Luận văn Đời sống kinh tế - Văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015

Lời cam đoan. i

Lời cảm ơn.ii

Mục lục.iii

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGưỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI

TỈNH THÁI NGUYÊN. 9

1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên. 9

1.2. Nguồn gốc tộc người. 11

1.2.1. Khái quát về tộc người Mông trước khi đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái

Nguyên . 11

1.2.2. Tộc người Mông ở huyện Võ Nhai (1975 - 2015). 15

Chương 2. ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA TỘC NGưỜI MÔNG Ở HUYỆN

VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015. 20

2.1. Trong nông nghiệp. 20

2.1.1. Về trồng trọt. 20

2.1.2. Về chăn nuôi . 31

2.2. Nghề thủ công gia đình . 32

2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên. 37

2.4. Trao đổi hàng hoá . 38

Tiểu kết chương 2 . 39

Chương 3. ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGưỜI MÔNG Ở HUYỆN

VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015. 40

3.1. Tổ chức xã hội. 40

3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ . 41

3.1.2. Gia đình và hôn nhân . 47

pdf90 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 410 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đời sống kinh tế - Văn hoá của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ năm 1975 đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng tạo nên các tấm vải lanh, làm nên bộ váy áo cho bản thân và gia đình, nhất là người chồng và gia đình người chồng sau này. Se sợi Khung se sợi bao gồm các bộ phận: khung gỗ, bàn đạp bánh xe, các con lăn cắm vào các que gỗ. Khi sợi soắn xong, người ta căng sợi lên dàn quay. Dàn quay được làm bằng gỗ hay bằng tre cao khoảng 90cm, một đầu cắm xuống đất, đầu trên có thể quay tròn được và đục hai lỗ để hai thanh tre dài 500cm - 600cm, bắt lại vuông góc với nhau thành hình dấu cộng. Ở đầu thanh tre có cài que để giữ sợi lanh. Khi vận hành, người ta đẩy trục gỗ quay tròn và cuốn sợi lên khung tre. Khi sợi đã căng trên dàn, họ gỡ xuống và đem phơi một ngày. Sợi khi gỡ từ dàn xuống vẫn còn thô cứng và còn nguyên lớp vỏ xanh của sợi lanh. Để làm sợi lanh có mầu trắng, dùng tro của cây gỗ trai để tẩy. Họ cho sợi vào chảo đun cùng một ít nước, đến khi sợi có độ nóng vừa phải thì rắc tro của cây gỗ trai vào và đảo đều, ủ hai ngày cho sợi ngấm đều nước tro rồi đem giặt, giặt đến khi sợi lanh trắng ra là được. Khi sợi đã trắng như ý muốn, luộc sợi hoà với sáp ong để cho sợi có độ bóng đẹp hơn. Lăn sợi Dụng cụ lăn sợi là một trục lăn làm bằng gỗ tròn, một phiến đá có bản rộng từ 30cm đến 50cm. Khi lăn, họ đặt sợi lên khúc gỗ, lấy phiến đá đặt lên trên rồi đứng lên phiến đá cho trục gỗ lăn đi lăn lại với mục đích làm cho sợi mềm, bóng và các đầu nối của sợi được phẳng đều. Khi lăn sợi xong, họ đưa sợi lên dàn quay để tháo sợi ra; sau đó kéo sợi để làm con chỉ. Mỗi con chỉ thường có từ 10 sợi đến 12 sợi. Dệt vải Khung dệt của người Mông khá đơn giản, gồm hai thanh gỗ dựng đứng cùng với vài thanh ngang đóng thành khung cố định. Khung dệt còn có thoi dệt, dài khoảng 50cm, rộng 12cm, dày 5cm. Trước khi cho sợi vào khung dệt, họ căng cho đủ số sợi dọc của khổ vải. Khi dệt