nhất là thiếu hệ
thống nước ngọt trực tiếp nên rất khó khăn cho việc trồng lúa. Đây cũng là lý do
làm cho diện tích trồng lúa ở khu vực này bị biến động mạnh ở giai đoạn sau.
Chăn nuôi
Cùng với cây lúa và cây cói, chăn nuôi cũng được xem là một ngành chính
trong sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi vừa góp phần tăng thu nhập cho người
nông dân, vừa cung cấp phân bón và sức kéo cho đồng ruộng; bên cạnh đó lại
cung cấp nguồn thực phẩm cho con người. Thực hiện chủ trương của chính sách
khoán 10, huyện Kim Sơn đã hóa giá 98% đàn trâu bò, tạo điều kiện cho các hộ
xã viên chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, chăn nuôi gia súc, gia cầm của huyện nói
chung cũng được cải thiện. Ở các xã vùng ven biển của huyện, ngay từ khi mới
thành lập, ngành chăn nuôi cũng được hình thành, nhưng quy mô không lớn. Cụ
thể như sau:
Bảng 2.3: Số lượng gia súc của các xã vùng ven biển từ năm 1995 - 2000
Đơn vị: Con
Năm
Loại gia súc
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Trâu 27 19 66 102 112 118
Bò 11 3 41 110 51 111
Lợn 1229 1243 1252 1401 1406 1583
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000)
Qua bảng trên chúng ta thấy, loài gia súc được những cư dân ven biển đầu
tư chăn nuôi là lợn, trong đó chủ yếu là lợn thịt. Bởi nuôi lợn vừa là nguồn tăng
thêm thu nhập hằng ngày, đồng thời cung cấp một lượng phân bón chủ yếu cho
ngành trồng trọt. Bên cạnh nuôi lợn thì cư dân ven biển Kim Sơn cũng đầu tư
cho chăn nuôi trâu bò, nhưng với số lượng nhỏ và không ổn định. Trâu bò được
nuôi thả tự do trên đồng cỏ, chủ yếu với mục đích là làm sức kéo phục vụ cho
43
sản xuất nông nghiệp. Bởi trong giai đoạn đầu khi mới được thành lập, các tiến
bộ khoa học - kĩ thuật, máy móc trang thiết bị cho sản xuất còn chưa được áp
dụng rộng rãi trong toàn huyện, nhất là ở vùng kinh tế mới ven biển này.
Trong chăn nuôi, người dân nơi đây cũng rất quan tâm đến điều kiện thời
tiết để có biện pháp phòng tránh dịch bệnh cho đàn gia súc của mình. Ở giai đoạn
đầu khi mới lập nghiệp, cuộc sống của con người rất khó khăn. Nhà ở là nhà tạm
nên chuồng trại chăn nuôi cũng chỉ làm rất đơn giản, không kiên cố. Cho nên,
vào mùa hè thường có nhiều mưa bão, người dân luôn chú ý giữ cho chuồng trại
khô thoáng, không bị ẩm ướt; còn mùa đông lượng gió biển thổi mạnh hơn trong
nội đồng nên người dân chú ý che chắn chuồng trại để giữ ấm cho gia súc.
Ngoài việc chăn nuôi gia súc, cư dân vùng biển cũng có nuôi thêm một
số loài gia cầm, mà chủ yếu là nuôi gà. Đây là loại vật nuôi không thể thiếu
được ở mỗi gia đình trong huyện Kim Sơn nói chung, chứ không riêng gì người
dân vùng ven biển này. Bởi gà là nguồn cung cấp thực phẩm tại chỗ thường
xuyên hằng ngày, đồng thời là nguồn dự trữ dùng trong các dịp giỗ hay lễ tết
hằng năm.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, ngành chăn nuôi ở vùng ven biển Kim
Sơn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ là chủ yếu, không mang tính quy mô lớn. Do
đó có thể khẳng định, ngành chăn nuôi chỉ góp phần phục vụ cho các nhu cầu
hằng ngày của người dân là chính, hoàn toàn không phải là thế mạnh kinh tế
của vùng.
2.2.2. Kinh tế ngư nghiệp
Khai thác, đánh bắt
Là vùng duy nhất giáp biển của huyện Kim Sơn nên hoạt động kinh tế ngư
nghiệp của các xã vùng ven biển cũng được hình thành ngay từ những ngày đầu
khi mới thành lập. Trong đó, khai thác và đánh bắt thủy hải sản được coi là hoạt
động cơ bản nhất. Với chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển của chính
quyền huyện Kim Sơn nên sản lượng khai thác và đánh bắt thủy hải sản dần tăng
44
lên (chủ yếu là sản lượng cá biển). Tuy nhiên, hoạt động kinh tế này mới chỉ
dừng lại ở việc đánh bắt tự nhiên, tổ chức khai thác tự phát, phân tán. Vì mới bắt
đầu xây dựng một cuộc sống ở một vùng đất mới, bản chất lại là những người
dân nghèo nên họ thiếu vốn, không có điều kiện đầu tư sắm sửa các phương tiện
lớn và hiện đại hơn. Do đó, họ vẫn chủ yếu sử dụng những phương tiện đánh bắt
rất thô sơ, các tàu cá phần lớn là những tàu nhỏ hay chỉ đơn giản là các con
xuồng, mủng, mảng có gắn mô tơ công suất không lớn. Hoạt động khai thác,
đánh bắt diễn ra chủ yếu ở ven bờ, có thể là ở những vùng đất thấp trũng trong
vùng, có thể là ở khu vực cửa sông hay vùng ven biển gần vùng rừng ngập mặn,
bởi ở đây nguồn sản lượng thủy hải sản rất phong phú. Tuy nhiên, nếu tình trạng
này kéo dài sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và gây ảnh hưởng đến môi trường.
Trước thực tế đó, lãnh đạo Tỉnh ủy và chính quyền địa phương đã đưa ra giải
pháp thiết thực là trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng ngập mặn. Với vai trò bảo vệ
hệ thống đê biển và là nơi cung cấp nguồn thủy sản cho ngành kinh tế ngư nghiệp,
việc trồng rừng ngập mặn ven biển là điều hết sức cần thiết và quan trọng.
Hoạt động đánh bắt, khai thác ở vùng ven biển thời kỳ này diễn ra còn nhỏ
lẻ, chủ yếu của những hộ có phương tiện; đánh bắt hay khai thác được đan xen
với sản xuất nông nghiệp, chứ không phải là một ngành kinh tế chính và duy nhất
của họ. Hằng năm, sóng yên biển lặng hay ngư trường dồi dào thì họ ra khơi, còn
ngược lại thì quay về neo đậu, làm ruộng hay nuôi trồng thủy sản. Do đó, việc
khai thác và đánh bắt thủy hải sản chưa mang lại giá trị cao. Song, đó là bước
khởi đầu, mở ra triển vọng lớn cho phát triển kinh tế vùng ven biển ở giai đoạn
sau.
Nuôi trồng thủy sản
Thực hiện Nghị quyết 02 - NQ/HU về quản lý và khai thác kinh tế biển,
chính quyền và nhân dân các xã vùng ven biển đã nhanh chóng kết hợp giữa
hoạt động khai thác, đánh bắt tự nhiên với nuôi trồng thủy sản. Nhận thức được
tiềm năng, thế mạnh của kinh tế biển, ngay từ những năm đầu sau khi mới thành
45
lập, nhiều cơ sở sản xuất hải sản liên doanh với các xã ven biển như: Hợp tác
xã Hóa Lộc, hợp tác xã Kim Hải đã xây dựng được 210 ha nuôi tôm. Đặc biệt,
năm 1993, Công ty thủy sản Ninh Bình đã nuôi thử nghiệm tôm sú, mở ra triển
vọng nuôi tôm sú trên diện tích 500 ha hiện có. Trên cơ sở việc nuôi thử nghiệm
tôm sú thành công, Bộ Thủy sản đã đầu tư cho dự án nuôi tôm công nghiệp Kim
Trung với quy mô 70,5 ha. Do lợi nhuận thu được từ việc nuôi trồng thủy sản
mang lại khá lớn nên đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ, thu hút vốn đầu tư của người
dân, điều này khiến cho ngành nuôi trồng thủy sản càng được đẩy mạnh.