cần phải buộc dây ở trục vòng qua 35 sau lưng, lấy chân đạp làm tách sợi dọc ra, dùng tay đẩy thoi dệt đan sợi ngang qua lại, kéo lực ép sợi cho thật khít thì vải mới đẹp. Kĩ thuật nhuộm chàm Người Mông trồng cây chàm và chế biến thuốc chàm để nhuộm vải. Cây chàm được cắt về, mang ngâm xuống nước cho đến khi mục rữa ra; gạn lấy nước đem hoà với tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm. Vải được nhúng vào nước lã cho ngấm đều, rồi ngâm vào vại nước chàm, ủ qua một đêm, hôm sau giặt qua nước lã rồi đem phơi khô. Khi vải khô, lại nhúng vào nước chàm, rồi mang phơi khô... Công việc đó lặp đi lặp lại nhiều lần, cho đến khi nào vải có mầu đen ánh thì được. Cắt và khâu y phục Người Mông ở Võ Nhai nói riêng và ở các nơi khác nói chung thường tự khâu cho mình những bộ trang phục bằng những mảnh vải tự làm ra. Một mảnh vải thường có khổ rộng từ 35cm đến 50cm, được cắt thành các miếng nhỏ tương ứng với những bộ phận có trên bộ trang phục, sau đó khâu thành váy, áo. Công việc tiếp theo là tạo hoa văn trên các bộ y phục. Thêu thùa trang trí hoa văn trên vải là nét văn hoá đặc sắc của phụ nữ Mông. Họ có cách thêu độc đáo và khéo léo, tạo hoa văn không theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ và óc tưởng tượng. Kĩ thuật thêu thể hiện trên mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Do đó, trước khi thêu, phải tính toán tỉ mỉ tới từng đường kim sợi chỉ, nhớ kích thước từng hoạ tiết trong toàn bộ mảng hoa văn, tạo được tổng thể đồ án hoa văn có bố cục cân đối, hài hoà, mang tính thẩm mĩ cao trong trang phục. Hoạ tiết hoa văn phổ biến là hình sừng trâu, con ốc, các hình chữ thập ngoặc và hình móc câu gắn với cảnh quan thiên nhiên và quan niệm của tộc người. Hiện nay đa số phụ nữ Mông đều biết đến nghề dệt, họ vẫn có thể kéo sợi dệt nên những bộ quần áo đặc trưng của tộc người mình. Mặc dù có rất nhiều chỉ 36 thêu và vải có hoa văn gần giống hoa văn trên trang phục truyền thống của phụ nữ Mông được bán tại các phiên chợ, nhưng phần lớn thiếu nữ Mông ở Võ Nhai vẫn tự tay thêu và may lấy một bộ trang phục dùng để mặc khi cưới chồng và dùng vào những dịp lễ tết quan trọng sau này trong gia đình. Trang phục hằng ngày của họ hiện nay chủ yếu vẫn là từ sản phẩm thủ công. - Nghề nấu rượu ngô Nấu rượu ngô cũng được coi là một nghề của người Mông ở Võ Nhai. Rượu ngô của đồng bào có mùi thơm đặc trưng, uống rất êm, dễ uống nhưng lại rất dễ say. Để chưng cất được loại rượu có một không hai này, ngoài nguyên liệu chính là ngô thì chất gây men không thể thiếu là lá rừng. Men lá được pha chế từ hơn 20 loại thảo dược quý hiếm như: Cây dây nước, trầu rừng, dây ngọt, rong rừng..., có tác dụng chữa lành vết thương, phong thấp, thấp khớp. Muốn rượu được thơm ngon, ngô phải được trộn trực tiếp với củ giềng, rau răm và lá quế đã xay nhỏ, với một tỷ lệ nhất định tuỳ theo bí quyết của mỗi gia đình sau đó mang ủ vào thùng gỗ từ 20 đến 30 ngày cho ngô có thể lên men đều mới mang chưng cất. Khi ngô đã lên men đều, họ cho ngô vào chõ gỗ và đặt vào chảo bắt đầu nấu rượu. Sau 3 giờ liên tục thay nước, đun lửa đều, công đoạn chưng cất mới hoàn thành. Rượu chưng cất được thường khoảng 30 - 35 độ. Hiện nay, nghề nấu rượu ngô của tộc người Mông vẫn tiếp tục phát triển, trở