Khác với thời kỳ đầu, từ sau đổi mới, nghề nuôi trồng thủy sản ở các xã
vùng ven biển nói riêng mang tính đại trà và phổ biến hơn. Diện tích nuôi trồng
thủy sản của vùng ngày càng tăng lên, đặc biệt là từ năm 1996 trở đi. Theo số
liệu thống kê của các xã cho thấy, bình quân hằng năm diện tích nuôi trồng thủy
sản ở đây tăng khoảng từ 5 - 10%. Đến năm 2000, tổng diện tích nuôi trồng thủy
sản của các xã vùng ven biển này lên tới 262,18 ha.
Tuy quy mô sản xuất tăng lên nhưng năng suất và sản lượng nuôi trồng
thủy sản giai đoạn này vẫn còn ở mức thấp. Theo những ngư dân ở đây cho biết,
những nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng này là do: trước hết là do bản thân
họ thiếu kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản; thứ đến là do giai đoạn này còn
thiếu những cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt
là nguồn cung cấp giống thủy sản. Đa số họ đều lấy giống tôm tự nhiên ngoài
biển vào là chính nên không kiểm soát được nguồn dịch bệnh. Trước thực trạng
đó đòi hỏi chính quyền các cấp phải có biện pháp giải quyết kịp thời và phù hợp
để nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội từ hoạt động nuôi trồng thủy sản này.
Với những thử nghiệm và thành công bước đầu trong ngành nuôi trồng
thủy sản đã mở ra một hướng đi mới cho nền kinh tế của vùng ven biển nơi đây.
Nuôi trồng thủy sản gắn liền với việc khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có của
vùng là một bước đi đúng hướng. Do đó, chắc chắn ngành kinh tế ngư nghiệp
nói chung và kinh tế nuôi trồng thủy sản nói riêng sẽ có những bước chuyển biến
tích cực ở giai đoạn sau.
46
2.2.3. Kinh tế tiểu thủ công nghiệp
“Nghề thủ công nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là thủ công nghiệp gia đình,
là thủ công nghiệp nông thôn. Phần lớn nông dân đều làm thêm nghề thủ công
và phần lớn thợ thủ công cũng đều làm thêm việc đồng áng” [30, tr.37]. Theo
Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc, sự xuất hiện của một nghề thủ công ở một gia đình
hay một làng, một phường nào đó người ta thường quy về một nguyên nhân là
do ruộng đất ít, ruộng đất xấu, người cày ruộng không làm ra đủ lương thực để
nuôi sống bản thân và gia đình mình. Vì thế mà người ta phải “dĩ nghệ thế điền”
(lấy nghề thủ công thay thế vào việc làm ruộng) để duy trì cuộc sống [41, tr.110].
Sự giải thích này rất đúng với vùng đất ven biển Kim Sơn. Bởi “đồng chua nước
mặn” nên năng suất và sản lượng cây trồng, nhất là cây lúa rất thấp, do đó, cư
dân nơi đây đã phải tìm đến các ngành kinh tế khác để góp phần làm tăng thêm
thu nhập, cải thiện đời sống của mình, trong đó chủ yếu là làm thêm các nghề
thủ công.