thành đặc sản rất được ưa chuộng và bán rất chạy trên thị trường huyện. Nghề bốc thuốc chữa bệnh Cũng giống như các tộc người khác, người Mông nói chung và người Mông ở Võ Nhai nói riêng có một kho tàng kiến thức truyền đời về các loại cây thuốc chữa bệnh, thuốc bổ và các bài thuốc chữa bệnh. Các bài thuốc ban đầu thường chỉ được truyền trong dòng họ và dùng để chữa bệnh cho người trong gia đình. Nhưng do tính hiệu quả và độc đáo của các bài thuốc của họ, bốc thuốc chữa bệnh dần dần trở thành một nghề. Cây thuốc chủ yếu là sản vật của 37 rừng, dựa vào kinh nghiệm truyền miệng từ đời này sang đời khác mà không có sự ghi chép. Người Mông ở các xã Thượng Nung, La Hiên, Phương Giao... biết lấy cây sau sau cùng một vài loại lá cây khác, hơ nóng, dải ra giường nằm để chữa bệnh đau xương, khớp và để những người bị gãy xương nhanh lành. Các bài thuốc lá tắm cho phụ nữ sau khi sinh nở của đồng bào Mông ở Võ Nhai cũng rất được đồng bào các dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn huyện tin dùng. Ngày nay, nghề bốc thuốc chữa bệnh không còn phổ biến ở đồng bào Mông do sự thay đổi của môi trường sống và dịch vụ y tế phát triển. - Nghề đan lát Sản phẩm đan lát là các loại gùi, sọt, lồng gà, nơm úp gà. Nguyên liệu để đan lát là các loại cây như nứa, mai, dang. Mùa đan lát là tháng 1- 2, là lúc nứa, mai ... đang độ bánh tẻ, cũng là thời gian nông nhàn. 2.3. Khai thác nguồn lợi tự nhiên Địa bàn cư trú của người Mông chủ yếu trên các cao nguyên và vùng núi cao. Sống gần gũi với thiên nhiên, được thiên nhiên ưu đãi của cải tự nhiên có thể tận dụng được, đồng bào Mông đã tranh thủ khai thác tất cả các nguồn lợi sẵn có của núi rừng. - Hái lượm Cùng với săn bắt, hái lượm là một hình thức phổ biến của các gia đình người Mông ở Võ Nhai. Rừng là nơi cung cấp cho họ một lượng lớn thức ăn từ hái lượm, như các loại hoa quả (đu đủ, chuối, nhãn...), rau, củ rừng (ngót hương, tầm bóp, củ mài...), củ rễ....theo kinh nghiệm cổ truyền. Bên cạnh đó, các loại lâm sản quý, các loại cây thuốc chữa bệnh... là nguồn góp phần bổ trợ cho kinh tế gia đình họ. Công việc này diễn ra quanh năm do mỗi mùa lại có những nguồn lợi riêng biệt từ hái lượm đem lại. 38 Các loại rau, củ hầu như được đồng bào thu hái quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào mùa xuân và mùa hạ. Rau, củ thu nhặt được dùng trong bữa ăn chính làm thức ăn như củ mài (hoài sơn), rau ngót rừng, măng rừng. Nhiều củ, quả có thể được chế biến để dành ăn vào những tháng giáp hạt như củ mài, củ rong, củ nâu. Trong số các sản phẩm thu nhặt được, nhiều thứ có thể dùng làm thuốc bổ chữa bệnh, như mật ong, sa nhân. Các loại măng, mộc nhĩ, nấm hương thường được thu hái ngoài việc phục vụ bữa ăn gia đình, còn được đồng bào đem bán vì có giá trị kinh tế cao. 2.4. Trao đổi hàng hoá Khi mới di cư về Võ Nhai, do địa bàn cư trú tương đối cách biệt nên mỗi gia đình, mỗi bản Mông là một đơn vị kinh tế tự cấp tự túc. Hoạt động trao đổi chưa phát triển và nhu cầu trao đổi chưa phải là cấp thiết. Từ năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, hệ thống đường liên thôn, liên bản đã giúp cho việc trao đổi hàng hoá của người Mông với các tộc người khác thuận lợi hơn nhiều. “Việc trao đổi hàng hóa chủ yếu trong các chợ phiên”[49]. Sản phẩm đem bán thường là lá để làm bánh các loại, mục nhĩ, nấm hương, cây thuốc lấy trong rừng, gà, đồ dệt. Sản phẩm mua về thường là muối, thịt, cá, chỉ thêu, đồ trang sức ... Ở Võ Nhai, không có chợ dành riêng cho tộc người Mông mà chợ phiên của tất cả các tộc người cùng một xã, hoặc vài xã gần nhau. Chợ phiên tại các xã được tính theo lịch âm. Chợ phiên ở Dân Tiến họp các ngày 4, 9, 14, 19, 24 và 29; ở La Hiên họp vào các ngày 3, 8, 13, 18, 23 và 28 hằng tháng. Ngoài chợ phiên, ở Võ Nhai còn có tổ chức phiên chợ tình của người Mông vào ngày 26 tháng 3 âm lịch [20]. Đến Thái Nguyên, do địa hình địa bàn cư trú ở thấp hơn so với ở Cao Bằng, Hà Giang, chợ búa thuận tiện hơn nên người Mông ở Võ Nhai cũng dần bỏ thói quen đi chợ từ chiều ngày hôm trước (chợ chiều). Đi chợ đối với người Mông vẫn là sự hài hoà giữa hoạt động kinh tế và văn hoá. Nó thể hiện rõ hai yếu tố: Trao đổi, mua bán và giao lưu văn hóa giữa người Mông với người 39 Mông và giữa người Mông với các tộc người khác. Thông qua các phiên chợ, mối quan hệ giữa họ ngày càng gắn bó, thân thiện hơn. Hàng hóa được đem ra trao đổi, mua bán, thúc đẩy đời sống của đồng bào ngày càng phát triển. Đến nay, đời sống của tộc người Mông ở huyện Võ Nhai đã có nhiều thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần được nâng lên. Đạt được kết quả này, ngoài sự nỗ lực của người dân còn có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước. Riêng trong 5 năm (2010 - 2015), đã có 20 hộ đồng bào Mông được hỗ trợ làm nhà ở theo Chương trình 134 và Quyết định 167 của Chính phủ; 4 hộ được hỗ trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt phân tán; 33/33 hộ dân trong huyện được hỗ trợ sản xuất (máy móc, cây, con giống) với số tiền hàng tỉ đồng [41]. Tiểu kết chƣơng 2 Sinh sống trong điều kiện của một huyện miền núi Võ Nhai, đời sống kinh tế của người Mông chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá. Trong đó, trồng trọt là lĩnh vực chính; chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi hàng hoá chỉ đóng vai trò bổ trợ. Hoạt động của tộc người Mông trong lĩnh vực chăn nuôi nhằm đáp ứng nhu cầu về sức kéo, vận chuyển, cung cấp nguồn phân hữu cơ phục vụ trồng trọt và nhu cầu về thực phẩm. Hoạt động của các nghề thủ công chỉ diễn ra vào lúc nông nhàn, góp phần tăng nguồn thu nhập cho các hộ gia đình. Bên cạnh đó, kinh tế hái lượm, trao đổi hàng hóa ở chợ phiên cũng thực hiện chức năng hỗ trợ cho nông nghiệp. Từ những năm 90 của thế kỉ XX, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương, của các tộc người khác, cuộc sống định canh định cư của người Mông ở huyện Võ Nhai đã và đang có những chuyển biến rõ rệt. Việc sống xen cư với các tộc người khác trong huyện đã tạo điều kiện giúp tộc người Mông ở Võ Nhai giao lưu, học hỏi các kinh nghiệm trong đời sống kinh tế, làm phong phú thêm bản sắc văn hoá tộc người mình. 40 Chƣơng 3 ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƢỜI MÔNG Ở HUYỆN VÕ NHAI TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 2015 Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã nêu lên quan điểm chỉ đạo về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số: Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. “Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc, là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em” [5]. Trong mỗi tộc người, văn hóa là cái không thể tách rời, là một yếu tố không thể thiếu được trong cuộc sống con người, nó ăn sâu, bám rễ vào cuộc sống của các thế hệ, tạo nên nét đặc trưng riêng biệt của từng tộc người, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của Quốc gia dân tộc. Di cư đến huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên từ những năm 80 của thế kỉ trước, người Mông ở Võ Nhai vẫn giữ cho mình những nét đặc trưng riêng có của tộc người mình. 3.1. Tổ chức xã hội Mỗi tộc người đều có cấu trúc xã hội mang những nét đặc thù, tồn tại qua nhiều thế hệ và tiếp diễn đến nay. Bên cạnh những yếu tố lạc hậu, tiêu cực cần loại bỏ, còn có rất nhiều yếu tố tích cực cần được gìn giữ, phát huy. Đó chính là những giá trị văn hoá mang tính truyền thống của mỗi tộc người. Tổ chức xã hội của tộc người Mông ở Võ Nhai là một điển hình của tộc người cư trú ở địa bàn miền núi. 41 3.1.1. Cộng đồng làng bản, dòng họ Về tổ chức cộng đồng làng bản Do nguồn gốc lịch sử và sự chi phối của điều kiện tự nhiên, người Mông di cư và tự phát sống cụm thành làng bản. Làng là đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất ở tộc người này. Người Mông gọi làng là Jaol hay Jol, Jêz Jol - đều có nghĩa là “ổ” hay “tổ”, tức chỉ một cộng đồng cùng chung sống trong khu vực địa lí nhất định. Làng Mông được hình thành trên sự tụ cư của những nhóm người có hay không có mối quan hệ huyết thống. Bởi vậy, mối quan hệ cộng đồng làng ở tộc người này thực chất là mối quan hệ của các thành viên cùng dòng họ và giữa các dòng họ cùng địa vực cư trú. Mật độ cư trú trong bản tuỳ thuộc vào địa hình, phạm vi đất đai; trung bình mỗi bản có từ 25 đến 40 nóc nhà và có bãi chăn thả chung. Cũng do điều kiện của địa hình và điều kiện tự nhiên, nhà của người Mông ở Võ Nhai thường làm ở khu vực lưng chừng đồi thấp hoặc lẻ tẻ vài ba nhà ở một quả đồi; ở những khu vực bằng phẳng thì tập trung nhiều hơn và sát gần nhau. Nhà trong bản không theo một hướng nhất định, nhưng rất kiêng quay lưng ra sông suối, khe hay vực sâu; thông thường nhà dựa lưng vào núi. Mỗi bản đều có địa giới riêng và được quy định khi khai phá lập bản dần dần hình thành ý thức của các thành viên trong bản về chủ quyền lãnh thổ của mình. Ranh giới giữa các bản có thể là một bìa rừng, một ngọn núi hay một con suối. Mỗi bản có quyền sở hữu, quản lí, bảo vệ và sử dụng đất, rừng, ruộng nương, nguồn nước cũng như tài nguyên trong phạm vi của mình. Các bản còn có khu vực công như nhà văn hóa, bãi đất rộng để tổ chức các hoạt động lễ, tết, vui chơi. Đứng đầu mỗi bản có Trưởng bản (Trưởng xóm), tiếng Mông gọi là chư dò hay chư dỉnh. Các Trưởng bản có nhiệm vụ thực hiện những công việc chung của bản, như triển khai những chủ trương, chính sách của Đảng đến đồng bào, những chính sách an sinh xã hội, quy ước chung của bản đã đề ra và đôn đốc mọi người thực hiện. Trưởng bản được bầu dựa trên sự tín nhiệm 42 của nhân dân trong bản, theo cơ cấu của xã và có trình độ chuyên môn nhất định. Trưởng bản phải là người biết ứng xử, nói được, làm được, có kinh nghiệm trong sản xuất. Bên cạnh Trưởng bản còn có già làng là những người