Hơn nữa, bản thân sản xuất nông nghiệp lúa nước hay nghề trồng cói của
vùng ven biển nơi đây luôn mang tính thời vụ - “nhất thì, nhì thục” nên không
bao giờ sử dụng hết thời gian và sức lao động của người nông dân. Nếu như ở các
vùng nội đồng, nguồn nước thuận lợi cho tưới tiêu nên một năm có thể sản xuất
hai vụ, người nông dân có nhiều việc làm hơn nhưng vẫn có thể làm thêm nhiều
nghề khác nhau. Hơn thế nữa, ở các xã vùng ven biển, mỗi năm chỉ cấy một vụ
lúa thì người nông dân còn “nhàn hạ” hơn rất nhiều. Vì thế, với nghề thủ công
nghiệp truyền thống sẵn có của huyện Kim Sơn, cộng thêm vừa có thời gian và
sức lực, lại sẵn bản tính cần cù, chịu khó, những cư dân vùng ven biển Kim Sơn
đã tìm thêm các nguồn lợi khác từ việc phát triển tiểu thủ công nghiêp.
Cũng giống như trong vùng nội đồng, cư dân các xã vùng ven biển biết
đến rất nhiều nghề thủ công khác nhau như: nghề dệt chiếu, đan lát, xe quại, khâu
thảm, nghề làm mộc Tất cả các nghề này đều mang tính cá nhân, hộ gia đình
47
nhỏ lẻ; sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày, trong đó, nghề
dệt chiếu là nghề phổ biến hơn cả.
Với diện tích trồng cói lớn nhất huyện Kim Sơn, vùng ven biển huyện Kim
Sơn luôn có nguồn nguyên liệu cói dồi dào nhất; do đó các nghề thủ công nghiệp
từ cói phát triển, trước hết phải nhắc đến là nghề dệt chiếu. Đây là một trong
những nghề thủ công nghiệp truyền thống từ lâu đời của huyện.
Sau những ngày thu hoạch lúa, người dân vùng ven biển Kim Sơn nói
riêng và nhân dân trong cả huyện nói chung, từ già, trẻ, gái, trai tùy theo từng
công việc, ai nấy đều làm cói. Đến với vùng đất ven biển Kim Sơn thời gian
này, đặc biệt là ở xã Kim Trung, gần như nhà nào cũng có khung dệt chiếu.
Để có thể dệt chiếu thì cần phải ít nhất 2 người: người ngồi dệt chiếu và người
văng cói.
Người ngồi dệt chiếu, hai bàn tay cầm go đập vào lại đẩy ra thoăn thoắt,
đập go đến đâu bẻ biên đến đó, hết tay phải lại tay trái, ngón tay bắt biên như
múa. Go làm bằng tre, có nhiều thanh như phím đàn, mỗi thanh một lỗ giữ
một sợi đay. Đập go mạnh, lá chiếu sẽ dày. Mắt phải tinh, chính xác, thuộc
từng nét cải để không đan lỗi. Nét chữ, đường họa tiết, hoa văn, đường chỉ cải
to hay nhỏ, vuông hay tròn đều phải theo mẫu, tính chi li đến từng sợi cói, sợi
đay dệt.
Người văng cói phải để bên hai bó cói trở ngọn, gốc nhặt từng sợi cói,
quấn vào đầu văng, lao nhanh vào giữa hai dàn sợi dây. Nguyên tắc văng cói là:
cứ 1 gốc lại 2 ngọn, 2 gốc là 1 ngọn (nếu dệt chiếu đàn chỉ một gốc, 1 ngọn).
Văng cói phải nhẹ nhàng theo người dệt. Sự thuần thục của 2 người văng và
người dệt chiếu giống như bác sỹ mổ và người phụ mổ trong ca phẫu thuật, tới
mức không cần nhìn nhau vẫn hòa nhập, hoàn hảo [8, tr.174 - 175].