có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, am hiểu phong tục tập quán, là người được dân bản kính trọng. Trong phạm vi một bản, các gia đình được phép khai phá đất đai làm nương rẫy, theo những quy định chung: Nơi nào có dấu hiệu là đất đã có chủ thì không được xâm phạm, nếu muốn làm trên đất của người khác thì phải hỏi ý kiến kèm theo chút quà là một con gà và chai rượu cho người đã có công khai phá; Người ở bản khác đến khai phá phải hỏi Trưởng bản, mang theo rượu, gà. Nếu được đồng ý thì còn phải nộp thêm lệ phí cho bản tuỳ theo chất lượng đất canh tác; nhưng sau 3 - 5 năm phải trả lại cho bản. Những nương ngô, ruộng lúa sau 3 đến 4 năm mà gia đình đó không canh tác nữa thì thuộc sở hữu công cộng. Để bảo vệ nguồn nước của bản, vào cuối năm Trưởng bản đứng ra điều hành việc tu sửa, mọi gia đình đều phải cử người đến góp sức. Người Mông cấm tắm giặt, mổ lợn gà ở nguồn nước cũng như chặt phá rừng để làm nương rẫy ở những khu vực rừng do bản quy định, nếu vi phạm sẽ bị phạt. Những lễ nghi liên quan đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng chiếm vị trí quan trọng. Đầu năm mới, các bản tổ chức lễ cúng ma bản. Các thành viên trong bản có ý thức cộng đồng, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như khi có công việc ma chay, cưới xin, làm nhà mới, thăm hỏi giúp đỡ nhau khi sinh đẻ hay lúc ốm đau, hoạn nạn. Cộng đồng người Mông cư trú trên một phạm vi chủ yếu theo quan hệ huyết thống cùng thực hiện những quy ước chung. Bản của người Mông là quan hệ thôn xã cổ truyền, có vai trò quan trọng trong đời sống. Trong điều kiện sản xuất cá thể, du canh, du cư, kinh tế mang tính khép kín, cư trú biệt lập ở vùng núi cao, những quan hệ đó được lưu giữ một cách tự nhiên với nhiều mức độ khác nhau. 43 Về tổ chức dòng họ Người Mông gọi dòng họ là “xềnh” hoặc “xông”. Trong phạm vi rộng: Dòng họ của người Mông gồm tất cả những người cùng một họ dù người đó cư trú ở đâu. Người Mông quan niệm những người cùng chung một họ là những người “cùng ma”, đều được sinh ra từ một ông tổ nên đều là anh em. Khi đã nhận nhau là người cùng họ thì dù ở xa đến mấy cũng đều được coi là người nhà và đều chịu sự chi phối của tổ chức dòng họ. Tính cố kết của cộng đồng người Mông rất rộng lớn. Những thành viên cùng dòng họ, cùng tổ tiên còn nhận nhau qua các điều kiêng kị về ăn uống, qua nghi thức cúng ma khô; qua cách cúng, cách đặt hướng mộ, cách làm ma tươi. Những điều kiêng kị này đều gắn với câu chuyện của từng dòng họ được truyền từ đời này sang đời khác, mỗi thành viên đều phải có trách nhiệm ghi nhớ và tuân thủ. Cũng như các tộc người khác, các thành viên trong một dòng họ người Mông gắn bó với nhau bởi một phả hệ cùng có một ông tổ. Ông tổ là người đã chết mà người già ở thế hệ cao nhất còn nhớ, thông thường là 3 thế hệ: con (tua nhủa), cha (nia), ông (pò cúng). Các dòng họ phổ biến của người Mông ở Võ Nhai là Lý, Sần, Hoàng, Sùng, ...trong đó đông nhất là dòng họ Lý. Các dòng họ trên phân bố ở nhiều bản khác nhau, nhưng mỗi bản có một hoặc hai dòng họ chiếm số đông. Chẳng hạn, tại xóm Lân Vai xã Dân Tiến, dòng họ Lý chiếm số đông; ở bản Đồng Ươm thì dòng họ Sùng chiếm số đông. Các gia đình cùng họ ở đây thường sống chung với nhau, song không có chỗ thờ cúng tổ tiên chung. Mỗi dòng họ đều có một trưởng họ, là người có vị trí hết sức quan trọng và được coi là linh hồn của dòng họ. Trưởng họ là người có đạo đức, công tâm, hiểu biết về lịch sử dòng họ, thành thục phong tục tập quán, biết các bài cúng của dòng họ, có tài ứng xử. Trưởng họ là người có khả năng tổ chức, có kinh nghiệm trong sản xuất, biết quan tâm đến đời sống và bảo vệ lợi ích của dòng họ, gây được ảnh hưởng tốt đối với các thành viên trong họ, được mọi người 44 kính trọng. Trưởng họ cũng là người chịu trách nhiệm trước dòng họ truyền đạt lại những tục lệ, kinh nghiệm của dòng họ cho con cháu, vận động các thành viên giữ gìn đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau. Với uy tín và sự hiểu biệt của mình, trưởng họ được các thành viên tin cậy, chia sẻ ý kiến; do đó tiếng nói của trưởng họ có vai trò rất quan trọng, thậm chí là quyết định. Ngày nay, trưởng họ là người có vai trò tích cực vận động các thành viên trong dòng họ mình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời phối hợp với chính quyền địa phương để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí xã hội trong cộng đồng người Mông. Bên cạnh trưởng họ, trong tổ chức dòng họ còn có vai trò của bà cô (phâux) và người cầm quyền ma quyển khách (cho đáng khô). Bà cô là người có thể quyết định thay thế một tập quán dù lâu đời nhưng không còn phù hợp. Người cầm quyển ma quyển khách là người có thể đảm nhiệm những việc liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng và các công việc đối ngoại. Tổ chức dòng họ bao gồm trưởng họ, bà cô, người cầm quyển ma quyển khách được coi là bộ máy tự quản rất hữu hiệu và quan trọng trong xã hội của tộc người Mông. Đây là những người làm nhiệm vụ theo dõi, đề xướng hướng giải quyết những công việc liên quan đến đời sống vật chất, tinh thần, tâm linh của các thành viên trong dòng họ cũng như công việc liên quan đến cộng đồng xã hội nói chung. Các đặc trưng của dòng họ: Trước hết ngoại hôn tuyệt đối là đặc trưng nổi bật trong dòng họ của người Mông. Người cùng họ, cùng thờ một ông tổ dù xa đến mấy đời cũng không được kết hôn với nhau, trước đây còn có quy định người Mông không được lấy người dân tộc khác. Người trong một họ kết hôn với nhau sẽ bị coi là phạm tội loạn luân và bị phạt rất nặng. Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ tộc người Mông được thể hiện rất rõ trong nét cư trú. Trước đây, các gia đình thường di cư theo dòng họ nên có 45 hiện tượng một bản chỉ có một dòng họ. Hiện nay, hình thức cư trú xen kẽ giữa các dòng họ trong một bản tương đối phổ biến. Dòng họ nào có công khai phá, lập bản thường có nhiều quyền lợi hơn, như được giữ chức Trưởng bản, được chủ trì lễ cúng đuổi ma, cúng thổ thần, có ruộng nương nhiều. Mặt khác, các gia đình trong cùng một họ có thể cư trú ở nhiều vùng, nhiều nơi khác nhau, nhưng luôn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những người cùng dòng họ đùm bọc, giúp đỡ nhau bằng sức lao động và tiền của khi một gia đình trong họ có việc ma chay, cưới xin, dựng nhà hay những lúc khó khăn, hoạn nạn. Sự thống nhất về tư tưởng của dòng họ cũng biểu hiện rõ nét. Cứ 3 năm một lần, vào ngày 29 Tết Nguyên đán, các thành viên trong họ lại tập trung ở nhà trưởng họ để làm lễ “Tusu”. Đây là lễ cúng để trừ tà ma, cầu mong ông tổ phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh, làm ăn tốt lành. Thầy cúng sẽ gọi tên từng hộ gia đình, đọc đến nhà ai thì nhà đó mang các hình nhân được cắt bằng giấy bản và vũ khí giả bằng gỗ đến bỏ vào chiếc gùi. Thầy cúng một tay cầm bó hương, một tay cầm dao, miệng đọc thần chú đuổi các hồn ma không được quấy nhiễu người sống; đồng thời cầu mong cho các gia đình trong họ không gặp tai ương. Nghi lễ này nhằm tăng cường sự cố kết cộng đồng dòng họ. Một đặc trưng khác của dòng họ người Mông được biểu hiện qua cách thức tổ chức lễ ma khô (ma bò). Đây là lễ con cái đền ơn cha mẹ hoặc làm cho người nhà đã mất. Theo phong tục, dù hoàn cảnh có khó khăn như thế nào, người con trai cũng phải làm đám ma khô một lần để đền ơn công lao bố mẹ, người đã khuất. Đám ma khô thường được tiến hành sau khi bố (mẹ) qua đời từ 3 đến 5 năm, nếu gia đình nào có điều kiện thì sau 15 ngày là có thể làm. Lễ làm ma khô thông thường phải mổ bò để cúng, tuy nhiên nếu dám ma tươi đã có bò cúng rồi thì ở đám ma khô có thể dùng lợn, dê hoặc chó. Con vật làm lễ cúng phải đẹp, không có khuyết tật, lông đồng mầu, không được chọn con vật đã chết hoặc đã làm thịt. Mọi thành phần làm ma khô phải đầy đủ từ thầy cúng, khèn, trống, chủ nhà, chủ bếp, Trưởng bản đến tất cả anh em trong dòng họ. 46 Mọi người được báo trước ít nhất 10 ngày. Đến ngày làm ma, khi mọi thành phần đến đông đủ, tang chủ thông báo với trưởng họ về ý định và khả năng tổ chức của gia đình, thời gian tiến hành, thực phẩm để trưởng họ và mọi người cùng giúp sức. Sự phân biệt dòng họ còn thể hiện trong đám “ma tươi”. Có dòng họ không đưa người chết vào quan tài mà trước hôm đem chôn, người ta mang người chết ra ngoài bãi gọi là cho người đi “tàu sang”. Có họ (họ Lý) thì khiêng cáng người chết chạy đến huyệt mới đặt người chết vào quan tài. Có họ thì cho người chết vào quan tài từ lúc ở nhà. Trong đám ma chỉ có người trong dòng họ mới khiêng quan tài. Cách đặt thi hài lên cáng, cách đặt mả cũng khác nhau. Nếu dòng họ nào không tổ chức đám tang theo đúng nghi lễ của dòng họ mình, sẽ bị dân bản chê cười vì người Mông quan niệm: “Làm ăn, làm uống ta có thể học người khác nhưng làm ma thì không học theo người ta”. Văn hóa ứng xử của tộc người Mông cũng tồn tại chủ yếu dựa trên phong tục, tập quán của dòng họ mà nổi bật là những luật tục liên quan đến trật tự xã hội, đến vấn đề khai thác và sở hữu đất đai canh tác, những luật tục quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong cộng đồng. Đặc biệt dòng họ như một tín hiệu để các thành viên của tộc người này nhận biết nhau. Người Mông sống ở đâu, thuộc nhóm nào, khi gặp nhau bao giờ họ cũng hỏi nhau thuộc dòng họ gì. Đó là đặc điểm hiếm thấy ở những tộc người khác. Thời gian và nhịp điệu phát triển của cuộc sống cùng sự tác động của các yếu tố văn hóa bên ngoài dần ảnh hưởng đến xã hội Mông ở Việt Nam nói chung và ở Võ Nhai nói riêng. Cuộc sống của tộc người Mông vừa chịu sự chi phối của mối quan hệ truyền thống, vừa chịu tác động mạnh mẽ của mối quan hệ xã hội mới theo cơ chế pháp luật của Nhà nước. Từ đó, mối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_doi_song_kinh_te_van_hoa_cua_toc_nguoi_mong_o_huyen.pdf
Tài liệu liên quan