Người dân Kim Sơn dệt nhiều loại chiếu khác nhau: Chiếu trơn (chiếu
không cải hoa); chiếu đàn (chiếu trơn vào loại xấu), chiếu đậu (chiếu màu trắng
ngà, làm bằng thứ cói tốt); chiếu hoa còn gọi là chiếu bông (chiếu có cải hoa hoặc
48
in hoa) Cũng giống như người dân của huyện Kim Sơn, những cư dân vùng ven
biển luôn coi nghề dệt chiếu cải hoa là nghề truyền thống. Chiếu cải hoa luôn được
coi là mặt hàng đặc sản của cả huyện Kim Sơn nói chung. Bố cục cải hoa trong lá
chiếu đối xứng chặt chẽ đến nghiêm ngặt: cạp điều rộng, đường chỉ thẳng, 4 góc
và xung quanh là những hoa văn đẹp, chữ “Thọ” bằng Hán tự tròn vuông ở giữa,
hai đường thẳng và cong biến cải hoa mỹ uyển chuyển ở hàng viền 4 bên và tụ lại.
Trên và dưới chữ cải còn có các hàng chữ cải: “Chúc mừng”, “Hạnh phúc” hoặc
“Cung chúc”, “Tân xuân” hài hòa, đẹp đẽ như một tác phẩm nghệ thuật, không
tả hết thành lời. Chiếu chỉ có 2 màu: đỏ tươi và trắng hồng. Màu trắng hồng là
màu nền của chiếu, nõn nà như lụa. Màu đỏ tươi rực rỡ là màu cải hoa, cải chữ,
thể hiện ước mơ của con người.
Để làm ra một lá chiếu cải hoa là cả một quá trình lao động sáng tạo, vất
vả, thận trọng của người dân từ khâu trồng cói, chọn cói sao cho dài và đều, phơi
cói sao cho trắng nõn, nhuộm cói sao cho đỏ tươi và bền màu, sợi đay phải nhỏ
và bền, đến khâu dệt cải hoa mang tính nghệ thuật cao.
Dệt chiếu cải hoa hay nghề dệt chiếu của vùng ven biển cũng như của cả
huyện Kim Sơn nói chung là một nét đẹp nghệ thuật truyền thống, vừa góp phần
khẳng định nét đặc trưng của vùng ven biển lúa - cói Kim Sơn, đồng thời góp
phần tăng thêm thu nhập cho người dân nơi đây.
“Thủ công nghiệp là thước đo trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa
trong khu vực” [41, tr.114]. Ở Kim Sơn cũng vậy, nghề thủ công nghiệp phát
triển, sản phẩm hàng hóa làm ra ngày càng nhiều. Nhưng vì đại bộ phận các gia
đình nông dân ở đây phát triển thủ công nghiệp không phải để thỏa mãn nhu cầu
tự cấp tự túc, mà chủ yếu để đem ra trao đổi, mua bán. Về khách quan mà nói,
điều này làm thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. Các xã vùng ven biển của
huyện Kim Sơn được ra đời trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nên ngay từ đầu, hoạt động mua bán, trao đổi ở đây được mở rộng và
linh hoạt hơn.
49
Hầu hết các hàng hóa trao đổi ở chợ là các sản phẩm từ nông sản, công cụ
dùng trong lao động, đồ dùng sinh hoạt dùng trong cuộc sống hằng ngày Nhìn
chung, cơ cấu mặt hàng trong trao đổi buôn bán ở vùng nội đồng và vùng ven
biển huyện Kim Sơn về đại thể là giống nhau, đều là sản phẩm của kinh tế tiểu
nông và phục vụ cho kinh tế tiểu nông. Có thể nói, hoạt động buôn bán, trao đổi
thời kỳ này của các xã ven biển Kim Sơn chủ yếu mang tính chất vùng, nhỏ lẻ,
chưa thu hút được người dân từ nơi khác đến mua bán.
2.3. Đời sống văn hóa
Nhắc đến văn hóa, có rất nhiều các nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm
khác nhau. Theo tác giả Đào Duy Anh, khái niệm Văn hóa được hiểu một cách
đơn giản: “Văn hóa tức là sinh hoạt”.
Với cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng lại cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói
tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không
phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại,
phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử Cốt lõi của sức sống dân tộc là
văn hóa với nghĩa bao quát, cao đẹp nhất của nó” [63, tr.21].
Dựa trên nhiều khái niệm văn hóa khác nhau, tác giả Trần Ngọc Thêm đã
đưa ra khái niệm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [63, tr.22].
Như vậy, văn hóa là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn. Để tìm hiểu đầy đủ
và sâu sắc về văn hóa của một dân tộc hay một vùng đất không phải là điều dễ
dàng. Trong khuôn khổ không gian và thời gian của luận văn, khi tìm hiểu về
văn hóa của cư dân các xã ven biển huyện Kim Sơn, tác giả tập trung tìm hiểu
đời sống văn hóa vật chất (sinh hoạt hàng ngày, giáo dục, y tế ) và đời sống
văn hóa tinh thần (tín ngưỡng, tôn giáo và lễ hội đặc trưng của vùng).
2.3.1. Văn hóa vật chất
50
Bức tranh về đời sống của cư dân ven biển Kim Sơn khi mới thành lập
được dựng nên thật đơn sơ, hoang dã. Hưởng ứng cuộc vận động đi khai hoang
vùng đất mới của tỉnh, nhân dân từ các nơi đã lần lượt kéo về tập trung tại vùng
đất mới để nhận đất vượt thổ, làm nhà, nhận diện tích khai hoang phục hóa trồng
cói, bước đầu ổn định cuộc sống và tổ chức sản xuất. Thời điểm này, nhân dân
chủ yếu làm nhà theo mái đê Bình Minh II, đó toàn là nhà tạm, nhà được làm từ
tre, luồng và cây sú vẹt. Cây cối hoa mầu chưa trồng được vì nước mặn, nguồn
nước ngọt phục vụ sinh hoạt và chăn nuôi phải đi lấy từ các đơn vị quân đội trong
khu vực. Vào mùa mưa bão, ngoài việc phải lo đến tình trạng mất mùa do nước
biển tràn bờ gây ngập mặn; đồng thời, họ còn lo đến việc chằng chống nhà cửa
để hạn chế thấp nhất những ảnh hưởng do bão lũ gây ra. Cuộc sống của những
người đi mở đất bước đầu gặp phải rất nhiều khó khăn do cơm không đủ no, thực
phẩm đắt đỏ, nước ngọt thiếu thốn, thủy lợi nội đồng phục vụ tưới tiêu còn hạn
chế, giao thông đi lại cực kì khó khăn Mặc dù vậy, những người dân đến đây
đã kiên cường bám trụ, khắc phục khó khăn, từng bước ổn định cuộc sống tại
quê hương mới. Theo số liệu thống kê của xã Kim Trung, đến năm 1999, đời
sống vật chất của người dân đã có nhiều tiến bộ: 70% số hộ được dùng điện, 30%
số hộ có đài cátsec và tivi, 45 hộ xây nhà cấp 4, 100% hộ được dùng nước ngọt
Đó là thành tựu đáng mừng cho những sự cố gắng của chính quyền và nhân dân
nơi đây.
Mặc dù cuộc sống còn rất khó khăn nhưng hoạt động giáo dục của vùng
cũng được quan tâm. Ban đầu, số trường mầm non và tiểu học được xây dựng
trên địa bàn này chỉ là các trường bán công và trường tạm nên cơ sở vật chất và
chất lượng đào tạo còn kém hiệu quả. Trên cơ sở nền kinh tế có sự thay đổi, đời
sống nhân dân được cải thiện, chính quyền các cấp cùng nhân dân trong vùng đã
tích cực chăm lo đến các hoạt động văn hóa - xã hội, với phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm”. Tu sửa và nâng cấp hệ thống các trường cũ thành
các trường kiên cố và bán kiên cố. Nhờ đó, chất lượng giáo dục của vùng được
nâng lên, tất cả các xã trong vùng đều được công nhận xóa mù chữ và hoàn thành
51
phổ cập giáo dục tiểu học. Từng bước khắc phục những khó khăn của vùng, cơ
sở hạ tầng và chất lượng giáo dục của vùng từng bước được nâng lên. Đó là kết
quả đáng ghi nhận về sự cố gắng, nỗ lực của chính quyền và nhân dân vùng ven
biển trong thời gian đầu đầy gian nan thử thách này. Năm 1994, trường Trung
học phổ thông Bình Minh được thành lập, đáp ứng nhu cầu học tập của các xã
phía Nam huyện Kim Sơn, trong đó có 3 xã vùng ven biển nơi đây. Như vậy,
cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa - giáo dục của vùng ven biển Kim Sơn
cũng từng bước vượt qua khó khăn ban đầu và đạt được những kết quả nhất định.
Cùng với sự chăm lo cho sự nghiệp giáo dục, công tác bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe ban đầu cho nhân dân cũng được chú ý. Do nằm cách xa trung tâm
huyện lỵ nên ngay sau khi được ra đời, chính quyền các cấp đã chú trọng đầu tư
xây dựng hệ thống cơ sở y tế cho các xã trong vùng. Do đó, không một xã nào là
không có trạm y tế và cán bộ y tế. Đội ngũ cán bộ của trạm y tế được củng cố,
các chương trình y tế được tổ chức thực hiện nghiêm túc, các hoạt động tuyên
truyền, vận động nhân dân về công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình được
triển khai thường xuyên. Cùng với chất lượng cuộc sống được nâng cao, chất
lượng của các cơ sở y tế trong vùng cũng liên tục được cải thiện và nâng cấp theo
thời gian.
Như vậy, chúng ta có thể thấy, bức tranh về đời sống văn hóa vật chất của
cư dân các xã vùng ven biển trong giai đoạn này còn ở mức thấp và rất khó khăn.
Do đó, những người dân nơi đây vẫn rất cần sự quan tâm của các cấp chính quyền
để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống.
2.3.2. Văn hóa tinh thần
Tín ngưỡng, tôn giáo
Trong đời sống con người bao giờ cũng có những niềm tin vào một đối
tượng nào đó của tự nhiên hoặc xã hội. Nhân dân huyện Kim Sơn từ bao đời nay
cũng đã hình thành nên niềm tin vào một tôn giáo hay tín ngưỡng nhất định.
Trong đời sống xã hội, niềm tin là nhu cầu thuộc về tâm linh. Một xã hội có niềm
tin lành mạnh sẽ tạo sự ổn định cho sự phát triển của cá nhân và cộng đồng. Đặc
biệt, đối với cư dân lao động “lọc nước lấy cái” nơi vùng ven biển Kim Sơn,
52
niềm tin vào một tín ngưỡng hay tôn giáo giữ một vị trí quan trọng trong đời
sống tinh thần của họ. Sống ở nơi “đầu sóng ngọn gió”, thiên nhiên và biển cả
luôn ẩn chứa một hiểm họa khôn lường, vừa thách thức đối với cuộc sống, vừa
đe dọa đến tính mạng của họ. Vì vậy, họ phải dựa vào lực lượng siêu nhiên nào
đó để làm chỗ dựa và sức mạnh tinh thần giúp họ đương đầu với khó khăn mỗi
ngày.
Ra đời từ công cuộc quai đê lấn biển thời kỳ đất nước đổi mới; hơn nữa,
cư dân đến lập nghiệp lại có nguồn gốc ở tứ xứ nên trên mảnh đất vùng ven biển
này không có các tín ngưỡng dân gian
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_doi_song_kinh_te_van_hoa_cua_cu_dan_cac_xa_ven_bien.pdf